Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

ĐẦU tư nước NGOÀI TRONG HOẠT ĐỘNG đổi mới và CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.68 KB, 8 trang )

ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG HOẠT ĐỘNG ĐỔI MỚI
VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM
(Bộ Khoa học Công nghệ)
Kể từ khi thực hiện chính sách mở cửa và thu hút đầu tư nước ngoài
(ĐTNN), đến nay đã qua 25 năm, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một kênh
thu hút vốn quan trọng để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cùng với mục tiêu thu hút vốn đầu tư,
FDI được đánh giá là kênh quan trọng để thu hút công nghệ từ các nước có nền
công nghiệp tiên tiến vào Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc đổi mới công
nghệ, nâng cao trình độ công nghệ của toàn nền kinh tế.
1. Về ban hành các cơ chế, chính sách đối với hoạt động FDI trong
lĩnh vực khoa học và công nghệ
Với sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế
thị trường, ngay từ những năm đầu tiên thực hiện chính sách đổi mới, Đảng và
Nhà nước đã coi FDI là một kênh quan trọng để thu hút không chỉ vốn đầu tư
mà kèm theo nó là thu hút công nghệ, máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất
tiên tiến, hiện đại vào Việt Nam. Chính vì vậy, ngay sau khi ban hành Luật Đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 1987, Hội đồng nhà nước đã ban
hành Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam ngày
05/12/1988. Năm 1995 Bộ Luật Dân sự trong đó có Chương 6, phần thứ III quy
định về hoạt động chuyển giao công nghệ (CGCN) đã đánh dấu sự nhìn nhận,
đánh giá vai trò quan trọng của Đảng và Nhà nước đối với FDI trong sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Sau đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 45/1998/NĐ-CP ngày
01/7/1998 quy định chi tiết về chuyển giao công nghê và Nghị định số
11/2005/NĐ-CP ngày 02/02/2005 quy định chi tiết về chuyển giao công nghê
(sửa đổi), trong đó đã bãi bỏ hình thức phê duyệt Hợp đồng CGCN, chuyển sang
hình thức đăng ký Hợp đồng CGCN. Đồng thời, trong thời gian này Bộ Khoa
học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành
các Thông tư số 28/TT-QLKH ngày 22/01/1994 và Thông tư số 30/2005/TTBKHCN ngày 30/12/2005 hướng dẫn một số điều của các Nghị định nói trên.
Các quy định pháp luật thời gian này đã thường xuyên được cập nhật, bổ


sung sửa đổi để đáp ứng được yêu cầu tăng tính tự chủ của doanh nghiệp, nhưng
vẫn đảm bảo vai trò kiểm tra, giám sát hoạt động CGCN của Nhà nước.
76


Năm 2006, Luật Chuyển giao công nghệ được Quốc hội thông qua ngày
29/11/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007. Lần đầu tiên hoạt động
CGCN đã được Luật hóa, là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao
nhất từ trước đến nay và được đánh giá là rất thông thoáng, tạo cho các tổ chức,
cá nhân tính tự chủ cao nhất trong quá trình đàm phán, thương thảo, ký kết và
thực hiện CGCN. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 133/2008/NĐCP ngày 31/12/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Chuyển giao công nghệ.
Luật CGCN đã có nhiều điểm mới cơ bản so với các văn bản quy phạm
pháp luật về CGCN trước đây:
- Ban hành ba Danh mục: Danh mục công nghệ khuyến khích chuyển
giao, Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao và Danh mục công nghệ cấm
chuyển giao.
- Không khống chế mức phí thanh toán tối đa cho CGCN.
- Không quy định thời hạn tối đa của Hợp đồng CGCN.
- Quy định về ngôn ngữ Hợp đồng và Luật áp dụng phù hợp hơn với xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế về khoa học và công nghệ.
Luật quy định trong trường hợp CGCN thuộc Danh mục công nghệ
khuyến khích chuyển giao, các bên tham gia giao kết Hợp đồng CGCN có quyền
tự nguyện đăng ký để hưởng ưu đãi theo quy định pháp luật.
Đồng thời Luật Công nghệ cao năm 2008 được ban hành quy định các
chính sách, biện pháp khuyến khích, thúc đẩy hoạt động công nghệ cao. Theo
đó, các doanh nghiệp công nghệ cao, dự án ứng dụng công nghệ cao được hưởng
ưu đãi cao nhất theo quy định pháp luật.
2. Thành tựu đổi mới và chuyển giao công nghệ trong 25 năm qua
Cùng với việc cung cấp nguồn vốn quan trọng cho phát triển kinh tế, tạo

