Tải bản đầy đủ (.pdf) (255 trang)

Ebook lịch sử kháng chiến chống mỹ cứu nước 1954 1975 (tập 9 tính chất, đặc điểm, tầm vóc và bài học lịch sử) phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.06 MB, 255 trang )

343

Chương 41

Xây dựng và phát huy vai trò
hậu phương - căn cứ địa cách mạng

I- KHÔNG NGừNG XÂY DựNG, CủNG Cố
Và BảO Vệ HậU PHƯƠNG MIềN BắC
1. Hậu phương - một trong những nhân tố quyết
định thắng lợi của khởi nghĩa và chiến tranh
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước hàng
nghìn năm của dân tộc Việt Nam, cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước thực sự là một trang chói ngời nhất trên mọi
phương diện. Chỉ xét riêng về cách thức tiến hành huy
động nhân tài, vật lực - nhân tố quyết định để làm nên
thắng lợi của kháng chiến, đã trở thành hình mẫu đặc sắc,
nét nghệ thuật quân sự độc đáo trong tổ chức và điều
hành kháng chiến của Đảng Cộng sản và sự sáng tạo, linh
hoạt, nỗ lực hết mình của toàn dân tộc Việt Nam trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ chiến lược. Và để đảm bảo
cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược chính là
hậu phương - căn cứ địa cách mạng.


344

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập IX

Quy luật của chiến tranh là mạnh được, yếu thua; bởi
vậy, bên nào tạo được sức mạnh áp đảo, bên đó sẽ chiến


thắng. Để có sức mạnh chiến thắng trong chiến tranh,
phải huy động sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố; trong
đó, hậu phương là nhân tố cơ bản, thường xuyên quyết
định thắng lợi của chiến tranh. Lênin từng khẳng định
"muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự, phải có
một hậu phương được tổ chức vững chắc" 1.
Hậu phương là "vùng lãnh thổ và dân cư của một bên
tham chiến, không có, hoặc ít có chiến sự, tương đối an
toàn và ổn định trong chiến tranh; nơi có điều kiện duy trì
sinh hoạt về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa...
và huy động các nguồn lực cho tiền tuyến, cùng với tiền
tuyến tạo thành không gian chiến tranh" 2. Theo cấp độ,
hậu phương chiến tranh được phân chia thành: hậu
phương chiến lược, hậu phương tại chỗ và các căn cứ du
kích. Song, trên thực tế của chiến tranh giải phóng dân
tộc, có những thời điểm tuy lực lượng cách mạng chưa có
được một vùng lãnh thổ và dân cư để làm căn cứ, nhưng có
một hậu phương vững chắc đó là lòng dân. Chính nhờ
nhân dân đùm bọc, chở che, nuôi dưỡng mà lực lượng cách
mạng không ngừng phát triển, từng bước tiến công đối
_____________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, t.35, tr.497.
2. Bộ Quốc phòng - Trung tâm từ điển bách khoa quân sự:
Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Sđd, tr.453.


Chương 41: Xây dựng và Phát huy vai trò...

345


phương, giành đất, giành dân, tạo lập nên những căn cứ hậu phương cho chiến tranh.
Khẳng định vai trò quyết định của hậu phương trong
chiến tranh, J.Stalin chỉ ra rằng: "Không có một quân đội
nào trên thế giới không có hậu phương vững chắc mà lại
có thể chiến thắng được. Hậu phương có một tầm quan
trọng bậc nhất đối với tiền tuyến: Chính là vì hậu
phương, và chỉ có hậu phương mới cung cấp cho tiền
tuyến chẳng những các yêu cầu đủ mọi loại, mà còn cả
binh sĩ, cả tình cảm lẫn tư tưởng nữa. Hậu phương không
vững chắc, nhất định sẽ biến những đội quân ưu tú nhất
và cố kết nhất thành một nhóm quần chúng không vững
vàng và hèn yếu" 1.
Thật vậy, tất cả mọi nhu cầu thuộc về vật chất của
quân đội và chiến tranh đều do hậu phương cung cấp.
Quân đội là công cụ bạo lực của một quốc gia, với nhiệm
vụ chủ yếu là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu chống quân
xâm lược, giải phóng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, nên quân
đội không phải là lực lượng sản xuất ra của cải cho xã hội
và nuôi sống họ. Đây là thành phần xã hội được nhà nước
bao cấp toàn bộ. Theo cách luận giải của Ph.Ăngghen:
Quân đội tuy không làm ra tiền, song lại tiêu tốn vô số
tiền. Tiền ở đây chính là lương thực, thực phẩm, quần áo,
giày dép, thuốc chữa bệnh, dụng cụ y tế...; tiền là súng
_____________
1. J.Stalin: Toàn tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, t.4,
tr.369.


