Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

ĐẦU tư TRỰC TIẾP nước NGOÀI TRONG PHÁT TRIỂN KINH tế xã hội tại TỈNH hải DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.46 KB, 9 trang )

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- XÃ HỘI TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG
(UBND tỉnh Hải Dương)
Năm 2020 là mốc thời gian quan trọng mà toàn Đảng, toàn dân ta phấn đấu xây
dựng Việt Nam “cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Để đạt được mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ chủ yếu là “huy động và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực” để phát triển kinh tế.
Nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, nhằm huy động nguồn lực bên ngoài cho
đầu tư phát triển, góp phần khai thác tốt hơn các nguồn lực trong nước và mở
rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tỉnh Hải Dương đã tập trung nhiều nỗ lực, tạo môi
trường đầu tư thuận lợi nhằm thu hút nguồn vốn FDI. Hiện nay, khu vực kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đã trở thành một bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển lâu dài tại địa phương.
I. MỘT SỐ KẾT QUẢ THU HÚT ĐTNN TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG

Kể từ khi có những dự án đầu tư nước ngoài đầu tiên tại Hải Dương cho
đến nay, cùng với sự nỗ lực tối đa của chính quyền và nhân dân toàn tỉnh, với
những chính sách linh hoạt, hiệu quả, phát huy lợi thế của tỉnh và được sự giúp
đỡ, ủng hộ của Chính phủ, các Bộ, ngành trung ương, tỉnh Hải Dương đã đạt
được những kết quả tích cực. Tính đến hết tháng 8/2012, trên địa bàn tỉnh Hải
Dương đã có 234 dự án FDI còn hiệu lực đến từ 23 quốc gia và vùng lãnh thổ,
với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 5.641,3 triệu USD, cụ thể như sau:
- Về lĩnh vực đầu tư: ĐTNN trên địa bàn tỉnh tập trung chủ yếu vào lĩnh
vực công nghiệp và xây dựng với 200 dự án, tổng số vốn đăng ký là 5.306,9
triệu USD, chiếm 85,4% về số lượng dự án và 94% về số vốn đăng ký tại địa
bàn, với các ngành nghề tiêu biểu như: sản xuất các sản phẩm điện và điện tử,
lắp ráp ô tô, sản xuất xi măng, sắt thép, gia công hàng dệt may, cơ khí chế tạo,
thiết bị cơ khí chính xác...
Khu vực dịch vụ có 21 dự án với tổng số vốn 219,9 triệu USD, chiếm 9%
về số lượng dự án và 4% về số lượng vốn đăng ký tại địa bàn; bao gồm: Xây


dựng hạ tầng KCN, giao thông vận tải, kinh doanh khách sạn, siêu thị...
Khu vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp nhất do nhiều nguyên nhân,
trong đó có nguyên nhân về nguy cơ rủi ro, ảnh hưởng của thời tiết, khó khăn
119


khi thu mua nguyên liệu đầu vào. Hiện nay, toàn tỉnh có 13 dự án FDI đầu tư
vào lĩnh vực nông nghiệp với số vốn đăng ký 114,5 triệu USD, chiếm 5,6% về
số lượng dự án và 2% về số vốn đầu tư đăng ký tại địa bàn.
- Về đối tác đầu tư: Trong số 23 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Hải
Dương, Malaysia là nước có vốn đầu tư cao nhất, chiếm 40,1% tổng vổn đầu tư
đăng ký trên địa bàn, tiếp theo là Nhật Bản 15%, Hồng Kông 12%, Đài Loan
11,5%, Samoa 6,2%, Hàn Quốc 5,4%, Hoa Kỳ 2,7%, Trung Quốc 2,3%...
- Về hình thức đầu tư: Các dự án đầu tư nước ngoài tại tỉnh Hải Dương
chủ yếu dưới hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài với 216 dự án và số vốn
đầu tư là 5.165,1 triệu USD, chiếm 92,3% về số lượng dự án và 91,6 % tổng vốn
đầu tư đăng ký. Hình thức liên doanh có 16 dự án, với số vốn là 475,5 triệu
USD, chiếm 6,8 % về số lượng dự án và 8,4% tổng vốn đầu tư đăng ký. Hình
thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ có 2 dự án, với số vốn là 0,7 triệu USD.
- Tình hình tăng vốn đầu tư: Cùng với những dự án mới đầu tư vào Hải
Dương, trên địa bàn tỉnh cũng có nhiều dự án mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh, tăng thêm vốn đầu tư. Cụ thể, toàn tỉnh có 127 dự án FDI tăng vốn đầu tư
với tổng lượng vốn tăng thêm là 1.208,7 triệu USD, bằng 26% tổng vốn đầu tư
đăng ký cấp mới. Vốn tăng thêm có xu hướng tăng dần qua các năm, điều này
cho thấy hiệu quả của các dự án và sự tin tưởng, an tâm đầu tư tại tỉnh của các
nhà đầu tư.
II. VAI TRÒ CỦA ĐTNN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI CỦA TỈNH