thêm nhiều công ăn việc làm, FDI đã góp phần thúc đẩy đổi mới và chuyển giao
công nghệ, từng bước nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Đặc biệt, trong
các lĩnh vực: dầu khí, giao thông, xây dựng, cơ khí chế tạo, điện tử - viễn thông
- tin học, dệt may - giầy dép đã đạt được một số kết quả tốt đẹp.
Thông qua FDI, trình độ công nghệ sản xuất trong nước đã được nâng cao
một cách rõ rệt so với thời kỳ trước đây. Một số ngành đã tiếp thu được công
77


nghệ tiên tiến với trình độ hiện đại của thế giới như: Bưu chính - Viễn thông,
dầu khí, xây dựng, cầu đường, … Đồng thời, trong thời gian qua hầu hết các
doanh nghiệp trong nước đã đổi mới hoặc nâng cấp các trang thiết bị đáp ứng
yêu cầu cạnh tranh ngày càng cao của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Thông qua FDI, đã thu hút nhiều công nghệ mới, tiên tiến, sản xuất ra các
sản phẩm mới mà trước đây ở Việt Nam chưa có. Việc CGCN từ nước ngoài
thông qua FDI đã hạn chế đến mức tối đa việc nhập khẩu nhiều loại hàng hóa
thuộc các lĩnh vực: dầu khí, sản xuất vật liệu xây dựng mới, hàng điện tử gia
dụng, phương tiện giao thông,… Các doanh nghiệp FDI đã tạo ra được nhiều sản
phẩm có chất lượng cao, với hình thức, mẫu mã đẹp đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu
của thị trường trong nước và xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài như các sản
phẩm điện tử, cơ khí, chế tạo,…
Nhiều doanh nghiệp FDI đã tổ chức sản xuất các sản phẩm thuộc lĩnh vực
công nghệ cao, xuất khẩu gần 100% sản phẩm ra thị trường nước ngoài thuộc
các lĩnh vực điện tử, quang cơ - điện tử như Công ty TNHH Nidec Tosok, Muto,
Nissei,… Có doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu - phát triển như Công
ty TNHH Renesas Việt Nam với mục tiêu nghiên cứu, phát triển và thiết kế các
phần cứng (vi mạch) và các phần mềm chức năng cho IC bán dẫn (Mạch tích
hợp),…
Nhiều doanh nghiệp trong nước, do thúc ép của thị trường cạnh tranh
ngày càng cao được tạo ra bởi các sản phẩm của các doanh nghiệp FDI đã cố

gắng đổi mới công nghệ bằng việc nhập các thiết bị và công nghệ mới để sản
xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, không thua kém hàng nhập
khẩu với một giá cả hợp lý được người tiêu dùng ưa chuộng như các sản phẩm
may mặc, giầy da, thực phẩm,….
Những thành tựu đạt được nêu trên đã khẳng định chủ trương đúng đắn
của Đảng và Nhà nước đối với thu hút FDI, cũng như chính sách khuyến khích,
thu hút công nghệ của nước ngoài để đổi mới công nghệ, góp phần nâng cao
năng lực công nghệ quốc gia.
3. Hoạt động quản lý, giám sát CGCN trong các dự án ĐTNN
Trước khi ban hành Luật CGCN, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam vừa
chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, việc Nhà
nước kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động CGCN là thực sự cần thiết, vì hầu
hết các doanh nghiệp (chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước) chưa được tiếp cận và
78


