Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Đề cương tóm tắt môn Văn học Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.79 KB, 35 trang )

CHƯƠNG 1
KHÁI LƯỢC VĂN HỌC NHẬT BẢN
1.1

Vài nét khái quát về đất nước- con người Nhật Bản
-

Điều kiện tự nhiên nước Nhật

Đất nước Nhật Bản với diện tích 377. 837 m 2, là một quần đảo trải dài từ Đông
Bắc xuống Tây Nam, nằm ngoài khơi bờ biển phía Đông lục địa châu Á (Nhật Bản được
xếp vào những quốc gia thuộc khu vực Đông Bắc Á và người phương Tây vẫn quen gọi
Nhật Bản là vùng “Viễn Đông”). Bốn đảo chính của Nhật gồm: Hokkaido, Honshu,
Shikoku và Kyushu. Với vị trí địa lý là một quần đảo ở xa đại lục, Nhật Bản có đủ
khoảng cách xa để tránh các cuộc xâm lăng, bành trướng lãnh thổ nhưng đồng thời, cũng
vẫn nằm trong khoảng cách gần để tiếp nhận những ảnh hưởng từ văn hóa đại lục.
Đặc điểm tự nhiên chính của quần đảo Nhật Bản là sự bất ổn địa chất với những
hoạt động bất thường của núi lửa và động đất. Về khí hậu, do nằm trong vùng gió mùa
thuộc bờ biển phía Đông Á nên ở Nhật Bản, phạm vi thay đổi nhiệt độ rất rộng và lượng
mưa hàng năm tương đối lớn. Từ đó, Nhật Bản có đủ bốn mùa trong năm, với đầy đủ
những đặc tính của khí hậu từ cận nhiệt đới đến ôn đới và hàn đới.
Tokyo- thủ đô Nhật Bản hiện nay- nằm trên đồng bằng Kanto, phía Thái Bình
dương, giữa đảo Honshu.
-

Dân tộc Nhật

Từ việc phân tích những di tích loài người lâu đời nhất được nhận biết tại Nhật
Bản từ thời kỳ Jomon (khoảng năm 8.000- 300 trước CN), các nhà nghiên cứu đi đến hai
giả thuyết về nguồn gốc người Nhật Bản (còn được gọi là Yamato) trong lịch sử:
+ Hòn đảo Nhật Bản xa xưa không có sự cư trú của con người, sau đó, những


người ở vùng khác di cư đến, chủ yếu là những người đến từ phía nam đảo, nhất là Triều
Tiên và Trung Hoa, hình thành nên tổ tiên của người Nhật ngày nay.
+Từ tộc người Ainu bản địa đã sinh sống trên quần đảo Nhật Bản trong khoảng
thời gian trước thời kỳ đồ đá.
Tuy nguồn gốc còn nhiều tranh cãi nhưng nhìn chung, về mặt nhân chủng cũng
như tính cách, dân tộc Nhật đã có sự thống nhất:
+ Thể chất của dân tộc Nhật mang sắc dân châu Á: da vàng, tóc đen, mắt một mí,
mũi thấp…
+ Quốc dân tính Nhật Bản:
 Tính kỷ luật cao và hành động theo nhóm.
 Ý thức cao về bổn phận.
 Tính lịch thiệp và luôn giữ thể diện (cho bản thân và cho những người xung
quanh, giri: lòng trọng danh dự).
 Khéo léo và cẩn thận.
 Tinh thần nhẫn nại và lạc quan.
1


-

Kinh tế Nhật

Nhật Bản được thế giới biết đến bởi những bước tiến “thần kỳ và thần tốc” về kinh
tế, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp hiện đại và tài chính.
Nông nghiệp ở Nhật Bản dù đóng vai trò thứ yếu nhưng vẫn quan trọng trong sự
phát triển chung của nền kinh tế.
Các ngành công nghiệp địa phương và truyền thống sớm phát triển. Trong đó, dệt
vải là lĩnh vực nổi bật hơn cả (phát triển mạnh ở các thành phố trong quận Tokyo từ thời
kỳ Edo (1600- 1868)).
Tokyo phát triển thành trung tâm của ngành công nghiệp nặng và sản xuất từ thời

