Tải bản đầy đủ (.pdf) (269 trang)

Ebook lịch sử kháng chiến chống mỹ cứu nước 1954 1975 (tập 8 toàn thắng) phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.13 MB, 269 trang )

Chương 35

Tiến công giải phóng Huế - Đà Nẵng
Và các tỉnh trung trung bộ
I- mở chiến dịch Trị - Thiên giải phóng
thành phố Huế
Cùng với đòn tiến công Tây Nguyên mở đầu cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, trên hướng
phối hợp quan trọng Trị - Thiên và Khu 5, hoạt động tiến
công quân sự và nổi dậy của quân và dân ta cũng diễn ra
mạnh mẽ và rộng khắp.
Theo phân định của chính quyền Sài Gòn thì địa bàn
Trị - Thiên và Khu 5 thuộc Quân khu 1, bao gồm các tỉnh:
Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Đà, Quảng Tín và Quảng
Ngãi, với hai thành phố lớn là Huế và Đà Nẵng. Do vị trí
đặc biệt quan trọng của địa bàn chiến lược này, nhất là khu
vực Trị - Thiên, nơi tiếp giáp với miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, hướng phòng thủ chủ yếu hòng ngăn chặn tiến công
của ta từ miền Bắc vào, nên trong suốt cuộc chiến tranh,
cùng với miền Đông Nam Bộ, nơi đây, địch bố trí lực lượng
phòng thủ mạnh. Đầu năm 1975, lực lượng địch đóng tại


312

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập VIII

đây có 134.000 tên (trong đó có 84.000 quân chủ lực,
50.000 quân địa phương), bao gồm 5 sư đoàn (là các sư
đoàn bộ binh 1, 2, 3, Sư đoàn dù, Sư đoàn thuỷ quân lục
chiến), 4 liên đoàn biệt động quân (11, 12, 14, 15), 5 thiết


đoàn (4, 7, 11, 17, 20), 13 chi đội xe tăng, thiết giáp
(449 xe), 21 tiểu đoàn pháo binh (418 khẩu từ 105 mm
đến 175 mm), 1 sư đoàn không quân (373 máy bay, trong
đó có 96 máy bay chiến đấu), 3 duyên đoàn và giang đoàn
(165 tàu, thuyền), chưa kể 50 tiểu đoàn và 5 đại đội bảo
an, 6 đại đội cảnh sát dã chiến. Lực lượng trên đây được tổ
chức phòng ngự thành 3 tuyến:
Tuyến 1, với mật danh da cam, là tuyến tiếp giáp với
miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đây là tuyến bàn đạp để địch
mở các cuộc hành quân càn quét đánh phá các vùng căn
cứ, ngăn chặn ta xâm nhập từ miền Bắc vào. Chính vì vậy,
chúng bố trí xung lực và hoả lực mạnh.
Tuyến giữa, với mật danh là lục, chúng bố trí lực
lượng vừa phải.
Tuyến cuối, được đặt mật danh là xanh, có nhiệm vụ
bảo vệ các khu vực xung yếu bao gồm cơ quan đầu não
Quân khu 1. Có thể nói, cho đến đầu năm 1975, Quân khu 1
là một trong những địa bàn đối phương tổ chức bố phòng
mạnh nhất Nam Việt Nam nhằm ngăn chặn mọi cuộc tiến
công của chủ lực ta từ miền Bắc vào.
Địa bàn Trị - Thiên - Huế vào đầu tháng 3-1975, địch có
khoảng 56.000 tên, trong đó có 28.500 quân chủ lực, bao
gồm: Sư đoàn bộ binh 1, Sư đoàn thủy quân lục chiến, Sư
đoàn dù, 1 liên đoàn biệt động quân, 2 liên đoàn và 21 đại


Chương 35: tiến công giải phóng tây nguyên...

313


đội bảo an, 319 trung đội dân vệ, 10 tiểu đoàn và một số đại
đội, trung đội pháo binh (với 194 khẩu pháo các loại từ
105 mm đến 175 mm), 1 lữ đoàn kỵ binh thiết giáp (với 3
thiết đoàn gồm 260 xe tăng, xe bọc thép), 1 tiểu đoàn cao xạ
(27 xe M42 gắn pháo 40 mm loại 2 nòng, 37 xe gắn súng
máy 12,7 mm loại 4 nòng và 6 nòng), 3 duyên đoàn và 3
giang đoàn (81 tàu thuyền chiến đấu), 1 phi đoàn trực thăng
vũ trang, 2 phi đội máy bay trinh sát, chưa kể lực lượng
không quân ở sân bay Đà Nẵng chi viện trực tiếp. Lực lượng
này, chúng bố trí cụ thể như sau:
Từ Quảng Trị đến Mỹ Chánh có 2 lữ đoàn thủy quân
lục chiến (258, 369), Liên đoàn bảo an 913, Trung đoàn
thiết giáp 17 cùng lực lượng của Tiểu khu Quảng Trị và
các chi khu Hải Lăng, Triệu Phong, Mai Lĩnh.
Từ Mỹ Chánh đến bắc Huế có Lữ đoàn thủy quân lục
chiến 147, Trung đoàn thiết giáp 20, căn cứ pháo binh
Đồng Lâm, một số tiểu đoàn bảo an và lực lượng địa
phương quân thuộc các chi khu Quảng Điền, Phong Điền.
ở tây bắc Huế (Cổ Bi, Núi Gió, Sơn Na, Chúc Mao, An
Độ, Lai Bằng) có Trung đoàn 51 thuộc Sư đoàn bộ binh 1
cùng lực lượng địa phương quân thuộc Chi khu Hương Trà.
Từ tây nam Huế đến Phú Lộc có các trung đoàn 1, 3,
54 thuộc Sư đoàn bộ binh 1, Liên đoàn biệt động 15, Trung
đoàn thiết giáp 17, Duyên đoàn 106 (ở cửa Thuận An) và
một số tiểu đoàn bảo an cùng lực lượng địa phương quân
thuộc Tiểu khu Thừa Thiên, các chi khu Hương Thủy, Phú
Vang, Phú Thứ, Nam Hòa.