cọ sát trong môi trường cạnh tranh của kinh tế thị trường. Do đó, các quy định
như khống chế mức thanh tóan tối đa cho hoạt động CGCN, bắt buụoc phê duyêt
hoặc đăng ký Hợp đồng CGCN, … là cần thiết. Các quy định này đã thực sự
phát huy tác dụng, góp phần giúp các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh
nghiệp liên doanh có sử dụng vốn Nhà nước) trong đàm phán, thương thảo Hợp
đồng CGCN, tránh được thua thiệt trong CGCN. Thực tế là, đã giúp cho các
doanh nghiệp Việt Nam hạn chế được việc thanh toán phí CGCN cao hơn so với
giá trị ban đầu mà phía đối tác đưa ra, như: Hợp đồng CGCN sản xuất đèn hình
(picture tube) giữa Orion Electric Co., Ltd. (Hàn Quốc) với Công ty TNHH đèn
hình Orion Hanel; Hợp đồng CGCN sản xuất xe máy VMEP Việt Nam; Hợp
đồng CGCN sản xuất lốp cao su Inoue Việt Nam,...
Theo số liệu báo cáo của các Sở Khoa học và Công nghệ và đơn vị làm
công tác thẩm định thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, tổng số các Hợp đồng
CGCN đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận hoặc phê duyệt từ năm 1999 đến

tháng 6/2012 trên toàn quốc là 838 hợp đồng. Trong đó, số hợp đồng CGCN
thuộc các dự án FDI chiếm trên 50%. Nội dung các hợp đồng CGCN thường tập
trung vào việc chuyển giao quy trình công nghệ 82%; bí quyết công nghệ 80 %;
trợ giúp kỹ thuật 87%; đào tạo 78%; chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp
21%,... (trong đó, có nhiều Hợp đồng chuyển giao đồng thời nhiều đối tượng
công nghệ nêu trên).
Số liệu thống kê Hợp đồng CGCN các năm còn cho thấy, đa số các Hợp
đồng CGCN thuộc các dự án FDI.
Tuy nhiên, so với số lượng các dự án FDI thì số Hợp đồng CGCN được
đăng ký/phê duyệt lại chiếm tỷ lệ rất thấp, mà theo ý kiến đánh giá của các
chuyên gia, khoảng trên 90% các dự án FDI là có nội dung công nghệ, nhưng
chưa được xem xét đúng mức trong quá trình thẩm định do quy định về hồ sơ
ngày càng đơn giản (không có nội dung giải trình về công nghệ trong hồ sơ dự
án).
Như đã nói ở trên, Luật CGCN đã ban hành ba Danh mục: Danh mục
công nghệ khuyến khích chuyển giao, Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao
và Danh mục công nghệ cấm chuyển giao. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có Hợp
đồng CGCN nào thuộc Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao được các bên
trình cơ quan quản lý có thẩm quyền xem xét, phê duyệt.
4. Một số tồn tại trong đổi mới và chuyển giao công nghệ
79


Hoạt động CGCN trong các dự án FDI đã có đóng góp tích cực đối với
đổi mới và chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực công nghệ của các doanh
nghiệp. Tuy nhiên, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và nhu cầu đổi
mới công nghệ của doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế.
Hoạt động CGCN vẫn còn có một số tồn tại:
- Định hướng thu hút công nghệ cao, công nghệ khuyến khích đầu tư
chưa đạt kết quả đặt ra.