Minh Trị (1868- 1912) cho đến cuối Thế chiến thứ II.
Sau năm 1965, thương mại, tài chính, vận chuyển, truyền thông, cửa hàng bán sỉlẻ và công nghiệp phục vụ (còn gọi là các ngành công nghiệp tam đẳng) bắt đầu có những
bước tiến đáng kể.
Tính đến năm 1991, Tokyo có khoảng 799. 500 xí nghiệp (với quy mô vừa và
nhỏ), tuyển dụng gần 9.5 triệu công nhân, với tổng sản lượng là 86, 1 nghìn tỷ yên. [1]
Tokyo cũng là một trung tâm tài chính quan trọng với thị trường chứng khoán
được đánh giá là một trong những thị trường lớn nhất thế giới.
-

Chữ viết Nhật

Đến đầu thế kỷ thứ VIII, những văn bản đầu tiên của Nhật mới bắt đầu xuất hiện
và những văn tự được ghi chép trong các văn bản này đã hoàn chỉnh gần như ngôn ngữ
Nhật hiện đại.
Hệ thống chữ viết tiếng Nhật sử dụng kết hợp cả Hán tự (kanji) và hệ thống văn tự
phiên âm (kết hợp hai hình thức riêng biệt trong chữ viết âm tiết ngữ âm gọi là kana,
trong đó, hiragana là hệ chữ được dùng để ghi âm những từ quốc âm- gồm 46 ký hiệu,
dựa vào đơn giản hóa cách viết thảo của chữ Hán- còn katakana là hệ chữ được dùng để
ghi âm từ ngoại lai, mà các từ ngoại lai này chủ yếu vay mượn từ Mỹ và châu Âu).
Tiếng Nhật là tiếng đa âm tiết (có hệ thống âm tiết mở) với trật tự ngữ pháp: chủ
ngữ - tân ngữ- động từ (S-O-V).
Bên cạnh đó, xã hội Nhật vốn được tổ chức rất chặt chẽ theo thứ, bậc nên trong
ngôn ngữ Nhật có cách nói thông thường, khiêm nhường hoặc kính trọng, có thêm ngôn
ngữ của phụ nữ (joseigo) với những đặc thù riêng thể hiện nữ tính, sự tôn xưng hay lễ
phép. Nói cách khác, ở ngôn ngữ Nhật, kính ngữ là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong
đời sống giao tiếp.

1

[1] Những số liệu trên chúng tôi trích dẫn từ: Eiichi Aoki, Nhật Bản đất nước và con người, (bản dịch của Nguyễn

Kiên Trường), Nxb Văn học, Hà Nội, 2006, tr.34.