ĐTNN đã góp phần tạo ra năng lực sản xuất mới, hình thành các ngành

nghề mới, công nghệ sản xuất, quản lý mới và các sản phẩm mới có tính cạnh
tranh cao trên thị trường, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Hải Dương
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đồng thời tạo điều kiện khai thác các
nguồn lực của địa phương mà trước đây còn ở dạng tiềm năng như đất đai, nhà
xưởng, nguồn nhân lực. Hiệu quả đem lại là giải quyết việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động và tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương.
1. ĐTNN với việc huy động vốn và đóng góp tăng trưởng kinh tế
Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã góp phần đáng kể trong công tác
huy động vốn. Đến nay, tổng vốn đầu tư thực hiện luỹ kế của các doanh nghiệp
FDI tại địa bàn đạt khoảng 2.270 triệu USD chiếm 40,2% tổng vốn đầu tư.
120


Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trung bình mỗi năm đóng góp trên 200 tỷ
đồng (thời kỳ 1991-2000); 890 tỷ đồng (thời kỳ 2001-2005), chiếm 18,3% tổng
vốn đầu tư xã hội; 3.571 tỷ đồng (thời kỳ 2006-2010), chiếm 24,3% tổng vốn
đầu tư xã hội tại địa bàn, góp phần tăng trưởng kinh tế tại địa phương.
ĐTNN đóng góp quan trọng vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm (GDP) bình quân 10,3%/năm của tỉnh cho cả thời kỳ 2001 -2010. Tỷ lệ
đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP của tỉnh tăng
dần qua các năm: năm 1999: 2,8%, năm 2005: 13,8% và năm 2011 là 17,7%.
Với lợi thế về vốn, công nghệ và kỹ thuật, kinh nghiệm thương trường,
sản phẩm có sức cạnh tranh, các doanh nghiệp ĐTNN tại Hải Dương đang đi
đầu trong việc sản xuất hàng xuất khẩu, hội nhập kinh tế quốc tế, tạo thị trường
mới cho hàng hoá xuất khẩu tại địa phương. Bên cạnh đó, còn góp phần mở rộng
thị trường trong nước, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ như nhà hàng, khách sạn,
vận tải, tài chính, ngân hàng…
2. ĐTNN góp phần nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất
khẩu
Khu vực công nghiệp có vốn ĐTNN đã và đang phát huy vai trò tích cực