314


lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập VIII

Từ Phú Lộc đến đèo Hải Vân có Lữ đoàn dù 2, Liên
đoàn bảo an 914, một giang đoàn (ở cửa Tư Hiền) cùng lực
lượng Chi khu Phú Lộc.
Sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn 1 do tướng Lâm
Quang Thi - Phó Tư lệnh quân đoàn phụ trách, đóng tại
thành phố Huế. Đây cũng là một trong hai trọng điểm mà
địch tập trung bảo vệ (cùng với thị xã Quảng Trị).
Đối với ta, Trị - Thiên và Khu 5 có vị trí rất quan trọng.
Trị - Thiên là mảnh đất dài và hẹp, gồm hai tỉnh
Quảng Trị và Thừa Thiên, kéo dài từ sông Bến Hải đến
đèo Hải Vân. Đây là đầu mối hành lang vận chuyển chiến
lược chi viện cho miền Nam, là địa bàn trực tiếp đối đầu
với địch nhằm ngăn chặn âm mưu mở rộng chiến tranh ra
miền Bắc và sang chiến trường Lào. Đây cũng là nơi ta có
thể tổ chức các chiến dịch lớn tiêu diệt lực lượng cơ động
chiến lược của đối phương, thu hút, giam chân chúng, tạo
điều kiện cho các chiến trường khác phát triển. Trong
quyết tâm chiến lược năm 1975, Bộ Chính trị, Quân uỷ
Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã đánh giá: Chiến
trường Trị - Thiên - Huế là chiến trường có nhiều thuận
lợi hơn các chiến trường khác vì gần Trung ương, có điều
kiện chuẩn bị, bổ sung cơ sở vật chất kịp thời. Nếu ta tiến
công mạnh, làm chủ chiến trường Trị - Thiên - Huế, phá
vỡ hệ thống phòng ngự ở Quân khu 1, giam chân lực lượng
cơ động chiến lược của địch, sẽ tạo nên sự chuyển biến mới
về so sánh lực lượng và thế chiến lược, tạo điều kiện vận
chuyển vật chất, kỹ thuật và cơ động lực lượng xuống phía



Chương 35: tiến công giải phóng tây nguyên...

315

nam, giải phóng các tỉnh Nam Bộ 1. Chính vì vậy, Bộ
Chính trị, Quân uỷ Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh đã quyết
định chọn Trị - Thiên - Huế làm hướng tiến công phối hợp
quan trọng. Nhiệm vụ của chiến trường Trị - Thiên trong
năm 1975 được Quân uỷ Trung ương giao là: Đánh bại về
cơ bản bình định của địch, tạo ra ở Trị - Thiên - Huế một
tình thế mới có ý nghĩa quyết định để chuẩn bị cho giành
thắng lợi trong năm 1976, giải phóng hoàn toàn Trị Thiên - Huế 2. Cụ thể hơn: Trị - Thiên - Huế phải tiến
hành các chiến dịch tổng hợp cả quân sự và chính trị,
bằng lực lượng cả chủ lực của bộ, của địa phương quân
khu, phối hợp chặt giữa ba thứ quân, ba mũi giáp công.
Trong chiến dịch tổng hợp đó, phải nhằm tiêu diệt và
làm tan rã một phần quan trọng sinh lực địch, phải diệt
gọn được từng tiểu đoàn, trung đoàn địch, tạo điều kiện
đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của địch ở đồng
bằng, giành phần lớn nhân dân, giành quyền làm chủ;
khi địch đã hoang mang dao động mạnh thì phải nhanh
chóng chớp lấy thời cơ, tiến lên hành động mạnh bạo,
giành thắng lợi lớn nhất. Phải có hai kế hoạch: kế hoạch
cơ bản và kế hoạch thời cơ"3.
_____________
1. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử chiến dịch Trị Thiên và chiến dịch Đà Nẵng Xuân 1975, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 2006, tr. 34.


2, 3. Trung tướng Lê Tự Đồng: Trị - Thiên - Huế Xuân 1975,
Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1983, tr. 42, 43.


316

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập VIII

Lực lượng ta trên chiến trường Trị - Thiên lúc này
gồm Quân đoàn 2 và lực lượng của Quân khu Trị - Thiên.
Quân đoàn 2 có 3 sư đoàn bộ binh (304, 324, 325), Lữ đoàn
phòng không 673, Lữ đoàn pháo binh 164, Lữ đoàn xe
tăng 203, Lữ đoàn công binh 219, Trung đoàn thông tin
463 và một số đơn vị trực thuộc khác. Quân khu Trị Thiên có 3 trung đoàn bộ binh (4, 6, 271), 1 trung đoàn
pháo binh cơ giới, 1 trung đoàn cao xạ, 1 trung đoàn công
binh, 1 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn bộ binh đánh giao
thông, 1 tiểu đoàn vận tải cơ giới.., chưa kể các tiểu đoàn
bộ đội địa phương tỉnh, đại đội, trung đội địa phương
huyện và dân quân, du kích xã.
Nhằm bảo đảm tính thống nhất trong lãnh đạo chỉ
huy và hiệp đồng tác chiến, phát huy sức mạnh tổng hợp
của tất cả các lực lượng chủ lực và địa phương trên chiến
trường Trị - Thiên, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương
quyết định thành lập Đảng uỷ Mặt trận gồm các đồng chí
trong Thường vụ Khu uỷ, Quân khu uỷ Quân khu Trị Thiên và Thường vụ Đảng uỷ Quân đoàn 2 do đồng chí Lê
Tự Đồng làm Bí thư.
Ngày 21-2-1975, Đảng uỷ Mặt trận đã họp đi đến
thống nhất mở hai chiến dịch tiến công tổng hợp là chiến
dịch xuân hè (còn gọi là chiến dịch K175) dự kiến từ tháng
3 đến đầu tháng 5-1975 và chiến dịch thu dự kiến vào

tháng 7 đến tháng 8-1975. Ngoài kế hoạch cơ bản như đã
nêu, Đảng uỷ Mặt trận còn dự kiến kế hoạch thời cơ và kế
hoạch nghi binh đánh lạc hướng đề phòng của địch. Mục
tiêu đặt ra cho chiến dịch xuân hè là: Tập trung toàn bộ
lực lượng của Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2, đẩy


Chương 35: tiến công giải phóng tây nguyên...

317

mạnh tiến công tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh
lực địch, đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của chúng
ở Trị - Thiên, giành 35 vạn dân ở nông thôn đồng bằng,
phát động cao trào đấu tranh chính trị ở thành phố, đánh
mạnh các kho tàng, hậu cứ, triệt phá giao thông, tích cực
tạo thời cơ, tiến lên giành thắng lợi lớn, giải phóng thành
phố Huế.
Đảng uỷ Mặt trận đề ra yêu cầu đối với chiến dịch
xuân hè là: Phải phá lỏng, làm tan rã hệ thống kìm kẹp
của địch ở đồng bằng, giành từ 7 đến 10 vạn dân, tiêu diệt
được từ 5 đến 7 tiểu đoàn địch, phá vỡ thế phân tuyến,
chiếm lĩnh một số địa bàn có lợi, cắt đứt từng phần tiến tới
cắt đứt hoàn toàn tuyến giao thông chiến lược đường số 1
từ Huế đi Đà Nẵng, đồng thời thu hút, giam chân lực
lượng cơ động chiến lược của địch ở đây, tạo thuận lợi cho
các chiến trường khác phát triển. Thời cơ đến thì tung hết
lực lượng ra tiến công giải phóng toàn bộ nông thôn, bao
vây uy hiếp thành phố Huế, nếu có điều kiện thì giải
phóng hoàn toàn Trị - Thiên - Huế.

Hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch được xác định
từ tây nam Huế, theo đường 14 đến tây nam Phú Lộc
(nam Thừa Thiên). Mục tiêu tiến công chủ yếu là khu vực
Mỏ Tàu, điểm cao 303 đến bắc đèo Hải Vân. Hướng này do
Sư đoàn 324 (thiếu Trung đoàn 3) và Sư đoàn 325 (thiếu
Trung đoàn 95) của Quân đoàn 2 đảm nhiệm 1. Các hướng
khác do Quân khu Trị - Thiên phụ trách. Cụ thể:
_____________
1. Trung đoàn 3 - Sư đoàn 324 đang cùng Sư đoàn 304 làm nhiệm
vụ ở Thượng Đức, Trung đoàn 95 - Sư đoàn 325 đang ở Tây Nguyên.


318

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập VIII

ở Quảng Trị có Trung đoàn 46 được tăng cường 1 tiểu
đoàn pháo binh (Tiểu đoàn 6), 1 đại đội xe tăng, 5 tiểu
đoàn bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị, Tiểu đoàn 8
(thiếu), bộ đội địa phương các huyện Gio Linh, Cam Lộ,
Triệu Phong, Hải Lăng, Hướng Hoá cùng hơn 300 du kích,
51 đội vũ trang công tác, bộ phận đặc công hoạt động ở
đồng bằng.
Bắc Thừa Thiên (gồm các huyện Phong Điền, Quảng
Điền, Hương Trà) có Trung đoàn 4 bộ đội chủ lực Quân
khu, Đại đội 25 đặc công, Tiểu đoàn 10 của tỉnh và bộ đội
địa phương huyện, các đội vũ trang công tác.
Khu vực thành phố Huế và vùng ven do lực lượng vũ
trang và các đội công tác của thành phố đảm nhiệm.
Khu vực đồng bằng phía nam thành phố Huế gồm các

huyện Hương Thuỷ, Phú Vang có Tiểu đoàn 4 bộ binh, 1
đại đội đặc công của tỉnh cùng bộ đội địa phương huyện và
các đội vũ trang công tác.
Phía tây nam Huế và huyện Phú Lộc, ngoài lực lượng
của Quân đoàn 2, có Tiểu đoàn bộ binh 5 (thiếu 1 đại đội),
Tiểu đoàn 21 chủ lực Quân khu, 1 đại đội đặc công thuộc
Tiểu đoàn 2 đặc công tỉnh, bộ đội địa phương huyện và các
đội vũ trang công tác.
Đồng thời với xây dựng kế hoạch tác chiến, công tác
chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch cũng được tiến hành khẩn
trương, nhất là bảo đảm đường cơ động cho các lực lượng.
Thực hiện nhiệm vụ này, Lữ đoàn công binh 219, Trung
đoàn công binh 414 của Quân khu Trị - Thiên cùng các tiểu
đoàn công binh của các sư đoàn 324, 325, 673, Lữ đoàn


Chương 35: tiến công giải phóng tây nguyên...

319

pháo binh 164, Lữ đoàn xe tăng 203 và các đại đội công
binh của các trung đoàn bộ binh đã không ngại khó khăn,
ngày đêm phá núi, bạt rừng mở đường, bắc cầu. Nhờ vậy,
chỉ trong 40 ngày đêm, các tuyến đường cơ động trọng yếu
như đường 73, 74 từ đường 14 (đông Trường Sơn) toả
xuống các địa bàn chiến dịch với chiều dài 65 km đã
nhanh chóng được khôi phục, mở rộng. Quân đoàn 2 và
Quân khu Trị - Thiên còn mở thêm một đường đất từ A
Lưới nối với đường 14 bảo đảm cho xe cơ giới cơ động và
làm các đường nhánh xung quanh Động Truồi, tả và hữu

ngạn sông Truồi, bảo đảm cho Sư đoàn 325 vào vị trí tập
kết, triển khai tiến công, khi có thời cơ, cơ động ra cắt
đường 1.
Để bảo đảm vật chất phục vụ cho chiến dịch, Đoàn
559 huy động tối đa các phương tiện vận tải, cùng hàng
ngàn cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu và
nhân dân hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên vận chuyển
lương thực, thực phẩm và đạn dược. Chỉ sau một thời
gian ngắn, hàng ngàn tấn vũ khí, lương thực, thuốc chữa
bệnh, quân trang, quân dụng được chuyển gấp vào lót ổ ở
các kho trên địa bàn chiến dịch. Các tỉnh, huyện còn tổ
chức các trạm thu mua lương thực tại chỗ, vận chuyển về
tập kết ở các cơ sở bí mật. Các tuyến bảo đảm hậu cần,
quân y, thông tin, các trạm sửa chữa xe máy, vũ khí, khí
tài được thiết lập trên các hướng. Có thể nói, chưa bao giờ
chiến trường Trị - Thiên - Huế được chuẩn bị đầy đủ vật
chất cho chiến dịch như lúc này.
Về tổ chức chỉ huy, Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham


320

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập VIII

mưu trực tiếp chỉ đạo Quân đoàn 2 và Quân khu Trị Thiên trong quá trình thực hiện chiến dịch. Trên các
hướng chiến dịch, Bộ Tư lệnh Quân khu và Quân đoàn 2
tổ chức các sở chỉ huy. Quân khu Trị - Thiên tổ chức hai sở
chỉ huy: Sở chỉ huy cơ bản và Sở chỉ huy tiền phương. Sở
chỉ huy cơ bản đóng ở Cốc Ba Bó gồm các đồng chí Hồ Tú
Nam, Dương Bá Nuôi, Trần Văn Ân và một số đồng chí

đại diện địa phương như Nguyễn Vạn - Khu uỷ viên,
Trưởng ban Dân vận, Nguyễn Trung Chính - Uỷ viên
Thường vụ Tỉnh uỷ, Trịnh Đình Phung - Tỉnh đội phó. Sở
chỉ huy cơ bản trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy cánh bắc Huế và
Quảng Trị. Sở chỉ huy tiền phương có các đồng chí: Lê Tự
Đồng - Bí thư Đảng uỷ Mặt trận, Tư lệnh quân khu;
Nguyễn Văn Thanh (Thanh Quảng) - Phó Chính uỷ;
Nguyễn Chi - Tham mưu trưởng; Nguyễn Mạnh Thoa Tham mưu phó. Sở chỉ huy tiền phương có nhiệm vụ chỉ
huy toàn bộ mặt trận nam Thừa Thiên (kể cả khu vực
đường 12, thành phố Huế) và trực tiếp hiệp đồng với Quân
đoàn 2.
Quân đoàn 2 đặt Sở chỉ huy cơ bản (có các đồng chí
Nguyễn Hữu An - Tư lệnh quân đoàn, đồng chí Lê Linh Chính uỷ) ở Động Truồi, nam Thừa Thiên.
Nhằm đánh lạc hướng phán đoán của đối phương, tạo
điều kiện thuận lợi cho các lực lượng tham gia chiến dịch
cơ động vào vị trí tập kết an toàn, bí mật, tại Quảng Trị,
Quân khu Trị - Thiên tổ chức cuộc diễn tập tiến công địch
ở Thanh Hội, Cửa Việt, sau đó là ở ái Tử, Tích Tường,
Như Lệ. Cuộc diễn tập khiến đối phương lúng túng trong


Chương 35: tiến công giải phóng tây nguyên...