2


-

Văn hóa tâm linh Nhật

Tôn giáo khởi nguyên của Nhật Bản là Thần đạo. Thần đạo ban đầu chỉ là một tín
ngưỡng dân gian chưa có tên gọi, tôn thờ các thần (kami) trong thiên nhiên, tôn thờ các
hương hồn tổ tiên. Đến giữa thế kỷ thứ VI, khi Phật giáo du nhập vào Nhật Bản thông
qua cầu nối văn hóa Triều Tiên (đến thời kỳ Nara (từ năm 710 đến năm 794), Phật giáo
trở thành quốc giáo), Thần đạo được gọi tên là Shinto hay Kami no michi để phân biệt với
tôn giáo mới. Shinto giáo trở thành quốc giáo trong thời kỳ thế chiến thứ II. Đến nay,
Shinto giáo tồn tại song song và đôi khi hòa trộn với Phật giáo trong đời sống tâm linh
của người Nhật Bản (có thể là cưới hỏi theo nghi thức Shinto giáo, tang ma theo nghi lễ
Phật giáo, bên cạnh các ngôi chùa thường hay có những đền nhỏ, các Kami được xem là
các vị Phật và Bồ Tát hóa thân...)
Khổng giáo- tiêu biểu cho hệ thống đức lý- đem đến những ảnh hưởng về quan
niệm trung tín, hiếu nghĩa trong tính cách người Nhật.
Về sau, đạo Cơ đốc giáo từ các quốc gia phương Tây cũng được du nhập vào Nhật
Bản.
Các tôn giáo ở Nhật Bản không loại trừ, tiêu diệt nhau mà cùng nhau tồn tại trong
đức tin, tín ngưỡng của người dân Nhật.
Một trong những yếu tố được đánh giá là cốt lõi của văn hóa tâm linh Nhật Bản
chính là Thiền hay còn gọi là Thiền tông- một tông phái của Phật giáo.
Thiền tông được truyền vào Nhật Bản khá muộn- thế kỷ XII, nhưng đã nhanh
chóng lan rộng không chỉ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật mà còn đi vào đời sống hàng
ngày của người Nhật (Thiền trong trà đạo, hoa đạo, trong thư pháp, hội họa, trong kiến

trúc, trong nghệ thuật tạo hình, trong ẩm thực, trong trị bệnh…). Thiền (Zen) chủ trương
một đường lối tu luyện thân tâm, nhằm đạt đến giác ngộ. Thiền hướng nhiều vào thực
hành, không mấy đặt nặng phần kinh sách, điều này được thể hiện trong quan niệm: “Zen
là một lối tu hành chuyên chú đến phần triết lý tư duy, nhưng cũng rất chú trọng đến
phương diện hành động thực tiễn” [1]. Thiền, với người Nhật, khi được tiếp nhận vẫn theo
nguyên tắc tất cả các tôn giáo nước ngoài khi vào Nhật đều trải qua những biến đổi đáng
kể trong quá trình ảnh hưởng tương hỗ với tôn giáo bản xứ, do vậy, Thiền Nhật Bản còn
được xem là một phương pháp tu luyện hòa hợp và phát triển bởi ba đặc tính: “Tri của
Ấn Độ, Hành của Trung Hoa và Tình của Nhật Bản”[2].
Nhắc đến văn hóa tâm linh Nhật Bản không thể không nhắc đến Trà đạo.
Thiền sư Sen no Rikyu (thời Monoyama thế kỷ XVI) được xem là bậc khai sáng ra
Trà đạo, sang thế kỷ XVII, trà sư Furuta Oribe là người có công lớn trong việc chấn hưng
tinh thần Trà đạo.
Loại trà được dùng trong Trà đạo thường là Matcha (lá trà được nghiền thành bột).

1

[1] Trần Thị Minh Tâm, Thiền Nhật Bản và đời sống người Nhật, NXB Văn hóa Sài Gòn, 2007, tr. 19.
[2] Trần Thị Minh Tâm, Sđd, tr. 19.

2

3


Toàn bộ nghi thức uống trà đạo cổ truyền gồm các giai đoạn như: Hoài thạch: mời
khách điểm tâm, thường là một loại bánh, sau khi khách an vị; Trung lập: khách nghỉ tại
trà đình, Ngự tòa nhập: khách được dân trà đặc tại trà thất, cuối cùng là giai đoạn khách
được dùng trà loãng.
Nghệ thuật Trà đạo đem đến bốn đức tính cao quý: Hòa, Kính, Thanh, Tịnh.