trong việc thúc đẩy phát triển công nghiệp của tỉnh. Tính theo giá trị sản xuất
công nghiệp, khu vực này chiếm 30% giai đoạn 2001-2005, chiếm 44,6% giai
đoạn 2006-2010 và năm 2011 là 46,2% tổng giá trị sản xuất công nghiệp tại địa
bàn. ĐTNN vào địa phương tạo nên nhiều ngành nghề, nhiều sản phẩm mới, góp
phần tăng năng lực ngành công nghiệp của tỉnh.
Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp ĐTNN tăng cao theo từng
năm và trở thành nguồn xuất khẩu chủ yếu của tỉnh. Năm 2000 kim ngạch xuất
khẩu của các doanh nghiệp FDI mới chỉ chiếm 20,5% kim ngạch xuất khẩu của
tỉnh, đến năm 2011 đã đạt tới 1 tỷ 695 triệu USD, chiếm 94,7 tổng giá trị kim
ngạch xuất khẩu tại địa bàn và trở thành nguồn xuất khẩu chủ lực hiện nay của
tỉnh.
3. ĐTNN với vấn đề lao động và xã hội
Đầu tư nước ngoài góp phần quan trọng tạo việc làm ổn định cho lao động
tại địa phương. Hiện các doanh nghiệp FDI đang thu hút trên 110.000 lao động
trực tiếp tại các doanh nghiệp cùng hàng ngàn lao động gián tiếp khác. Thông
qua việc tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN,
121


nhiều lao động tại địa phương đã trở thành cán bộ quản lý giỏi, công nhân kỹ
thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến, có tác phong lao động công nghiệp hiện đại.
Trong quá trình đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh, phần lớn doanh
nghiệp FDI đã thực hiện các quy định của pháp luật về ký kết hợp đồng sử dụng
lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.... Công tác Công đoàn tại các doanh
nghiệp đã có nhiều tiến bộ, nhiều vấn đề vướng mắc giữa người lao động và
người sử dụng lao động được giải quyết thông qua tổ chức Công đoàn cơ sở, tạo
môi trường đầu tư thuận lợi và giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa
phương. Việc tham gia đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động ngày càng
được chủ đầu tư quan tâm hơn.

4. ĐTNN với đóng góp ngân sách Nhà nước
Thu từ khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng tăng, đóng góp quan trọng cho
nguồn thu ngân sách nhà nước tại địa bàn.
Thời kỳ 1996 - 2000 thu ngân sách từ ĐTNN mới đạt 13,1 triệu USD, đến thời
kỳ 2001-2005 đạt 157,8 triệu USD; thời kỳ 2006 - 2010 đạt 784,9 triệu USD,
riêng năm 2011 thu từ khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đạt 110 triệu USD, chiếm
44,3% tổng thu ngân sách tại địa phương.
Các doanh nghiệp FDI tại địa bàn đã góp phần quan trọng đưa tỉnh Hải Dương
trở thành một trong những địa phương có thu ngân sách trên 1000 tỷ đồng/năm
vào năm 2002 và trên 5700 tỷ đồng vào năm 2011, khẳng định được vai trò, vị
trí quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh.
5. ĐTNN với việc tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ
Thu hút ĐTNN đã tạo ra sự phát triển lan tỏa tại địa bàn cùng thế và lực
mới cho nền kinh tế. Hoạt động ĐTNN góp phần quan trọng thúc đẩy việc áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, kỹ năng quản lý, công nghệ
marketing hiện đại vào hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều ngành và lĩnh
vực kinh tế, như sản xuất xi măng, điện tử, ô tô, may, giày... Bên cạnh đó,
ĐTNN giúp thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước tăng cường cải tiến chất
lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh.

122


6. ĐTNN với vấn đề sử dụng đất và môi trường
Với chủ trương thu hút đầu tư vào các KCN, CCN đã quy hoạch, nhằm
đảm bảo cho sự phát triển bền vững, tiết kiệm trong việc sử dụng tài nguyên đất
đai, thuận lợi cho kiểm soát về môi trường, tỉnh Hải Dương được Chính phủ cho
phép quy hoạch, đầu tư xây dựng đến năm 2015 và định hướng đến 2020 phát
triển 18 KCN với diện tích khoảng 3700 ha. Hiện nay, toàn tỉnh có 10 Khu công
nghiệp đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng với tổng diện tích là