321

việc xác định hướng tiến công chủ yếu của ta. Trong khi
đó, Trung đoàn 9 thuộc Sư đoàn 304 bí mật rút khỏi
Quảng Trị, về đứng chân trong đội hình Sư đoàn làm lực
lượng dự bị của quân đoàn; Trung đoàn 46 tăng cường
cho Trị - Thiên thay Sư đoàn 325 ở hướng Quảng Trị,

cũng vào chiếm lĩnh vị trí an toàn.
Chỉ một ngày sau khi chiến dịch Tây Nguyên mở màn,
ngày 5-3-1975, phối hợp với chiến trường chính đánh địch,
chiến dịch tiến công tổng hợp xuân hè 1975 * ở Trị - Thiên
cũng bắt đầu. Lực lượng vũ trang địa phương mở một số
trận đánh trên các trục đường giao thông, trong đó, điển
hình là trận phục kích của Tiểu đoàn bộ binh 21 chặn
đánh đoàn xe địch trên đèo Hải Vân làm tắc nghẽn giao
thông của địch từ Huế đi Đà Nẵng; trận đánh sập cầu An
Lỗ trên đường số 1, cách Huế 25 km về phía bắc của Đại
đội 25 gây khó khăn cho địch trong việc cơ động lực lượng
và vận chuyển hàng quân sự từ Huế ra Quảng Trị; trận
vây ép điểm cao 367, động Ông Do của Tiểu đoàn 8 bộ
đội địa phương tỉnh Quảng Trị; trận pháo kích vào căn
cứ Đồng Lâm, sân bay Phú Bài của pháo binh Quân khu
Trị - Thiên...
Các hoạt động trên đây của lực lượng vũ trang địa
phương làm lạc hướng sự chú ý của đối phương. Lợi dụng
tình hình này, từ ngày 6 đến ngày 8-3-1975, Tiểu đoàn 8
bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị, Tiểu đoàn 10 bộ đội
địa phương tỉnh Thừa Thiên, Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn
_____________
* Sau gọi là chiến dịch Trị - Thiên.


322

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập VIII

21 chủ lực quân khu, Tiểu đoàn 3 đặc công của thành phố

Huế cùng hơn 100 đội công tác vũ trang nhanh chóng cơ
động xuống đồng bằng phối hợp với lực lượng vũ trang tại
chỗ đồng loạt tiến công các chi khu, quận lỵ, phân chi
khu, vũ trang tuyên truyền ở 53 xã với trên 20 vạn dân.
Ta làm chủ quận lỵ Mai Lĩnh và 11 phân chi khu. Lúc
này, trên hướng tiến công chủ yếu ở tây nam Huế, Sư
đoàn 324 của Quân đoàn 2 đã triển khai xong lực lượng,
chuẩn bị tiến công địch ở Mỏ Tàu và trên điểm cao 303.
Sáng ngày 8-3-1975, sau loạt đạn pháo bắn cấp tập
vào các điểm cao 303, 75, 76, 224, Mỏ Tàu, cuộc tiến công
của Sư đoàn 324 bắt đầu. ở mũi tiến công chủ yếu, Trung
đoàn bộ binh 2 đánh mạnh vào hai mục tiêu then chốt là
điểm cao 303 và 224. ở mũi thứ yếu, Trung đoàn 1 tiến công
điểm cao 75, 76. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt. Đến 10
giờ ngày 8-3, ta chỉ mới chiếm được mỏm E6, E7 thuộc
điểm cao 224.
Ngày 10-3-1975, với sự chi viện của pháo binh Sư đoàn
325, Trung đoàn 2 đã chiếm được điểm cao 224 và 273,
loại khỏi vòng chiến đấu 2 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 1
và Trung đoàn 54 - Sư đoàn 1 quân đội Sài Gòn. Cũng thời
gian này, Sư đoàn 324 tổ chức một bộ phận trinh sát
luồn sâu, bí mật tập kích tiêu diệt cụm xe tăng địch ở
núi Nghệ, uy hiếp đối phương ở phía tây và vùng đồng
bằng nam Huế.
Mất điểm cao 224 và một số vị trí quan trọng khác, Mỏ
Tàu và điểm cao 303 bị đe doạ, dẫn tới nguy cơ đường 1 bị
cắt, Trị - Thiên - Huế sẽ bị cô lập. Trước tình hình đó, địch


Chương 35: tiến công giải phóng tây nguyên...


323

vội điều thêm lực lượng tăng cường cho tuyến phòng thủ
này và tổ chức phản kích để chiếm lại cao điểm 224: Tiểu
đoàn 61 thuộc Liên đoàn biệt động quân 15 được điều ra
núi Bông; Tiểu đoàn biệt động quân 94, 96 và Chi đoàn
thiết giáp 27 giữ điểm cao 31; Chi đoàn thiết giáp 37 cùng
1 đại đội của Tiểu đoàn 154 án ngữ điểm cao 52; Tiểu đoàn
2 thuộc Trung đoàn 1 - Sư đoàn 1 ra tăng cường chuẩn bị
phản kích chiếm lại điểm cao 224.
Ngày 13-3-1975, cuộc phản kích của địch bắt đầu.
Địch dùng phi pháo bắn phá ác liệt vào trận địa ta, yểm
trợ cho bộ binh tiến công liên tục vào điểm cao 224. Cuộc
chiến đấu diễn ra hết sức quyết liệt và dai dẳng, kéo dài 7
ngày không phân thắng bại. Cuối cùng, địch chiếm một
phần điểm cao 224.
Nhìn chung trên hướng chủ yếu của chiến dịch, cho
đến thời điểm này, ta đã phá vỡ một mảng lớn hệ thống
phòng ngự của đối phương ở khu vực đường 14, diệt và bắt
sống gần 1.000 tên, trong đó, 1 tiểu đoàn bị diệt gọn, 1
tiểu đoàn khác bị đánh thiệt hại nặng. Kết quả đạt được
tuy còn khiêm tốn, song điều quan trọng là ta đã thu hút,
giam chân một lực lượng lớn chủ lực địch tại đây, tạo
thuận lợi cho hướng khác hoạt động mạnh.
Phối hợp với hướng chủ yếu, ngày 8-3-1975, trên các địa
bàn do Quân khu Trị - Thiên đảm nhiệm, lực lượng vũ
trang địa phương đồng loạt tiến công ở nhiều địa điểm.
Tại khu vực đường số 12, Tiểu đoàn 9 - Trung đoàn
271 cùng Trung đoàn 6 chủ lực Quân khu tiến công căn cứ