Như vậy, có thể thấy, đời sống tâm linh của người Nhật rất phong phú và đa dạng,
và chính sự phong phú, đa dạng ấy đã góp phần kiến tạo nên những nét đặc sắc cho văn
hóa, văn học Nhật Bản.
1.2

Khái quát văn học Nhật Bản
-

Những đặc điểm chính của văn học Nhật Bản [1]

+ Khác với Trung Quốc đồng thời cũng khác với châu Âu, đối với Nhật Bản, những yếu
tố như những tư tưởng tôn giáo, đạo đức, những học thuyết triết học…không đóng vai trò
là nền tảng của đời sống văn hóa tinh thần mà thơ, truyện kể, thủ công, nghệ thuật trình
diễn- những biểu hiện cụ thể luôn hiện diện trong đời sống hàng ngày của con người- mới
là cốt lõi của văn hóa. Do vậy, văn học Nhật Bản cũng được biểu hiện bởi ba đặc tính
chính: cụ thể, phi hệ thống và tình cảm.
+ Trong tiến trình phát triển, văn học Nhật Bản không có sự xung đột để dẫn đến thay thế
giữa cái cũ và cái mới. Nói cách khác, những quan niệm thẩm mỹ của người Nhật kể từ
thời khởi thủy, xét ở một khía cạnh nhất định, vẫn có thể hiện diện phù hợp trong thời kỳ
hiện đại.
+ Văn học Nhật Bản có tính chất quy tụ về trung tâm: hoạt động văn học thường tập
trung ở đô thị. Vì thế, đề tài của văn học Nhật đa phần xoay quanh khai thác cuộc sống
tại những thành phố lớn, những đô thị sầm uất.
+ Vũ trụ quan trong văn học Nhật Bản chịu tác động chi phối bởi ba hệ thống tư tưởng:
tư tưởng ngoại lai, tư tưởng bản địa và tư tưởng chiết trung, tức tư tưởng ngoại lai đã
được chuyển hóa theo mô hình Nhật Bản.
-

Thể loại


+ Thơ: Waka (hòa ca) waka nguyên là tên chung cho các thể thơ như choka, tanka và
sedoka, nhưng sau đó, khi tanka dần chiếm ưu thế, đặc biệt từ cuối thế kỷ thứ VIII, thì
waka được xem là đồng nghĩa với tanka;
Tanka (đoản ca- 5 dòng, 31 âm tiết);
Choka (trường ca) là loại thơ không giới hạn số câu, có khi độ dài lên đến 150
dòng;
Sedoka (tuyền đầu ca) mỗi bài có 38 âm tiết, chia thành 6 dòng (5,7,7,5,7,7), thể
thơ này ít thông dụng hơn cả;
Hanka (phản ca): về hình thức cũng giống như tanka nhưng hanka thường đi
kèm một bài trường ca và có nhiệm vụ tổng kết đồng thời tạo ra tiếng vọng cho bài
trường ca đó;…
1

[1] Phần này chúng tôi chủ yếu dựa trực tiếp vào nguồn tư liệu của Nguyễn Nam Trân, Tổng quan lịch sử văn học
Nhật Bản, tại website: www.erct.com.

4


Haiku (hài cú): thể thơ gồm 17 âm tiết, chia thành 3 dòng (5-7-5).
+ Văn xuôi: các tác phẩm vật ngữ (truyện kể), tùy bút, nhật ký, quân ký, tiểu thuyết,
manga,…
+ Sân khấu: kịch Noh, Kyogen, múa rối Bunraku, ca kịch Kabuki,…
-

Phân kỳ văn học Nhật Bản

Hiện có rất nhiều cách phân kỳ văn học Nhật Bản khác nhau.
Có thể là sự phân kỳ theo triều đại lịch sử, bao gồm: văn học triều đại Yamato,
văn học triều đại Nara, văn học triều đại Heian, văn học triều đại Kamakura, văn học