2.397 ha, 56,3% trong số đó đã đã được bàn giao để xây dựng hạ tầng. Các KCN
đều có quy hoạch nhà máy xử lý nước thải và phải xây dựng nhà máy xử lý nước
thải trước khi chính thức hoạt động.
Ngoài ra, nhằm tạo điều kiện thu hút đầu tư vào các vùng sâu, vùng xa,
tỉnh đã phê duyệt quy hoạch 34 cụm công nghiệp với tổng diện tích gần 1365 ha,
nằm ở các vị trí thuận lợi về lao động, giao thông, điện, thông tin liên lạc để các
nhà đầu tư lựa chọn vị trí thuê đất đầu tư.
Tổng diện tích đất mà tỉnh cho các doanh nghiệp ĐTNN thuê (cả trong và
ngoài các KCN) là hơn 1.000 ha, mang lại hiệu quả vượt trội so với đất sử dụng
cho sản xuất nông nghiệp thuần tuý, cả về giá trị sản phẩm và hiệu quả sử dụng
lao động, cụ thể: giá trị sản phẩm thu được trên 01 ha đất nông nghiệp thuần tuý
tại Hải Dương đạt trung bình 85 triệu đồng/ha/năm, so với đất sử dụng cho
ĐTNN là 17,4 tỷ đồng/ha/năm; lao động trung bình 8-10 lao động/ha đất nông
nghiệp so với trung bình khoảng 70 lao động/ha đất công nghiệp của ĐTNN
hiện nay. Khi toàn bộ đất công nghiệp quy hoạch được lấp đầy, các chỉ số này có
triển vọng sẽ được nâng cao hơn nữa .
III. MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG HOẠT ĐỘNG THU HÚT,
QUẢN LÝ ĐTNN

1. Sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất từ tỉnh đến cơ sở là nhân tố
quyết định dẫn đến thành công, đặc biệt khi giải quyết những khó khăn, phức tạp
nảy sinh trong quá trình doanh nghiệp ĐTNN thực hiện dự án, hoặc triển khai
công tác giải phóng mặt bằng để giao đất cho nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh
đó, cần đề cao vai trò trách nhiệm lãnh đạo và tổ chức thực hiện của chính quyền
cơ sở trong việc triển khai thực hiện chỉ đạo của cấp trên.
2. Sự đổi mới và nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về chủ
trương thu hút nguồn vốn ĐTNN có ý nghĩa hết sức quan trọng trong thực tiễn.
Thực tế 25 năm qua đã chứng minh rằng, việc kết hợp hai nguồn lực trong nước
123



và nguồn vốn nước ngoài đã tạo nên động lực quan trọng cho sự tăng trưởng
kinh tế bền vững và phát triển xã hội với tốc độ cao và ổn định tại địa phương.
3. Tuyên truyền để các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế đã
nhận thức đứng đắn chủ trương và chính sách của Đảng và nhà nước về phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, tích cực tham gia đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh, tạo nội lực để thu hút các nguồn vốn FDI vào địa phương.
4. Thủ tục hành chính cần đơn giản hoá, giảm bớt phiền hà, tạo niềm tin
cho các nhà đầu tư yên tâm sản xuất kinh doanh; chính quyền cần đồng hành
cùng doanh nghiệp, tạo điều kiện giúp đỡ và kịp thời giải quyết những khó khăn
vướng mắc trong quá trình doanh nghiệp triển khai đầu tư kinh doanh.
5. Việc thu hút các dòng vốn đầu tư trong và ngoài nước không thuộc
nguồn ngân sách để xây dựng, phát triển các KCN, CCN tập trung có ý nghĩa hết
sức quan trọng, khơi dậy mọi tiềm năng, phát huy nội lực nhằm phát triển
KTXH tại địa bàn. Thực tế cho thấy toàn bộ các KCN đã đầu tư hạ tầng tại tỉnh
Hải Dương đều do các nhà đầu tư tư nhân bỏ vốn đầu tư, góp phần sử dụng vốn
có hiệu quả, giảm tải cho ngân sách nhà nước.
6. Cùng với việc đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật, cần chủ động và
đặc biệt quan tâm, chú ý xây dựng hạ tầng xã hội trong quá trình đầu tư xây
dựng các KCN, CCN nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững.
7. Công tác xúc tiến, vận động đầu tư cần có trọng tâm, trọng điểm
hướng vào các nhà đầu tư lớn, các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư với sự tham
gia trực tiếp của Lãnh đạo tỉnh, tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư ngay từ ban
đầu tiếp xúc, làm việc; đồng thời chú trọng đến việc giữ mối liên hệ thường
xuyên, liên tục với các dự án tốt, các nhà đầu tư tiềm năng.
IV. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TRONG THU HÚT
ĐTNN