346


lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập IX

đạn và các phương tiện, thiết bị kỹ thuật quân sự...; đó là
chưa kể tới lương cho sĩ quan và phụ cấp cho hạ sĩ quan,
chiến sĩ... Hết thảy những loại vật chất này đều phải do
nhân dân, hậu phương cung cấp thông qua nhà nước. Thật
đúng như Ph.Ăngghen từng khẳng định: không có một
quân đội nào do thường dân tổ chức lại có thể tồn tại được
trong thực tế, chừng nào nó chưa có một nguồn vật chất to
lớn mà một quân đội chính quy hùng mạnh cần có. Tuy
vậy, trong thời bình, trong một chừng mực nhất định,
quân đội có tiến hành tăng gia sản xuất để cải thiện đời
sống cho cán bộ, chiến sĩ, phần nào đó giảm chi phí cho
ngân sách nhà nước.
Công tác bảo đảm vật chất của hậu phương cho tiền
tuyến nói chung, cho quân đội nói riêng rất quan trọng,
bởi có cung cấp đủ cơ sở vật chất cho quân đội mới duy trì
được lực lượng này. Đặc biệt hơn, trong điều kiện chiến
tranh, công tác bảo đảm vật chất lại càng đóng vai trò
quyết định hơn, vì đây chính là cơ sở tạo sức mạnh cho
quân đội giành thắng lợi trên chiến trường.
ở hậu phương, nhân dân đã không quản nắng mưa,
nóng rét, ngày đêm lao động quên mình để làm ra
lương thực, thực phẩm, của cải và mọi nhu cầu vật chất
khác để cung cấp cho quân đội và chiến trường. Đó là
nguồn sức mạnh, là nguyên nhân quan trọng của
những thắng lợi trên chiến trường. Từ thực tế lãnh đạo
đất nước Xôviết tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh
vệ quốc vĩ đại, J.Stalin đã khẳng định rằng: "Thắng lợi



Chương 41: Xây dựng và Phát huy vai trò...

347

của Hồng quân không thể nào có được nếu không có sự
chi viện của nhân dân, không có tinh thần làm việc
quên mình của những người Xôviết trong các nhà máy
và công xưởng, trong các giếng than và các hầm mỏ,
trong vận tải và nông nghiệp" 1. Vậy là, đã "có đủ lý do
để nói rằng tinh thần lao động quên mình của những
người Xôviết ở hậu phương sẽ được ghi vào lịch sử cùng
với cuộc đấu tranh anh dũng của Hồng quân như là
một chiến công chưa từng có của nhân dân trong công
cuộc bảo vệ Tổ quốc"2 .
Bên cạnh việc cung cấp về vật chất và tiền của, hậu
phương còn là nơi cung cấp nguồn nhân lực thường xuyên
cho quân đội và chiến tranh. Để xây dựng và phát triển
quân đội cần phải có con người, mà những con người này
là con em của nhân dân từ hậu phương cung cấp. Tuy tiêu
chí đánh giá một quân đội mạnh không đồng nhất với số
lượng quân đông; song thực tế chiến tranh đã khẳng định
rằng: nguồn nhân lực hùng hậu là vô cùng quan trọng.
Chính V.I. Lênin đã chỉ ra rằng: Trong chiến tranh, ai có
nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực hơn...,
thì người đó sẽ thu được thắng lợi; bởi chiến tranh sẽ đồng
hành với thương vong, mất mát, nên phải có nguồn lực dự
trữ từ hậu phương bổ sung kịp thời để quân đội luôn có đủ
sức chiến đấu.

_____________
1, 2. J.Stalin: Về cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên
Xô, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1965, tr.114, 115.


348

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập IX

Mặt khác, hậu phương cũng chính là địa bàn đứng
chân quan trọng của quân đội. Từ đây, những thanh niên
ưu tú từ các thôn, xóm theo lệnh gọi nhập ngũ của nhà
nước nhanh chóng tập trung lại ở một địa điểm thích hợp,
rồi được biên chế vào đội ngũ, được huấn luyện chuyên
môn, kỹ chiến thuật..., được giáo dục tinh thần yêu nước,
bồi dưỡng ý chí quyết tâm chiến đấu giải phóng đất nước
và bảo vệ Tổ quốc - những hành trang cần thiết nhất đảm
bảo bản lĩnh và trí tuệ cho từng người lính trước khi ra
trận. Như vậy, hậu phương là xuất phát điểm đầu tiên của
quân đội. Hơn nữa, trong quá trình chiến tranh, không
phải khi nào, trận nào cũng giành được chiến thắng; vì
vậy, sau những trận không thành công, hoặc khi thực hiện
kế hoạch tạm lui quân để bổ sung lực lượng, vũ khí, thậm
chí là huấn luyện bổ sung về kỹ chiến thuật... thì hậu
phương - căn cứ địa vẫn là nơi đứng chân, che chở an toàn
nhất của các đơn vị sau mỗi mùa chiến dịch.
Không chỉ đáp ứng lực lượng trực tiếp cầm súng
chiến đấu trên chiến trường, mà lực lượng phục vụ chiến
đấu cũng chính từ hậu phương cung cấp. Đây là thành
phần có vai trò cực kỳ quan trọng, đảm trách việc vận

chuyển, chăm sóc thương binh, tải đạn, bảo đảm giao
thông... nếu thiếu nó bộ đội khó có thể giành thắng lợi
trên chiến trường.
Trong chiến tranh, việc thắng hay bại tất nhiên là
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có chính trị và tinh
thần. Lênin từng nói: "Trong mọi cuộc chiến tranh thì


Chương 41: Xây dựng và Phát huy vai trò...