324

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập VIII

La Sơn, Chúc Mao, điểm cao 300. Đối phương phán đoán
đây là hướng tiến công chủ yếu của ta nên chúng tổ chức
phòng ngự rất kiên cố và tổ chức phản kích quyết liệt.
Trung đoàn 6 vừa tiến công vừa bao vây, tạo thế uy hiếp,
thu hút lực lượng địch, làm cho chúng bị căng kéo, dàn
mỏng đối phó, tạo điều kiện cho quân và dân các địa
phương vùng đồng bằng đẩy mạnh tiến công.
ở phía nam Huế, ta đồng loạt tiến công vào 6 phân chi
khu ở Phú Vang, 1 phân chi khu ở Hương Thuỷ, các phân
chi khu Vĩnh Giang, Vĩnh Hải, Vĩnh Hiến và Chi khu
quân sự Vĩnh Lộc, phá rã, phá lỏng hệ thống kìm kẹp của
đối phương ở nhiều ấp, xã.
Phía bắc Huế, Trung đoàn bộ binh 4 được pháo binh
Trung đoàn 16 và Trung đoàn 223 chi viện, đã tiến công
và làm chủ căn cứ Phổ Lại. Đối phương phản kích quyết
liệt hòng chiếm lại địa bàn quan trọng này. Trung đoàn 4
đã kiên cường chiến đấu, trụ vững trong 6 ngày, bẻ gãy
các đợt phản kích của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 530
tên, bắn rơi 1 máy bay, phá huỷ 6 xe quân sự, 3 khẩu
pháo, thu nhiều vũ khí. Cùng với đòn tiến công của Trung
đoàn 4, lực lượng vũ trang huyện Phong Điền cùng các đội
công tác vũ trang đồng loạt tiến công diệt gọn 5/9 phân chi
khu, làm tan rã chính quyền cơ sở địch ở thôn, xã.
Tại Quảng Trị, lực lượng vũ trang địa phương tập kích

địch ở điểm cao 122, 118, 90, đồng thời chế áp trận địa
pháo ở Dốc Bầu, Tân Điền. Đáng chú ý, đêm ngày 8 rạng
ngày 9-3, Đại đội 12 phối hợp cùng Đại đội trinh sát 130,
Tiểu đoàn đặc công 10 của tỉnh tiến công chi khu quân sự


Chương 35: tiến công giải phóng tây nguyên...

325

Mai Lĩnh - một mắt xích quan trọng trong tuyến phòng
thủ của địch ở Quảng Trị, diệt 100 tên.
Hoạt động mạnh của ta ở vùng giáp ranh đã cổ vũ
phong trào ở đồng bằng phát triển. Vùng đồng bằng
Quảng Trị, từ ngày 8-3, các đội vũ trang công tác cùng bộ
đội địa phương, dân quân, du kích tiến công các phân chi
khu Hải Nhi, Hải Kinh, Hải Vân, diệt và bức rút 11 chốt
địch đóng xung quanh điểm cao 235 và 21 chốt ở tây Hải
Lăng. ở đồng bằng Thừa Thiên, lực lượng vũ trang tại chỗ
hỗ trợ nhân dân Phú Lộc, Phú Thứ, Phong Quảng, Hương
Trà nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ 13 xã,
giải phóng hơn 30.000 dân.
Vào thời điểm này, trên chiến trường Tây Nguyên, ta
giành thắng lợi hết sức quan trọng, giải phóng Buôn Ma
Thuột, làm đảo lộn thế phòng ngự của đối phương ở Tây
Nguyên. Bộ Chính trị họp ngày 11-3-1975 nhận định: Ta
giành thắng lợi lớn trên các chiến trường, đặc biệt là Tây
Nguyên và Khu 5 làm tinh thần quân địch suy sụp rất
nhanh, ta có khả năng giành thắng lợi với nhịp độ nhanh
hơn. Quân uỷ Trung ương trong bức điện gửi các chiến

trường cũng khẳng định: Tây Nguyên giành thắng lợi lớn
và còn có khả năng giành thắng lợi lớn hơn, với nhịp độ
tiến công nhanh hơn... Địch đang lúng túng điều động lực
lượng cơ động chiến lược để đối phó. Ta cần khẩn trương,
tận dụng điều kiện thuận lợi, nhanh chóng tập trung lực
lượng tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch và có kế hoạch
chớp thời cơ như đã dự kiến.
Quán triệt tinh thần trên của Bộ Chính trị và Quân


326

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập VIII

uỷ Trung ương, quân và dân Trị - Thiên đẩy mạnh tiến
công và nổi dậy. Đáng chú ý, ngày 13-3-1975, Trung đoàn
6 chủ lực Quân khu mở đợt tiến công ở Chúc Mao, điểm
cao 300, đồng thời dùng hoả lực bắn phá La Sơn, đồi
Không Tên, uy hiếp đối phương ở Động Tranh, Bình Điền.
Trước áp lực mạnh của ta ở phía tây Huế, ngày 14 và 15-31975, Trung đoàn 3 - Sư đoàn bộ binh số 1 quân đội Sài
Gòn phải rút bỏ khu vực phía tây đường 12 đoạn từ Đèo
Đông đến điểm cao 551 về phòng ngự giữ Động Tranh,
Bình Điền, bảo vệ thành phố Huế.
Tình hình diễn biến hết sức mau lẹ. ở Tây Nguyên,
những thắng lợi liên tiếp của ta đã đưa Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu đến một quyết định sai lầm là ra lệnh
rút bỏ Kon Tum, Plâyku về co cụm ở đồng bằng. Thiệu còn
lệnh điều Sư đoàn dù ở Đà Nẵng vào tăng cường phòng
thủ Sài Gòn. Thay vào đó, Sư đoàn thuỷ quân lục chiến
được điều từ Quảng Trị vào Đà Nẵng. Lữ đoàn 369 và Lữ

đoàn 258 thuỷ quân lục chiến cũng được điều vào Quảng
Nam và bắc Hải Vân. Sự điều động trên đây của Thiệu
khiến lực lượng quân đội Sài Gòn ở Quảng Trị suy giảm
đáng kể, cho dù đã được tăng cường Liên đoàn biệt động
quân 14; thế bố trí bị đảo lộn, tuyến phòng thủ trở nên
lỏng lẻo, khó có thể giữ vững khi bị đối phương tiến công.
Trước tình hình đó, theo sự chỉ đạo của Quân uỷ
Trung ương, ngày 17-3-1975, Thường vụ Khu uỷ và Quân
khu uỷ Trị - Thiên đã họp và hạ quyết tâm: Dùng toàn bộ
lực lượng chủ động, táo bạo bất ngờ tiến công trên hai
hướng: hướng đông từ thôn Thanh Hội theo trục đường 68


Chương 35: tiến công giải phóng tây nguyên...