1. Quan điểm và định hướng
- Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài

nhằm phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững.
- Quan tâm thu hút đầu tư nước ngoài từ những nước tiên tiến, có tiềm lực
tài chính, khoa học và công nghệ cao, các tập đoàn lớn và có uy tín trên thế giới
124


nhằm thu hút những dự án có sản phẩm giá trị lớn, chứa hàm lượng khoa học
công nghệ và chất xám cao. Chú trọng thu hút những dự án mang lại nguồn thu
lớn cho ngân sách địa phương. Ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp có lợi
thế cạnh tranh, công nghiệp phụ trợ.
- Thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN, CCN tập trung của tỉnh nhằm
đảm bảo phát triển theo quy hoạch và bền vững. Không tiếp nhận các dự án có
hiệu quả KTXH thấp, nhằm khuyến khích và tạo cơ hội phát triển cho đầu tư
trong nước, hạn chế mất diện tích đất lúa, góp phần đảm bảo an ninh lương thực.
Không tiếp nhận các dự án cã nguy cơ ảnh hưởng nguy hại đến môi trường.
- Khuyến khích việc tập trung khai thác, mở rộng quy mô, đầu tư công
nghệ các cơ sở công nghiệp hiện có. Kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để
đưa nhanh các dự án đang xây dựng vào sản xuất, nhất là các dự án có qui mô
giá trị sản xuất lớn.
2. Một số giải pháp.
- Tiếp tục xây dựng và phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng: giao
thông, điện, nước, bưu chính viễn thông; các ngành công nghiệp phụ trợ và hạ
tầng xã hội, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp. Bố trí, sắp
xếp dự án theo quy hoạch về đất đai cũng như quy hoạch ngành; trong quá trình
lập quy hoạch các KCN, CCN đặc biệt chú ý các vấn đề về môi trường, cấp
thoát nước..., cải thiện môi trường đầu tư tại các khu vực thị trấn, huyện thị và
nông thôn.
Tập trung thu hút đầu tư để sớm lấp đầy các KCN, CCN đã được quy
hoạch chi tiết. Ngoài các KCN, CCN đã nằm trong quy hoạch, chưa quy hoạch

phát triển thêm các KCN và CCN mới. Khi tỷ lệ lấp đầy chung đạt từ 70% trở
lên mới nghiên cứu để bổ sung thêm. Khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng
nhà xưởng 2 - 3 tầng để nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
- Tập trung thu hút và phát triển các ngành công nghiệp có thị trường, có
lợi thế cạnh tranh nhằm tiếp nhận chuyển giao công nghệ, từng bước vươn lên
sản xuất linh kiện, phụ tùng để tiến tới sản xuất hoàn chỉnh một số thiết bị, sản
phẩm công nghiệp với công nghệ cao tại địa phương. tăng cường thu hút đầu tư
vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội.
- Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính, trách
nhiệm công vụ của cán bộ công chức trong việc giải quyết các thủ tục đầu tư, đất
125