349

thắng lợi, nói cho cùng, là tùy thuộc vào tâm trạng của
quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin
tưởng rằng chiến tranh mà họ tiến hành là chính nghĩa,
sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh thân mình vì hạnh
phúc của anh em mình, làm cho tinh thần của binh sĩ lên
cao và làm cho họ chịu đựng được những khó khăn chưa
từng thấy" 1. Chiến tranh là sự hiểm nguy, khốc liệt, là đổ
máu, hy sinh; ở đó, ranh giới giữa sự sống và cái chết trở
nên vô cùng mỏng manh...; bởi vậy, đòi hỏi người chiến sĩ
phải có ý chí và bản lĩnh rất vững vàng. Yếu tố tinh thần
sẽ tác động trực tiếp đến kỹ năng chiến đấu của người
lính tăng lên hoặc giảm xuống và do đó ảnh hưởng đến
thành quả tác chiến trên chiến trường. Như vậy, chính
trị và tinh thần thực sự là nhân tố góp phần tạo nên sức
mạnh cho quân đội, và nguồn sức mạnh này được cung
cấp bởi chính hậu phương - nơi sinh ra và lớn lên của
người lính. Hậu phương đối với người lính là gia đình, là
quê hương, là Tổ quốc. Chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, quê

hương và gia đình là nghĩa vụ thiêng liêng, mục đích cao
cả của người lính, và cũng chính từ nơi đây đã tiếp thêm
sức mạnh tinh thần cho người lính quên mình xông pha
chiến đấu lập công.
Nguồn sức mạnh của hậu phương đối với quân đội
trước nhất chính là tình thương yêu của quần chúng
_____________
1. V.I. Lênin và J.Stalin: Tầm quan trọng của hậu phương
trong chiến tranh cách mạng, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1966, tr.24.


350

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập IX

nhân dân dành cho người lính ngoài mặt trận. Đây là
loại tình cảm cao quý và vô cùng đặc biệt; bởi từ tình
thương đó mà nhân dân hết lòng chi viện sức người, sức
của cho quân đội, cho tiền tuyến. Điều đó chứng tỏ rằng
"quân đội đó sẽ có một hậu phương cực kỳ vững chắc,
quân đội đó là vô địch" 1.
Nguồn sức mạnh của hậu phương có ý nghĩa chiến
lược như vậy, nên trong quá trình chiến tranh, đối
phương cũng thường tìm mọi thủ đoạn, cách thức đánh
vào hậu phương, nhằm không chỉ đơn thuần là phá hoại
về cơ sở vật chất, mà đặc biệt là gây hoang mang, dao
động về tinh thần đối với người dân, dần dần làm phai
nhạt ý chí, làm rạn vỡ sự đoàn kết, thống nhất, thậm chí
là làm giảm lòng tin của dân chúng. Điều này sẽ ngay lập
tức gây tác động trực tiếp đến sức chiến đấu của người

chiến sĩ trên chiến trường.
Như vậy, có hậu phương vững mạnh tức là có nguồn
cung cấp sức người, sức của dồi dào cho tiền tuyến; có
nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cổ vũ cho người lính
chiến đấu trên chiến trường. Ngược lại, nếu hậu phương
không vững chắc sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần và
khả năng chiến đấu của quân đội. Thực tế lịch sử chiến
tranh đã minh chứng rằng: "Một quân đội không có hậu
phương vững chắc thì quân đội ấy là cái gì? Chẳng là cái
_____________
1. J.Stalin: Sức mạnh của quân đội ta, Nxb. Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 1975, tr.38.


Chương 41: Xây dựng và Phát huy vai trò...

351

gì cả. Những đội quân lớn nhất, được trang bị tốt nhất,
đều đã bị tan rã và biến thành tro bụi, vì không có hậu
phương vững chắc, không có sự đồng tình và ủng hộ của
hậu phương, của nhân dân lao động" 1.
Thấm nhuần sâu sắc luận điểm hậu phương - nhân tố
cơ bản thường xuyên quyết định thắng lợi của khởi nghĩa và
chiến tranh của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng luôn thường xuyên coi trọng việc xây dựng hậu
phương chiến lược, mà buổi sơ khai ban đầu là những cơ sở
cách mạng trong nhân dân. Chính bởi vậy, dù địch tiến
hành khủng bố gắt gao, các tổ chức đảng vẫn tồn tại, trụ

vững trong lòng dân, không ngừng phát triển về mọi mặt
và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được những thắng
lợi quan trọng.
Để chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
về tay nhân dân, đầu năm 1941, Đảng Cộng sản Đông
Dương và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã quyết định chọn Cao
Bằng làm nơi đứng chân và xây dựng nơi đây thành căn
cứ địa của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: Căn
cứ Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước
ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên
giới lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng
từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và
_____________
1. J.Stalin: Toàn tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1965, t.11,
tr.33, 34.


352

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập IX

thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được.
Có nối được phong trào với Thái Nguyên, với toàn quốc
thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có
thể tiến công, lúc khó khăn có thể giữ. Theo đó, cùng với
thời gian, từ Cao Bằng, căn cứ địa được mở rộng ra Bắc
Sơn, Đình Cả, Tân Trào rồi phát triển thành khu giải
phóng rộng lớn gồm nhiều tỉnh Việt Bắc. Tại đây, lực
lượng chính trị và vũ trang được xây dựng, những yếu tố
của một nhà nước dân chủ nhân dân được hình thành. Và

cũng chính từ đây, Đảng và Quốc dân đại hội đã quyết
định nhiều vấn đề trọng đại của quốc gia, dân tộc; là nơi
phát lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 81945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam á. Bên
cạnh căn cứ địa chiến lược Việt Bắc, hệ thống căn cứ địa
cũng khẩn trương được xây dựng ở hầu khắp các khu,
tỉnh trên khắp cả nước. Đây chính là tiền đề quan trọng
góp phần làm nên thắng lợi nhanh chóng của cuộc Cách
mạng Tháng Tám 1945 trên phạm vi toàn quốc.
Tháng 12-1946, khi cuộc kháng chiến toàn quốc
bùng nổ, chúng ta đã có một hậu phương trải rộng khắp
cả nước; ở Bắc và Trung Bộ là các khu du kích, các vùng
giải phóng của Khu 3, Khu 4, Khu 5...; ở Nam Bộ là các
chiến khu - căn cứ hậu phương kháng chiến: chiến khu D,
chiến khu Dương Minh Châu (Đông Nam Bộ), chiến khu
Đồng Tháp Mười, U Minh (Tây Nam Bộ); và đặc biệt, căn
cứ địa chiến lược Việt Bắc vẫn là Thủ đô kháng chiến của


Chương 41: Xây dựng và Phát huy vai trò...