327

và hướng tây từ Tích Tường, Như Lệ theo đường số 1 tiến
vào phía nam. Trên hướng bắc, đưa toàn bộ Trung đoàn
bộ binh 4 ra cắt địch ở An Lỗ. Trên hướng nam, bỏ khu
vực điểm cao 303, 224 chuyển sang tiến công cắt giao
thông địch ở đường số 1 khu vực Lương Điền - Đá Bạc
(Phú Lộc). Thời gian bắt đầu tiến công chậm nhất là
ngày 19-3-1975 1.
Chỉ một ngày sau cuộc họp trên, đồng chí Lê Trọng
Tấn - Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt
Nam gửi điện cho Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2.
Bức điện chỉ rõ: Địch rút khỏi Kon Tum, Plâyku. Yêu cầu
phải táo bạo, hành động khẩn trương. Quân khu Trị Thiên gấp rút đưa lực lượng xuống và đẩy mạnh hoạt động
ở vùng sâu đồng bằng. Không chỉ đưa các tiểu đoàn mà

đưa cả trung đoàn xuống phối hợp với bộ đội địa phương,
dân quân, du kích và các đội công tác đánh chiếm và làm
chủ vùng sâu, diệt ác phá kìm... Quân đoàn 2 nhanh
chóng tiêu diệt quận lỵ Phú Lộc, cắt đứt đường số 1, gấp
rút chuẩn bị hoả lực đánh Đà Nẵng2.
Cùng ngày, Bộ Tổng tham mưu gửi tiếp một bức điện
với nội dung: Có khả năng địch bỏ từ Huế đến sông Thạch
Hãn. Việc điều chỉnh bố trí này nằm trong kế hoạch co
cụm lớn về chiến lược toàn miền Nam. Trước tình hình
_____________
1. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử chiến dịch Trị Thiên và chiến dịch Đà Nẵng Xuân 1975, Sđd, tr. 66-67.
2. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2: Lịch sử Quân đoàn 2 (1974-1994),
Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.154-155.


328

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập VIII

đang rất thuận lợi, các đồng chí cần chỉ huy các đơn vị
thuộc quyền hoạt động một cách táo bạo, khẩn trương,
không cho địch rút lui bỏ vùng bắc Huế một cách an toàn
mang theo cả bọn phản động về co cụm ở Đà Nẵng, sau này
sẽ khó khăn cho ta. Phải nhanh chóng đánh xuống đường
số 1, cắt đường, đánh sân bay, kho tàng ở Phú Bài 1.
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu và quyết
tâm của Khu uỷ, Quân khu uỷ, từ đêm 18 rạng ngày 19-31975, các lực lượng vũ trang ta đồng loạt tiến công vào
tuyến phòng thủ của đối phương ở Quảng Trị.
ở hướng đông, Tiểu đoàn 3 bộ đội địa phương tỉnh
Quảng Trị được tăng cường 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội

pháo binh hỗn hợp chia làm hai mũi, mũi chủ yếu theo
tỉnh lộ 68 diệt địch ở Tài Lương, Đạo Đầu, sau đó phát
triển sang Phù Lưu, Triệu Dương. Mũi thứ hai đánh
địch ở Thanh Hội, Gia Đẳng, Mỹ Thuỷ và phát triển vào
Thẩm Khế.
Hướng tây bắc, Tiểu đoàn 14 cùng Đại đội Lê Hồng
Phong đánh chiếm điểm cao 15, Phước Môn, Tích Tường,
Như Lệ, La Vang...
Hướng tây, Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn 812 và Tiểu đoàn
10 tiến công đối phương ở Dốc Bầu, Mỹ Chánh, Hồ Lầy...
Cùng với lực lượng vũ trang đánh địch, du kích các địa
phương cũng chuyển từ vây ép địch ở tây nam Hải Lăng
sang tiến công truy kích diệt địch ở các điểm cao 235, 367,
_____________
1. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2: Lịch sử Quân đoàn 2 (1974-1994),
Sđd, tr. 154-155.


Chương 35: tiến công giải phóng tây nguyên...

329

222, động Ông Do... Nhân dân các huyện vùng giáp ranh,
vùng đồng bằng nổi dậy phá bỏ các khu tập trung, chiếm
trụ sở chính quyền địch ở cơ sở, giành quyền làm chủ.
18 giờ 30 phút ngày 19-3-1975, tỉnh Quảng Trị hoàn
toàn được giải phóng. Tuyến phòng thủ phía bắc của địch
đứng trước nguy cơ bị phá vỡ hoàn toàn.
Lúc này, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên, Tiểu đoàn 15 Trung đoàn 3 chủ lực Quân khu và Đại đội 10 đặc công
tỉnh cùng lực lượng tại chỗ đánh trả các cuộc phản kích

của đối phương ở phía bắc tỉnh. Đồng thời, pháo binh
Quân đoàn 2 bắn phá các căn cứ Hiệp Khánh, cầu An Lỗ,
Tập Lộc, Mang Cá, gây cho địch nhiều thiệt hại.
Trước sức tiến công mạnh mẽ và bất ngờ của ta trên toàn
tuyến phòng thủ phía bắc, đối phương hoảng sợ rút chạy về
phía nam, co cụm ở tuyến Mỹ Chánh - Thanh Hương.
Ngay khi địch rút khỏi Quảng Trị và bắt đầu tháo
chạy khỏi Tây Nguyên, ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị và
Quân uỷ Trung ương đã họp nhận định: Ta đã tiêu diệt
đại bộ phận Quân đoàn 2 quân đội Sài Gòn, giải phóng
Tây Nguyên. Thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của ta đã
đánh dấu một bước mới trong cục diện chung. Trên cơ sở
đánh giá này, Bộ Chính trị hạ quyết tâm khẩn trương
chuyển sang thực hiện phương án thời cơ hoàn thành kế
hoạch giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975. Hướng
tiến công chiến lược là Sài Gòn, song trước mắt phải
nhanh chóng tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch ở Vùng 1
chiến thuật, giải phóng Huế - Đà Nẵng.
Ngày 20-3-1975, Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị cho Mặt trận


330

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập VIII

Trị - Thiên: Tiếp tục tiến công địch. Quân khu Trị - Thiên sử
dụng 2 trung đoàn (4, 46) hình thành mũi tiến công từ
phía bắc. Quân đoàn 2 hình thành mũi tiến công từ phía
nam đánh ra tiêu diệt địch ở Huế, bịt chặt cửa Thuận An,
chặn địch rút chạy theo đường biển vào Đà Nẵng.

Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị và chỉ thị của Bộ
Tổng tư lệnh, Quân khu Trị - Thiên quyết định: Tranh thủ
thời cơ dốc toàn lực giải phóng Thừa Thiên - Huế bằng một
cuộc tiến công tổng hợp, toàn diện, lấy chia cắt và bao vây
chiến dịch kết hợp với các mũi thọc sâu của chủ lực làm
biện pháp then chốt, đồng thời sử dụng lực lượng vũ trang
địa phương trực tiếp đánh địch, hỗ trợ và vận động quần
chúng nổi dậy giành dân và giữ dân, đưa chiến dịch đến
toàn thắng. Hết sức chú ý, không cho địch co cụm lại trong
1
thành phố Huế . Đồng thời, Quân khu thống nhất với
Quân đoàn 2 phương án giải phóng thành phố Huế và toàn
tỉnh Thừa Thiên.
Lúc này, ở Thừa Thiên - Huế, địch có 5 trung, lữ đoàn
với tổng quân số 46.500 quân (27.500 quân chủ lực, 19.000
quân địa phương), chưa kể 36.000 phòng vệ dân sự. Toàn
bộ lực lượng này được bố trí như sau: Lữ đoàn 147 - Sư
đoàn 1 bộ binh đóng ở Hòn Vượn, Trung đoàn 1 và Trung
đoàn 54 (Sư đoàn 1) đóng ở Mỏ Tàu, Trung đoàn 3 của Sư
đoàn này đứng chân ở Hương Thuỷ, Liên đoàn bảo an 913
ở Hương Điền, Liên đoàn 914 ở An Lỗ, Liên đoàn 15 biệt
động quân và Thiết đoàn 17 ở Đa Nghi - Đơn Quế, Thiết
đoàn 7 ở Phú Bài, Thiết đoàn 20 ở Phong Điền.
_____________
1. Lê Tự Đồng: Trị Thiên - Huế Xuân 1975, Sđd, tr. 82-83.


Chương 35: tiến công giải phóng tây nguyên...

331


Phương án tiến công giải phóng hoàn toàn Thừa Thiên Huế được Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 bàn bạc
thống nhất:
Hướng nam Huế do Quân đoàn 2 (thiếu Sư đoàn 304)
đảm nhiệm, trong đó, Sư đoàn 325 (thiếu) được giao nhiệm
vụ đánh phá hệ thống phòng thủ của đối phương ở các
điểm cao 560, 520, 494, dãy Kim Sắc, cắt đường số 1 (đoạn
giữa Hương Điền - Phú Lộc) và sẵn sàng đánh địch giải
toả trên cả hai hướng từ Huế vào và từ Đà Nẵng ra; Sư
đoàn 324 có nhiệm vụ tiêu diệt địch ở điểm cao 303, Mỏ
Tàu, sau đó hình thành hai mũi: Một mũi đánh chiếm La
Sơn - Phú Bài và theo đường số 1 đánh thẳng vào Huế;
một mũi bí mật vu hồi xuống đồng bằng đánh cảng Tân
Mỹ, bịt cửa Thuận An.
Hướng bắc Huế, 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh
Quảng Trị được sự hỗ trợ của pháo binh và xe tăng tiến
công quận lỵ Hương Điền, sau đó phát triển vào cửa biển
Thuận An, ngã ba Sình. Trung đoàn 4 bộ binh Quân khu
Trị - Thiên được tăng cường Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương
tỉnh Quảng Trị và pháo binh chi viện đánh Lữ đoàn 147
thuỷ quân lục chiến ở tuyến sông Bồ, sau đó cũng phát
triển ra cửa Thuận An, ngã ba Sình.
Hướng tây Huế (đường 12), hai trung đoàn bộ binh 6
và 271 Quân khu Trị - Thiên có pháo binh chi viện đánh
chiếm Đình Môn, Kim Ngọc. Trung đoàn 6 vượt sông
Hương, phát triển tiến công vào khu tam giác, chặn đối
phương từ đường số 2 chạy về. Trung đoàn 271 sau khi
vượt qua sông Hương tiến về phía đông thành phố Huế
chia cắt đối phương giữa Huế và Phú Bài rồi phát triển



332

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập VIII

về quận lỵ Phú Vang hợp vây cùng Quân đoàn 2 diệt
địch ở Phú Vang, cửa Thuận An, cảng Tân Mỹ.
Cùng với các hướng tiến công, pháo binh của Quân
khu và Quân đoàn 2 đánh phá Sở chỉ huy tiền phương Quân
đoàn 1 quân đội Sài Gòn ở Mang Cá (Huế); đơn vị K5 đặc
công nước của hải quân đặt thuỷ lôi khống chế địch ở cửa
biển Thuận An, cửa Tư Hiền và cảng Tân Mỹ. Lực lượng
vũ trang địa phương tỉnh, huyện và dân quân, du kích xã
tích cực phối hợp với bộ đội chủ lực đánh địch, đồng thời
phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành
quyền làm chủ.
Phương án trên được Bộ Tổng Tư lệnh chấp thuận.
Mọi công tác chuẩn bị được tiến hành khẩn trương. Theo
đúng phương án đã xác định, 5 giờ 40 phút ngày 21-3, cuộc
tiến công giải phóng toàn tỉnh Thừa Thiên - Huế bắt đầu.
Hướng nam thành phố Huế, Trung đoàn 18 - Sư đoàn
325 nhanh chóng làm chủ các điểm cao 494, 520, đồi Yên
Ngựa và mỏm 1 điểm cao 560, nơi Tiểu đoàn 61 biệt động
quân đóng chỉ huy sở. Cùng thời gian này, Trung đoàn 1 Sư đoàn 324 đánh chiếm núi Bông nhưng ngay sau đó, đối
phương phản kích chiếm lại. Trung đoàn 2 - Sư đoàn 324
đánh chiếm điểm cao 224 và phát triển tiến công chiếm
được một nửa điểm cao 303. Trung đoàn 18 sau khi chiếm
mỏm 1 điểm cao 560 đã phải dừng lại và do vậy, khả năng
cắt đứt đường số 1 không thể thực hiện được. Trước tình
hình này, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 325 lệnh cho Trung

đoàn 18 đưa lực lượng dự bị (Đại đội 7 - Tiểu đoàn 8) tăng
cường tiếp tục đánh chiếm điểm cao 560; đồng thời, lệnh
cho Trung đoàn 101 - Sư đoàn 325 đưa Tiểu đoàn 2 tiến


Chương 35: tiến công giải phóng tây nguyên...