Mặc dù các công nghệ chuyển giao vào Việt Nam hầu hết là các công
nghệ có trình độ bằng hoặc cao hơn công nghệ sẵn có ở Việt Nam, nhưng mới
chỉ đạt mức trung bình hoặc trung bình tiên tiến so với các nước trong khu vực.
Các công nghệ được chuyển giao theo các dự án FDI thường là các công nghệ
được đưa vào theo lợi ích của nhà đầu tư, mà thường không phải theo nhu cầu
đổi mới công nghệ do phía Việt Nam chủ động đưa ra.
Thu hút đầu tư vào các Khu công nghiệp vẫn còn nặng về thành tích lấp
đầy diện tích đất công nghiệp, chưa chú trọng vào việc thu hút các dự án có công
nghệ cao, công nghệ mới.
- Công tác thẩm định công nghệ chưa được quan tâm đúng mức
Nhà đầu tư thường chú trọng, quan tâm hàng đầu đến lợi ích đầu tư, đầu
tư để sinh lợi, nhưng quy định pháp luật lại cho phép nhà đầu tư tự chịu trách
nhiệm về nội dung công nghệ. Thực tế qua thẩm định các dự án FDI cho thấy,
nội dung giải trình công nghệ thường rất sơ sài (nhiều trường hợp không có giải
trình công nghệ), mà công nghệ lại có đặc điểm quan trọng là hàng hóa vô hình.
Để lựa chọn công nghệ phù hợp với mục tiêu của dự án, thường phải đưa ra các
phương án công nghệ để so sánh, lựa chọn phương án tối ưu, xem xét quy trình
công nghệ, trình độ công nghệ, nguồn gốc xuất xứ máy móc, thiết bị, tính đồng
bộ của dây chuyền sản xuất,… Nhưng với xu thế đơn giản hóa thủ tục hành
chính, hồ sơ dự án đầu tư ngày càng đơn giản, nên cơ quan thẩm định công nghệ
không có đủ cơ sở để xem xét, đánh giá. Mặt khác, khi phân cấp đầu tư, hầu hết
các cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đầu tư tại các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương lại không gửi hồ sơ dự án hỏi ý kiến các Sở Khoa học và
Công nghệ theo quy định. Do đó, trong trường hợp nhà đầu tư đưa vào máy
móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều năng lượng, nguyên liệu, gây ô
nhiễm môi trường,… thì không có cơ chế để ngăn chặn ngay từ đầu, mà phải đợi
đến khi hậu kiểm thì không có cơ quan nào chịu trách nhiệm giải quyết hậu quả.
80



Bên cạnh đó, cũng phải thừa nhận năng lực thẩm định của các Sở Khoa học và
Công nghệ còn hạn chế.
- Việc tiếp nhận, học hỏi công nghệ thông qua FDI còn nhiều yếu kém.
Đối với các dự án FDI, việc nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ cho
người lao động là rất quan trọng để có thể từng bước tiếp nhận, vận hành và
từng bước làm chủ công nghệ. Tuy nhiên, với các liên doanh ta lại chưa chú
trọng việc tuyển chọn, đãi ngộ cán bộ, công nhân kỹ thuật trẻ có năng lực để bố
trí vào các công đọan sản xuất quan trọng. Việc đào tạo kỹ thuật vẫn còn nặng
về lý thuyết, ít thực hành nên khi được tuyển dụng vào làm việc thường phải đào
tạo bổ sung. Với những doanh nghiệp đòi hỏi lao động kỹ thuật với số lượng lớn
thì lại không tuyển dụng được lao động đáp ứng đủ số lượng và chất lượng. Như
trường hợp dự án của Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam hiện đang
rất khó khăn trong việc tuyển dụng lao động (theo kế hoạch đến năm 2015 cần
28.000 lao động trực tiếp khi đạt doanh thu xuất khẩu 16,5 tỷ USD).
Mới có số lượng rất ít dự án FDI được đầu tư trong lĩnh vực khoa học và
công nghệ. Hoạt động R&D ở các doanh nghiệp FDI mới chỉ ở những công nghệ
nhỏ, đơn giản,... hoặc nghiên cứu để cải tiến thích nghi phù hợp với điều kiện
Việt Nam. Nhìn chung, việc khai thác, học hỏi công nghệ thông qua FDI chưa
đạt được kết quả như mong muốn.
Một thực tế phải nhìn nhận là, trong các dự án FDI cũng không quá kỳ
vọng vào thu hút các công nghệ cao, công nghệ mới, đặc biệt là các công nghệ
chưa được thương mại hóa, vì mục đích của nhà đầu tư khi thực hiện CGCN
trong FDI là để tối đa hóa lợi nhuận và có chi phí để đổi mới, thay thế công
nghệ.
5. Định hướng chính sách thu hút FDI vào lĩnh vực công nghệ cao
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011-2020, kế hoạch 5 năm
2011 - 2015 được Đại hội Đảng lần thứ XI thông qua đã đặt ra mục tiêu: “Giá trị
sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 35% trong
tổng GDP vào năm 2015 và khoảng 45% trong tổng GDP 2020”. Như vậy, thu
hút FDI vào lĩnh vực công nghệ cao là ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn từ nay