353

cả nước. Từ đây, nguồn nhân lực, vật lực - nhân tố quyết
định của mọi cuộc khởi nghĩa và chiến tranh, được căn cứ hậu phương trên toàn quốc cung cấp đã góp phần đưa
cuộc kháng chiến chống Pháp từng bước đi đến thắng lợi
hoàn toàn. Đặc biệt nhất là chỉ với lực lượng của bốn đại
đoàn bộ binh, một đại đoàn công pháo và 23.126 tấn gạo,
992 tấn thịt, 800 tấn rau, 266 tấn muối, 62,7 tấn đường,
917 tấn thực phẩm khác, thêm vào đó là 261.541 dân
công, 20.000 xe đạp thồ, 914 ngựa thồ và hàng ngàn

thuyền, mảng... 1 (lượng vật chất này chủ yếu là từ các
vùng căn cứ - hậu phương Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu 3,
Thanh Hóa) được huy động cho Chiến dịch Điện Biên
Phủ năm 1954, để đánh đòn chiến lược quyết định, đuổi
quân xâm lược Pháp ra khỏi bờ cõi quốc gia là thêm một
minh chứng sống động nữa khẳng định quy luật "thực
túc, binh cường" - nhân tố đảm bảo bằng vàng cho thắng
lợi của khởi nghĩa và chiến tranh, chỉ có được khi căn cứ hậu phương được thường xuyên xây dựng, củng cố một
cách vững chắc. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; những thành tựu, lý
luận và kinh nghiệm được đúc kết từ thực tiễn xây dựng
hậu phương trong Cách mạng Tháng Tám 1945, trong 9
năm kháng chiến chống thực dân Pháp thực sự là cơ sở
vững chắc cho công cuộc xây dựng căn cứ - hậu phương
_____________
1. Tổng cục Hậu cần: Lịch sử hậu cần Quân đội nhân dân
Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, t.1, tr.290.


354

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập IX

chiến lược trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
2. Xây dựng hậu phương miền Bắc vững mạnh
toàn diện - điều kiện tiên quyết của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước
Với thắng lợi Điện Biên Phủ, chúng ta đã buộc Pháp
phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh. Theo

hiệp định, nước ta tạm thời chia làm hai miền, vĩ tuyến 17
là giới tuyến và sau hai năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử
thống nhất đất nước. Song, với mưu đồ xâm lược Việt
Nam, giới cầm quyền Mỹ tuyên bố không bị ràng buộc bởi
Hiệp định Giơnevơ (Mỹ không ký vào văn bản hiệp định),
nhanh chóng nhảy vào miền Nam Việt Nam, hất cẳng
Pháp, đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn dựng lên cái gọi là
chính quyền Việt Nam Cộng hòa, âm mưu chia cắt lâu dài
đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn
cứ quân sự trọng yếu ở khu vực Đông Nam á, nhằm ngăn
chặn và tiến công chủ nghĩa xã hội, phong trào giải phóng
dân tộc đang trào dâng trên thế giới.
Như vậy, trên thực tế tại hai miền Nam, Bắc nước ta
lúc này tồn tại hai thể chế chính trị - xã hội khác nhau;
đồng thời đây cũng là sự đối đầu giữa lực lượng cách
mạng với lực lượng phản cách mạng, giữa phong trào
giải phóng dân tộc với chủ nghĩa đế quốc. Việt Nam tiếp
tục trở thành tâm điểm chú ý của thế giới và nhiệm vụ
cách mạng mới cũng đặt ra hết sức khó khăn, nặng nề.


Chương 41: Xây dựng và Phát huy vai trò...

355

Đó là miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội trong điều kiện: sản lượng công nghiệp (1954) chỉ
chiếm 15% tổng sản lượng kinh tế quốc dân. Hầu hết
nhà máy, xí nghiệp, bến cảng, cầu cống, đường sắt... bị
quân Pháp phá hủy trước khi rút khỏi miền Bắc. Nông

nghiệp giữ vai trò chính, nhưng kỹ thuật canh tác vốn
lạc hậu, vì chiến tranh nên đã có 143 ngàn hécta đất
canh tác bị bỏ hoang, thêm vào đó là hàng chục ngàn
hécta nữa không trồng cấy do gần 1 triệu người Công
giáo di cư vào Nam bỏ lại đã đẩy nền kinh tế miền Bắc
vào tình trạng cực kỳ nghiêm trọng. Mặt khác, các hủ
tục, tệ nạn xã hội của chế độ cũ để lại rất trầm trọng: bộ
phận lớn dân số đủ mọi lứa tuổi bị mù chữ, nhiều căn
bệnh xã hội chưa có khả năng thanh toán, loại trừ do hệ
thống y tế nhỏ yếu, lạc hậu 1. Tất thảy thực trạng trên là
một thách thức hết sức nghiêm trọng đối với nhân dân
miền Bắc trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương chiến lược
cho cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Tại miền Nam, dưới sự chỉ đạo của Mỹ, tập đoàn cầm
quyền Ngô Đình Diệm ngang nhiên vi phạm Hiệp định
Giơnevơ, tổ chức tổng tuyển cử riêng rẽ, lập quốc hội, biến
miền Nam thành quốc gia riêng; đồng thời, khẩn trương
bắt lính, xây dựng quân đội Việt Nam Cộng hòa, với ngân
_____________
1. Năm 1955, tổng dân số miền Bắc có hơn 13 triệu, nhưng
chỉ có 78 cơ sở điều trị, với 115 bác sĩ, 3.796 y sĩ và y tá.