đai, xây dựng, xuất nhập khẩu, lao động, môi trường…, nhằm loại bỏ phiền hà
tạo điều kiện thời gian nhanh nhất cho các nhà đầu tư khi thực hiện dự án. Quan
tâm chăm sóc và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà
nước và doanh nghiệp, tạo dựng và củng cố lòng tin để các nhà đầu tư nước
ngoài yên tâm sản xuất kinh doanh tại Hải Dương.
- Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng
cao đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội. Phát triển các cơ sở, trang thiết
bị và dịch vụ y tế tiên tiến hiện đại, đáo ứng nhu cầu đa dạng của người dân và
doanh nghiệp ĐTNN.
Chuẩn bị tốt các điều kiện xã hội như: dịch vụ khách sạn, nhà hàng; vui
chơi giải trí..v.v., để phục vụ nhu cầu của các nhà ĐTNN và người lao động làm
việc trong các KCN, CCN. Đồng thời quan tâm giải quyết tốt vấn đề đời sống
nhân dân vùng giao đất cho làm KCN, CCN.
- Tạo môi trường thuận lợi cho các loại hình dịch vụ: tài chính, thị trường
vốn, kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn, kiểm toán, xúc tiến thương mại... phát
triển. Hình thành và từng bước mở rộng thị trường vốn trên địa bàn; đẩy mạnh

các hoạt động tài chính, ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Tạo
môi trường, điều kiện thành lập công ty đầu tư tài chính, tham gia thị trường
chứng khoán; khuyến khích, hỗ trợ các Doanh nghiệp phát hành trái phiếu công
ty; phát triển các loại hình tín dụng phù hợp với từng ngành, từng lĩnh vực.
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

- Theo các quy định hiện nay, trong KCN không được có dân cư sinh
sống. Trong khi nhà nước còn đang thiếu nguồn vốn đầu tư xây dựng nhà ở cho
người lao động, thì một số doanh nghiệp FDI tự bỏ vốn đầu tư xây dựng những
khu ký túc xá dành cho người lao động đã phần nào giải được bài toán về nhu
cầu và thu hút lao động của mình. Đề nghị Chính phủ xem xét có chỉ đạo cụ thể
đối với việc xây dựng nhà ở cho công nhân của các doanh nghiệp trong các
KCN, CCN.
- Theo quy định tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008, các
KCN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch thì Cơ quan cấp Giấy
chứng nhận đầu tư thực hiện thủ tục đầu tư đối với dự án đầu tư xây dựng và
kinh doanh kết cấu hạ tầng mà không phải trình Thủ tướng Chính phủ chấp
thuận chủ trương đầu tư; tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định 42/2012/NĐ-CP
126


ngày 11/05/2012 của Chính phủ về việc quản lý, sử dụng đất trồng lúa, tất cả các
KCN trước khi thành lập phải xin ý kiến của Thủ tướng Chính phủ. Như vậy,
việc thành lập các KCN tiếp theo của tỉnh cùng một lúc điều chỉnh bởi hai văn
bản nói trên sẽ tạo ra sự không thống nhất trong quá trình thực hiện. Vì vậy, đề
nghị đưa các KCN đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép quy hoạch không
phải xin ý kiến của Thủ tướng Chính phủ trước khi thành lập và đầu tư xây
dựng.
- Hiện nay, danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư còn chưa thống
nhất trong các quy định, gây ra những khó khăn nhất định trong việc áp dụng

các ưu đãi về thuế, đất đai và tiếp nhận các dự án đầu tư. Vì vậy, đề nghị thống
nhất vào một danh mục để thuận lợi áp dụng trong thực tế
Những kết quả khích lệ đạt được qua 25 năm thu hút và quản lý đầu tư
nước ngoài đã ghi nhận những nỗ lực của chính quyền và toàn thể nhân dân tỉnh
Hải Dương, khẳng định sự an toàn của môi trường đầu tư, sự đúng đắn của các
chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như của tỉnh về đầu tư nước ngoài, góp
phần không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tỉnh Hải
Dương tin tưởng và hy vọng rằng, cùng với các chính sách, kế hoạch được ban
hành ngày càng đồng bộ và phù hợp hơn, sự ủng hộ của Chính phủ và các bộ,
ngành trung ương và sự tham gia tích cực của nhân dân, tỉnh Hải Dương sẽ tiếp
tục đạt được những kết quả khả quan hơn nữa, thúc đẩy khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài trở thành điểm sáng trong sự phát triển kinh tế của tỉnh, góp
phần xây dựng tỉnh Hải Dương phát triển nhanh, mạnh và bền vững./.

127



×