đến năm 2020.
Để thực hiện định hướng trên, cần tập trung vào các giải pháp sau:
81


Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đầu tư,
chuyển giao công nghệ.
Để có thể kiểm soát được công nghệ, tránh việc đưa vào nước ta các công
nghệ cũ, lạc hậu, ô nhiễm môi trường, cần sửa đổi, bổ sung quy định về nội dung
của hồ sơ dự án đầu tư. Nội dung giải trình công nghệ, thiết bị phải là nội dung
bắt buộc trong các dự án đầu tư, để các cơ quan thẩm định có căn cứ xem xét,
đánh giá, thẩm định, ngăn chặn ngay từ đầu các công nghệ, thiết bị cũ, lạc hậu.
Sửa đổi Luật CGCN theo hướng bắt buộc đăng ký Hợp đồng CGC trong
trường hợp CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam để có thể kiểm tra, giám sát
được nội dung công nghệ sẽ chuyển giao, tránh việc lập Hợp đồng CGCN để
hưởng ưu đãi và được tính chi phí CGCN vào chi phí sản xuất hợp lý, nhưng nội
dung lại không phải là chuyển giao các đối tượng công nghệ. Đồng thời, thông
qua việc đăng ký Hợp đồng để ngăn chặn việc chuyển giao các công nghệ không
thích hợp, hoặc tránh việc CGCN trùng lặp.
Khuyến khích các doanh nghiệp FDI thành lập bộ phận R&D hoặc
xây dựng Trung tâm R&D trong doanh nghiệp. Thực hiện việc trích lợi nhuận
trước thuế để lập Quỹ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
Có chính sách tập trung đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao bao
gồm: đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ sư và công nhân kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu của
của các doanh nghiệp công nghệ cao. Cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo, gắn
việc đào tạo nghề tại các trường đại học, cao đẳng với các doanh nghiệp FDI,
cho phép doanh nghiệp công nghệ cao tính chi phí tài trợ cho các trường đại học
vào chí phí nghiên cứu R&D.
Thành lập các Tổ chức dịch vụ CGCN để hỗ trợ doanh nghiệp trong
đàm phán, lựa chọn, đánh giá, định giá công nghệ.

Kết luận:
Việt Nam là một nước đi sau, có xuất phát điểm về khoa học và công
nghệ thấp, việc nhập công nghệ từ các nước phát triển để tận dụng ưu thế của
nước đi sau, tiếp cận ngay được những công nghệ tiên tiến để phục vụ cho công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là tất yếu. CGCN là con đường
ngắn nhất để đổi mới công nghệ, góp phần thực hiện công cuộc công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nước. CGCN thông qua FDI giúp chúng ta tiết kiệm được
nguồn lực và đồng thời rút ngắn được thời gian nghiên cứu để tạo ra sản phẩm
mới với chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, nâng cao
trình độ công nghệ sản xuất và quản lý, kinh doanh, thu hẹp dần khoảng cách về
công nghệ với các nước trong khu vực và trên thế giới.
82


83



×