356

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập IX

sách, vũ khí, phương tiện quân sự của Mỹ và trực tiếp do
các chuyên gia, cố vấn quân sự Mỹ huấn luyện, chỉ huy.

Cùng với thời gian, nhiều căn cứ quân sự, hải cảng, kho
tàng, căn cứ huấn luyện... nhanh chóng được đầu tư xây
dựng trên khắp miền Nam.
Đơn phương tiến hành cuộc chiến tranh chống lại nhân
dân miền Nam, bằng chính sách "tố cộng, diệt cộng", chính
quyền Ngô Đình Diệm sử dụng quân đội, cảnh sát mở liên
tiếp các cuộc hành quân càn quét, nhằm thanh sát địa bàn,
truy sát bắt bớ, thẳng tay chém giết, tù đày những đảng
viên cộng sản, những người kháng chiến cũ. Hệ thống nhà
tù, chuồng cọp, trại cải huấn... của Mỹ - Diệm mọc lên
khắp thành thị và nông thôn miền Nam. Máu của các giới
đồng bào yêu nước vẫn tiếp tục đổ trên các địa phương từ
Quảng Trị, Thừa Thiên đến mũi Cà Mau, trên khắp các
đường phố đô thị miền Nam và cả ở thành phố Sài Gòn Gia Định. Cách mạng miền Nam phải từng ngày, từng giờ
đối mặt với những thử thách cam go và thảm khốc.
Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa mà Liên Xô là
trụ cột giữ vai trò là chỗ dựa tin cậy và vững chắc cho sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta (tuy có
những bất đồng nhất định). Phong trào cộng sản quốc tế
và phong trào giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc,
phong trào công nhân và nông dân lao động các nước tư
bản chủ nghĩa đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ đang phát
triển mạnh mẽ và sâu rộng trở thành hậu thuẫn rất quan
trọng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của ta.


Chương 41: Xây dựng và Phát huy vai trò...

357


Nhận thức sâu sắc tình hình cách mạng trong nước và
quốc tế liên quan, Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác
định: "Mỹ không những là kẻ thù của nhân dân thế giới,
mà Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân
dân Việt, Miên, Lào" 1; muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai,
củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, thực hiện độc lập
dân chủ "điều cốt yếu là phải ra sức củng cố miền Bắc,
đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân
dân miền Nam"; và "Củng cố miền Bắc tức là bồi dưỡng lực
lượng cơ bản của ta, xây dựng chỗ dựa vững chắc cho nhân
dân toàn quốc giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh củng
cố hòa bình, thực hiện thống nhất" 2. Mỹ là đế quốc hiếu
chiến, có tiềm lực kinh tế, quân sự hàng đầu thế giới; để
đánh lại chúng, không có con đường nào khác là phải huy
động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, mà như Lênin
đã nói là phải có một hậu phương được tổ chức vững chắc hậu phương đó chính là miền Bắc xã hội chủ nghĩa. "Miền
Bắc là nền tảng, là gốc rễ của lực lượng đấu tranh của
nhân dân ta. Nền có vững, nhà mới chắc. Gốc có mạnh, cây
mới tốt" 3. "Củng cố miền Bắc phải luôn luôn chiếu cố miền
Nam. Củng cố miền Bắc và chiếu cố miền Nam không thể
tách rời... Miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình
thế nào, miền Bắc cũng phải được củng cố"4. "Miền Bắc là
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.314.
2, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, t.16, tr.577.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.67.


358


lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập IX

căn cứ địa chung của cách mạng cả nước... Nhiệm vụ cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc rõ ràng là nhiệm vụ
quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách
mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của
nhân dân ta" 1. Và "Hai nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc
và miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm
vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong
hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt làm hai. Song hai
nhiệm vụ đó trước mắt đều có một mục tiêu chung là thực
hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc, đều nhằm giải quyết
mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn giữa nhân
dân ta và đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai của chúng"2.
Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa - xây dựng hậu
phương chiến lược miền Bắc, trước nhất phải nhanh chóng
ổn định tình hình chính trị và xã hội vốn đang tồn tại
nhiều vấn đề phức tạp, đặc biệt là những vùng do đối
phương kiểm soát nhiều năm, đẩy mạnh tuyên truyền và
giáo dục các tầng lớp nhân dân kiên quyết chống lại những
âm mưu và luận điệu phá hoại của kẻ địch. Thực hiện Điều
21 của Hiệp định Giơnevơ, nhân dân ta đã đấu tranh buộc
Pháp nghiêm chỉnh thi hành việc trao trả tù binh và
thường dân bị giam giữ trong chiến tranh 3. Đặc biệt, ta đã
_____________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, t.21, tr.509-510, 508.
3. Ta đã trao trả cho Pháp 6.800 tù binh Âu - Phi, 2.360 tù
binh người Việt. Đổi lại, phía Pháp đã trao trả cho ta 7.350 tù

binh, 18.350 tù chính trị và 37.900 thường dân bị giam giữ.


Chương 41: Xây dựng và Phát huy vai trò...