333

công điểm cao 329 hỗ trợ cho Trung đoàn 18. Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 101 làm nhiệm vụ bao vây cũng chuyển sang
tiến công tiêu diệt địch ở điểm cao 310, 312. Trưa ngày 213-1975, Trung đoàn 101 đã hoàn thành việc tiêu diệt các
mục tiêu được giao, chiếm được dãy Kim Sắc, đập tan hệ
thống phòng ngự phía tây đường số 1 từ nam Lương Điền
đến bắc Phú Lộc. 15 giờ cùng ngày, Trung đoàn 19 hoàn
thành nhiệm vụ, diệt Tiểu đoàn 61 biệt động quân, làm
chủ điểm cao 560, bắt sống tên Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng.
Đây cũng là lúc quân đoàn nhận được chỉ thị của Bộ. Chỉ
thị nêu rõ: Địch bắt đầu rút khỏi Trị - Thiên - Huế, phải
khẩn trương đưa lực lượng xuống đồng bằng cắt đứt đường
1, bịt cửa Thuận An, diệt Sư đoàn 1 bộ binh quân đội Sài
Gòn, giải phóng hoàn toàn Trị - Thiên - Huế 1. Thực hiện
_____________
1. Trong bài Bàn thêm về việc tạo dựng và nắm bắt thời cơ trong
chiến dịch Quảng Nam - Đà Nẵng, đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự,
số tháng 4-2007, tác giả Đồng Thoại cho biết: "Vào sáng ngày 21-3, tại
Sở chỉ huy của Bộ, có một cuộc điện thoại trực tuyến giữa Tổng Tham
mưu phó Lê Trọng Tấn và đồng chí Nguyễn Hữu An - Tư lệnh Quân
đoàn 2. Sau khi nhắc lại tình hình và truyền đạt lệnh của Đại tướng
Tổng Tư lệnh cho Quân đoàn 2 phải bằng mọi cách cắt đường 1, đồng
chí Lê Trọng Tấn nói: "Nếu Quân đoàn 2 không cắt được đường 1, để

địch rút lui về cố thủ Đà Nẵng thì Quân đoàn 2 (cả Tư lệnh quân đoàn
nữa) có tội với lịch sử"". Theo tác giả: sau này, qua tổng kết, được biết,
toàn bộ Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 chỉ để lại Sở Chỉ huy cơ bản, có Chính
uỷ và Tham mưu phó, còn lại đã trực tiếp xuống đốc chiến và kết quả
là sáng 22-3, lực lượng Sư đoàn 325 đã xuống chiếm được đường 1 và
mở rộng ra 4 km, chặn đứng đường rút của địch. Khẩu hiệu của Sư
đoàn 325 lúc đó là: "Vị trí chỉ huy của sư đoàn, các trung đoàn và toàn
đơn vị là đường số 1"; "Hãy tiến ngay xuống đường số 1, lấy mặt đường
làm điểm hiệp đồng!"...


334

lịch sử kháng chiến chống mỹ, cứu nước... tập VIII

mệnh lệnh đó, ngay trong đêm ngày 21-3, Trung đoàn 18 Sư đoàn 325 tổ chức hành quân theo hướng đông tiến
xuống đồng bằng làm nhiệm vụ đánh cắt đường số 1. Rạng
sáng ngày 22-3, hai tiểu đoàn 7 và 8 của Trung đoàn 18 đã
tới sát đường 1. Trung đoàn khẩn trương triển khai đội
hình chiến đấu. Đến 10 giờ 30 phút ngày 22-3, ta đã tiêu
diệt các vị trí địch ở hai bên đường số 1, làm chủ một đoạn
dài 4 km từ Ràng Bò đến làng Bạch Thạch.
Cũng trong đêm ngày 21-3, đơn vị K5 đặc công nước
của hải quân đã đánh sập cầu Thừa Lưu (Phú Lộc) trên
đường 1, Trung đoàn 24 - Sư đoàn 324 chiếm lại điểm cao
224 và đánh bại nhiều đợt phản kích quyết liệt của địch ở
điểm cao 303 và khu vực Mỏ Tàu.
Đường số 1, con đường bộ duy nhất để rút về cố thủ ở
Đà Nẵng đã bị cắt, khiến đối phương ở Thừa Thiên - Huế
bị cô lập hoàn toàn. Hàng ngàn xe cộ các loại đang trên

đường từ Huế chạy vào Đà Nẵng phải quay trở lại. Đối
phương hoang mang cực độ. Sự hỗn loạn diễn ra chẳng
khác gì khi chúng rút khỏi Tây Nguyên. Không còn cách
nào khác, ngay trong ngày 22-3, chúng phải huy động lực
lượng phản kích nhằm giải toả đường 1, song cố gắng này
của địch đã không thành.
Tình hình Thừa Thiên - Huế hết sức nguy cấp, Tướng
Ngô Quang Trưởng - Tư lệnh Quân đoàn 1 - Quân khu 1
phải yêu cầu Nguyễn Văn Thiệu rút cơ quan Bộ Tư lệnh
tiền phương Quân đoàn 1 vào Đà Nẵng. Được sự đồng ý
của Thiệu, tối ngày 22-3-1975, Ngô Quang Trưởng ra lệnh
rút toàn bộ lực lượng và phương tiện chiến tranh ra khỏi


Chương 35: tiến công giải phóng tây nguyên...

335

thành phố Huế theo ba cánh: Cánh thứ nhất gồm Lữ 147
thuỷ quân lục chiến, Liên đoàn 14 biệt động quân, Trung
đoàn 5 thuộc Sư đoàn 1, Lữ đoàn 1 kỵ binh thiết giáp rút
theo đường biển qua cửa Thuận An vào Đà Nẵng. Cánh
thứ hai có Trung đoàn 3 - Sư đoàn 1, Liên đoàn 15 biệt động
quân rút ra trụ tại khu vực Cự Lại (nam Thuận An 6 km).
Cánh thứ ba là Trung đoàn 1, Trung đoàn 54 của Sư đoàn
1 rút theo cửa biển Tư Hiền vào Đà Nẵng.
Khi ta cắt đường 1, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 cũng đã
kịp thời nhận định, địch không thể lui quân theo đường
bộ, buộc phải rút theo đường biển qua cửa Thuận An và
Tư Hiền. Đây là thời cơ tốt nhất để ta tiêu diệt và làm tan

rã lớn quân địch, giải phóng Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên.
Kế hoạch phối hợp tác chiến với Quân khu Trị - Thiên
nhằm chặn địch rút bằng đường biển vào Đà Nẵng, tiêu
diệt chúng ngay tại Thừa Thiên - Huế được Quân đoàn
gấp rút hình thành. Theo đó, Trung đoàn 101 của Sư đoàn
325 tiến công tiêu diệt căn cứ Lương Điền, sau đó phối hợp
với Sư đoàn 324 theo đường 1 đánh ra Phú Bài - Huế;
Trung đoàn 18 - Sư đoàn 325 đánh vào phía nam diệt Chi
khu Phú Lộc, chiếm đèo Mũi Né, Phước Tượng, bịt chặt
cửa Tư Hiền, sẵn sàng đánh địch giải toả; Trung đoàn 1 và
2 của Sư đoàn 324 bỏ qua các mục tiêu núi Bông, núi
Nghệ, điểm cao 303, Mỏ Tàu, đánh thẳng xuống đồng
bằng ven biển, hợp với Sư đoàn 325 tạo thành thế bao vây
từ phía đông - đông nam, ngăn địch chạy ra cửa biển
Thuận An, Tư Hiền; Trung đoàn 3 - Sư đoàn 324 được
tăng cường 1 đại đội xe tăng (của Lữ đoàn 203) diệt căn cứ


×