359

tổ chức tiếp quản các khu vực quân Pháp rút đi, nhanh
chóng thiết lập và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân
các cấp trên toàn miền Bắc; từng bước ổn định đời sống cho
các tầng lớp nhân dân. Đồng thời, nhân dân các địa
phương tổ chức đón tiếp hàng chục vạn cán bộ, chiến sĩ,
đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc. Đây chính là nguồn
nhân lực chiến lược để Đảng Lao động Việt Nam bồi dưỡng
và đào tạo thành đội ngũ cán bộ cốt cán trực tiếp chuẩn bị
cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Cùng với củng cố chính trị và xã hội, công cuộc cải tạo
nền kinh tế miền Bắc từ hình thức sở hữu tư nhân sang sở
hữu tập thể, sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất; từ nền
sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, kỹ thuật lạc hậu tiến lên sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa... khẩn trương được tiến hành.
Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng là điều kiện thuận lợi
để toàn Đảng, toàn dân ta hoàn thành việc cải cách ruộng
đất, xóa bỏ vĩnh viễn chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai
cấp địa chủ phong kiến đã tồn tại trong nhiều thế kỷ 1,
810.000 hécta ruộng đất và nhiều trâu bò cày kéo và nông
cụ sản xuất được chia cho 2.104.000 hộ nông dân; sản xuất
nông nghiệp được đẩy mạnh, những vùng đất hoang hóa
nhanh chóng được khai phá đưa vào trồng cấy. Dù vậy,
_____________

1. Đến tháng 7-1956, đợt 5 cải cách ruộng đất đã kết thúc
ở toàn bộ vùng đồng bằng, trung du và 280 xã miền núi, với
kết quả là: chia 344.000 hécta ruộng đất cho nông dân, hoàn
thành việc xóa bỏ giai cấp địa chủ và tàn dư chế độ phong kiến
ở miền Bắc.


360

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập IX

trong quá trình thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, Đảng
Lao động Việt Nam cũng mắc phải sai lầm về phương
pháp tiến hành. Trong thư gửi đồng bào nông thôn và cán
bộ ngày 18-8-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cải
cách ruộng đất là thắng lợi to lớn, nhưng chúng ta đã mắc
những khuyết điểm, sai lầm nghiêm trọng, "Chúng ta cần
phải phát huy những thắng lợi đã thu được, đồng thời
chúng ta phải kiên quyết sửa chữa những sai lầm"; "Việc
sửa chữa phải kiên quyết và có kế hoạch. Việc gì sửa được
ngay thì phải làm ngay. Việc gì chưa sửa được ngay thì
phải kết hợp trong kiểm tra lại mà làm" 1. Việc làm này
không chỉ mang lại quyền lợi thiết thực - thỏa niềm mơ
ước bao đời của người nông dân, mà còn góp phần khôi
phục và củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với
cách mạng. Và, sản lượng lương thực ở miền Bắc năm
1956 đã đạt 4 triệu tấn (năm 1939 chỉ là 2 triệu tấn).
Đi đôi với nông nghiệp, các ngành nghề sản xuất tiểu
thủ công nghiệp được khuyến khích mở rộng; các cơ sở
công nghiệp còn lại khẩn trương được khôi phục và nâng

dần quy mô sản xuất. Các tổ đổi công, hợp tác xã mua
bán, hợp tác xã tín dụng được thành lập. Đặc biệt, những
cơ sở công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trực tiếp phục
vụ đời sống nhân dân được tập trung xây dựng và đi vào
sản xuất đạt hiệu quả cao. Đến năm 1956, ta đã khôi
phục được 29 xí nghiệp cũ, xây dựng thêm 55 xí nghiệp
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.236.


Chương 41: Xây dựng và Phát huy vai trò...

361

mới; hệ thống giao thông thủy bộ và đường sắt cơ bản
được khôi phục. Kinh tế quốc doanh đã nắm phần lớn các
ngành then chốt và giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân.
Bên cạnh đó, các ngành giáo dục, y tế và văn hóa có
bước phát triển mới và thu được những thành tựu bước
đầu. Về giáo dục, nạn mù chữ đã cơ bản được thanh toán,
hệ thống giáo dục phổ thông với chương trình 10 năm
được xác lập, giáo dục đại học và trung học chuyên
nghiệp từng bước phát triển 1 cả về số lượng, chất lượng
và phạm vi ngành nghề. Về y tế, các cơ sở khám chữa
bệnh được khẩn trương củng cố và phát triển 2, phong
trào vệ sinh dịch tễ được tăng cường, các bệnh truyền
nhiễm, bệnh xã hội dần được đẩy lùi. Về văn hóa - xã hội,
phong trào văn nghệ quần chúng, thể dục thể thao, phim
ảnh, sách báo... hoạt động sôi nổi và rộng khắp thành thị

và nông thôn đã góp phần quan trọng vào việc đẩy lùi
từng bước tàn dư hủ bại của chế độ phong kiến, thực dân
còn tồn tại trong nhân dân.
Như vậy, chỉ sau ba năm khôi phục kinh tế, thu nhập
quốc dân đã đạt rồi vượt mức so với thời kỳ trước chiến
_____________
1. Năm học 1956 - 1957, toàn miền Bắc có 606.000 học sinh
mầm non, 925.000 học sinh phổ thông, 7.783 học sinh trung học
chuyên nghiệp, 3.664 sinh viên đại học.
2. Năm 1957, miền Bắc đã có 55 bệnh viện, 13 viện điều
dưỡng, 85 bệnh xá với tổng số 19.700 giường bệnh, 362 nhà hộ
sinh và 5.130 ban phòng bệnh.


362

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập IX

tranh. Đời sống của nhân dân miền Bắc dần đi vào ổn
định. Đây thực sự là bước chuẩn bị đầu tiên cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội - xây dựng hậu phương miền
Bắc, tạo hậu thuẫn vững chắc cho sự nghiệp giải phóng
miền Nam.
Tiếp đà thắng lợi của những năm đầu khôi phục kinh
tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, miền Bắc bước vào
thực hiện kế hoạch cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa
(1958 - 1960). Với nhận thức sâu sắc rằng: "Phát triển
kinh tế và văn hóa tức là dần dần xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách
mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài" 1, Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (khóa II) đã họp, ra Nghị quyết 14 về
phát triển kinh tế và phát triển văn hóa trong 3 năm
(1958 - 1960) và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá
thể của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và
kinh tế tư bản tư doanh; Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa
nông nghiệp và Nghị quyết về cải tạo công thương nghiệp
tư bản tư doanh, để định hướng chỉ đạo cụ thể đối với các
cấp, các ngành, địa phương trên toàn miền Bắc.
Thắng lợi của kế hoạch ba năm khôi phục kinh tế và
hàn gắn vết thương chiến tranh (1955 - 1957) thực sự là
nguồn lực thúc đẩy toàn dân nỗ lực hết mình trong việc
thực hiện kế hoạch cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa
(1958 - 1960). Kết quả là, nếu giữa năm 1958, ở nông thôn
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.2.


Chương 41: Xây dựng và Phát huy vai trò...

363

miền Bắc, số hộ nông dân tham gia tổ đổi công đạt 41%
và có 134 hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, đến giữa năm
1959, số hộ nông dân tham gia tổ đổi công đã lên tới 70%
(gồm 246.965 tổ) và 7.000 hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp (chiếm 8% tổng số nông hộ), trong đó có 119 hợp
tác xã bậc cao, thì đến hết năm 1960 đã có 84,8% tổng số
hộ nông dân miền Bắc gia nhập hợp tác xã, với 41.000
hợp tác xã, trong đó có 4.346 hợp tác xã bậc cao (chiếm
12% tổng số hợp tác xã), tập trung được 76% tổng diện

tích đất đai canh tác. Cơ cấu cây trồng và vật nuôi phát
triển có kế hoạch hợp lý, các thành tựu khoa học - kỹ
thuật được áp dụng, công cụ lao động được cải tiến... đã
tạo ra mức tăng trưởng hằng năm đạt 5,6%. Với thành
quả này, nông nghiệp đã góp phần quan trọng để phát
triển công nghiệp chế biến nông sản - thực phẩm, xuất
khẩu và cải thiện đời sống nhân dân. Ngoài ra, với nghề
cá có 520 hợp tác xã, (chiếm 77,2%), nghề muối có 269
hợp tác xã (chiếm 85%). Điều quan trọng là, với hình
thức hợp tác xã nông nghiệp được thành lập, không chỉ
tạo thuận lợi để áp dụng các biện pháp khoa học, cải tiến
kỹ thuật sản xuất, khắc phục khó khăn về thiên tai, tư
liệu sản xuất... mà, chính đây là nơi gắn kết quan hệ
cộng đồng, làng xóm trong lao động sản xuất và đời sống
thường nhật ngày thêm chặt chẽ, nhân cách sống "mình
vì mọi người và mọi người vì mình" được phát huy đến
đỉnh cao - một vấn đề có tính quyết định để động viên
nhân lực, vật lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu


364

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập IX

nước và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội - xây dựng
hậu phương chiến lược của cả nước cho sự nghiệp đấu
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền
Bắc, Đảng và Chính phủ chủ trương thực hiện chính sách
cải tạo hòa bình. Bởi, chúng ta đã có nhà nước dân chủ

nhân dân, do giai cấp công nhân lãnh đạo, dựa trên nền
tảng liên minh công - nông vững chắc, có lực lượng kinh tế
quốc doanh đóng vai trò chủ đạo. Giai cấp tư sản miền Bắc
rất nhỏ, yếu, số lượng ít và chỉ thuộc loại vừa và nhỏ, vốn
là "bạn đồng minh" của giai cấp công nhân trong cách
mạng dân tộc dân chủ; sau hòa bình lập lại, đại bộ phận
tán thành Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tán
thành chế độ mới và chấp nhận chủ trương cải tạo xã hội
chủ nghĩa theo phương pháp hòa bình. Điểm mấu chốt về
kinh tế trong chính sách cải tạo hòa bình công thương
nghiệp tư bản tư doanh là chuộc lại tư liệu sản xuất và trả
dần tiền chuộc cho nhà tư sản. Song cùng với nó là sắp xếp
công ăn việc làm cho họ trong nhà máy, xí nghiệp; từng
bước cải tạo họ thành người lao động. Xí nghiệp tư bản tư
doanh cải tạo theo hình thức công tư hợp doanh hoặc xí
nghiệp hợp tác (chủ yếu là công tư hợp doanh). Công nhân
là những người trực tiếp tham gia cải tạo người tư sản với
nguyên tắc: đoàn kết - đấu tranh - đoàn kết.
Với đường lối, chủ trương, chính sách hợp lý, thuận
lòng người trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, nên
đến cuối năm 1960, 100% số cơ sở công thương nghiệp tư


Chương 41: Xây dựng và Phát huy vai trò...

365

bản tư doanh thuộc diện cải tạo đã được tổ chức thành xí
nghiệp công tư hợp doanh, xí nghiệp hợp tác. Gần một vạn
công nhân được giải phóng khỏi ách áp bức của tư bản;

1.533 tư sản được cải tạo thành người lao động; gần 90%
tổng số thợ thủ công thuộc diện cải tạo đã tham gia các hợp
tác xã thủ công nghiệp vừa và nhỏ, hơn 70.000 thợ thủ công
chuyển sang sản xuất nông nghiệp; đồng thời, 60% tổng số
người buôn bán nhỏ, làm dịch vụ và kinh doanh thuộc diện
cải tạo đã tham gia hợp tác xã, tổ mua bán, làm đại lý cho
thương nghiệp quốc doanh và trên 10.000 người đã chuyển
sang lao động sản xuất.
Cùng với kết quả của công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa, thành phần kinh tế quốc doanh có bước phát triển
mạnh mẽ: nông trường quốc doanh từ 16 nông trường
(1957) đã phát triển lên 59 nông trường (1960). Đến năm
1960, công nghiệp quốc doanh chiếm 89,9% tổng giá trị
sản lượng công nghiệp; vận tải quốc doanh chiếm 79,7%
tổng khối lượng vận tải hàng hóa; thương nghiệp quốc
doanh chiếm 49,5%. Công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực
phẩm năm 1960 so với 1957 tăng 60,4%. Công nghiệp địa
phương có bước phát triển vượt bậc: năm 1960 tăng gấp 10
lần so với năm 1957.
Đến đây, chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới hình
thức toàn dân và tập thể, cùng với nó là quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa đã được xác lập trong toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Thu nhập quốc dân tính theo đầu người năm
1960 tăng gấp đôi so với năm 1955, sức mua của xã hội


366

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập IX


tăng 70%. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
lao động được nâng cao một bước.
Cùng với thành tựu về cải tạo và phát triển về kinh tế,
văn hóa, giáo dục và y tế qua 3 năm (1958 - 1960) cũng
thu được kết quả rất đáng tự hào. Về giáo dục và đào tạo:
so với năm 1957, năm 1960, số học sinh phổ thông tăng
gấp 2 lần, học sinh trung cấp chuyên nghiệp tăng 4 lần,
sinh viên đại học tăng 4 lần. Riêng niên học 1960 - 1961,
miền Bắc có 1.900.000 học sinh phổ thông, 30.700 học sinh
trung cấp chuyên nghiệp, 13.800 sinh viên đại học. Về văn
hóa: năm 1960 đã xuất bản 27.500.000 cuốn sách,
68.000.000 tờ báo và tạp chí, 101 bộ phim, phát triển được
190 đội chiếu bóng, 54 đoàn nghệ thuật sân khấu, 2.965
nhà văn hóa, 211 trạm truyền thanh... Về y tế: năm 1960
có 203 bệnh viện và trạm y tế; các bệnh truyền nhiễm và
bệnh xã hội cơ bản được thanh toán...
Đặc biệt, đối với nhiệm vụ quân sự, ngay từ tháng
9-1954, Bộ Chính trị đã xác định: "Bất cứ tư tưởng và
hành động nào cho là đình chiến rồi thì mọi việc đều tốt
đẹp rồi bỏ rơi việc chuẩn bị chiến đấu, để cho tinh thần
đấu tranh uể oải, lơ là việc xây dựng lực lượng võ trang,
đều là sai lầm nguy hiểm... Cho nên tăng cường Quân đội
nhân dân là nhiệm vụ rất quan trọng của Đảng, Chính
phủ và của toàn thể nhân dân ta" 1.
_____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.15, tr.305-306.


Chương 41: Xây dựng và Phát huy vai trò...


367

Để bảo vệ thành quả cách mạng ở miền Bắc và sẵn
sàng chi viện chiến trường miền Nam đánh Mỹ, Quân đội
nhân dân Việt Nam được đầu tư xây dựng theo hướng
từng bước tiến lên chính quy, hiện đại. Các binh chủng và
quân chủng được thành lập. Quân số được duy trì ở mức
độ thích hợp, vũ khí và trang bị kỹ thuật được tăng cường,
được huấn luyện một cách bài bản và được bố trí theo
phương án phòng thủ chiến lược quốc gia. Đối với quân
thường trực, số lượng được tinh giảm. Một số đơn vị được
chuyển sang xây dựng các nông trường làm kinh tế tại
những địa bàn chiến lược trọng điểm - thực hiện nhiệm vụ
kết hợp làm kinh tế với quốc phòng. Đặc biệt tháng 3-1959,
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua
Luật nghĩa vụ quân sự, nhằm chủ động chuẩn bị trực tiếp
lực lượng hậu bị cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ.
330.000 cán bộ, chiến sĩ từ miền Nam, Lào và Campuchia
tập kết ra miền Bắc và các đại đoàn chủ lực, lực lượng vũ
trang liên khu, tỉnh được nhanh chóng chấn chỉnh, biên
chế thành các sư đoàn, trung đoàn bộ binh. Các đơn vị
phòng thủ bờ biển, biên phòng, bảo vệ giới tuyến được
thành lập. Các đơn vị binh chủng, viện quân y, hệ thống
cơ xưởng và kho tàng được biên chế, bố trí sắp xếp theo
phương án phòng thủ miền Bắc.
Thực hiện kế hoạch 5 năm xây dựng quân đội tiến lên
chính quy và tương đối hiện đại (Hội nghị Trung ương 12
thông qua), tổng quân số bộ đội thường trực giảm xuống
còn 160.000, biên chế thành 7 sư đoàn, 6 lữ đoàn và 12



×