triều đại Muromachi, văn học triều đại Monoyama, văn học triều đại Edo, văn học thời
Minh Trị đến nay.
Có thể là sự phân kỳ dựa vào tiêu chí lịch sử và địa lý, thành: văn học thượng cổ
(vùng Yamato), văn học trung cổ (vùng Kyoto), văn học trung cận đại (vùng Kamakura,
Yoshino và Muromachi), văn học cận đại (ba vùng nằm trong khu vực Kyoto, Osaka),
văn học giai đoạn chuyển tiếp từ miền Tây sang vùng Edo thuộc miền Đông, văn học cận
kim…
Sự phân kỳ văn học Nhật Bản có khi lại được dựa trên tiêu chí thể loại, bao gồm:
thời đại thần thoại và thi ca thuật sự, thời đại thơ trữ tình, thời đại truyện kể…hoặc theo
hình thái văn học, bao gồm: ca dao cổ đại, các loại thơ (waka, renga, haikai…), văn học
Hán văn vương triều, văn học thiền, văn học Nho gia, văn học truyện kể, văn chương du
hành…
Dựa vào những cách thức phân kỳ văn học Nhật Bản khác nhau kể trên, chúng tôi
đề xuất phân kỳ nền văn học này thành hai giai đoạn lớn: Văn học Nhật Bản từ khởi thủy
đến thế kỷ XIX (gồm văn học thời Nara, văn học thời Heian, văn học thời Kamakura và
Muromachi, văn học thời Edo) và Văn học Nhật Bản từ thế kỷ XIX đến nay (gồm văn
học thời Meiji, văn học thời Taisho và văn học thời Heisei- văn học thời kỳ đương đại).

CHƯƠNG 2
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN THẾ KỶ XIX
Nhật Bản từ lúc lập quốc được biết đến bởi các triều đại thời Jomon (từ 8000 năm
trước công nguyên đến 300 năm trước công nguyên), thời Yayoi (từ 300 năm trước công
nguyên đến năm 300 sau công nguyên), thời Yamato (300- 593), thời Asuka (593- 710),
tuy nhiên, phải đến thời Nara (710- 794), những giá trị văn học Nhật Bản mới thực sự
được ghi nhận.
2.1

Văn học thời Nara (710- 794)

2.1.1 Bối cảnh lịch sử, văn hóa


5


Năm 710, kinh đô Nara được khởi công xây dựng theo mẫu Trường An nhà
Đường (Trung Quốc), lấy tên là Heijokyo, chấm dứt chế độ di đô, mở ra thời kỳ định đô
đầu tiên của Thiên Hoàng.
Bộ luật Ritsugo- bộ luật đầu tiên của Nhật Bản- được hoàn thành. Nhà nước theo
chính sách trung ương tập quyền và chế độ pháp trị.
Phật giáo du nhập vào Nhật Bản từ thế kỷ thứ VI, đến thời Nara, Phật giáo đã trở
thành quốc giáo. Một số chùa được xây dựng, trong đó có chùa gỗ nổi tiếng Todaiji (nơi
đặt bức tượng Phật bằng đồng lớn nhất thế giới hiện nay).
Đầu thế kỷ thứ V, chữ Hán được truyền sang Nhật. Đồng thời, văn hóa nhà Đường
của Trung Hoa du nhập. Đến thế kỷ thứ VII, triều đình Nhật Bản ra lệnh tập hợp tất cả
các truyền thuyết dân gian, biên soạn thành sách. Năm 712, công việc sưu tập ấy hoàn tất
khi tác phẩm Kojiki (Cổ sự ký) ra đời. Đây cũng được xem là điểm mốc đánh dấu sự xuất
hiện của văn học Nhật Bản.
Kojiki được viết bằng tiếng Nhật (bao gồm cả chữ Hán thuần túy, cả mượn chữ
Hán như ngữ âm và cả mượn chữ Hán như ngữ nghĩa). Do đặc thù là một tác phẩm tập
hợp những câu chuyện xưa nên Kojiki chứa đựng cả huyền thoại và những câu chuyện kể
truyền miệng dân gian về việc sáng tạo trời đất, sự hình thành Nhật Bản, nguồn gốc các
dân tộc hay những sự kiện, biến cố lịch sử lớn trong quá khứ…, vì thế, rất khó để phân
định rạch ròi yếu tố thực- hư trong tác phẩm.
Kojiki bắt đầu từ khởi nguyên của trời đất và kết thúc với mốc thời gian triều đại
của nữ Thiên hoàng Suiko (593- 623), gồm ba tập: tập đầu tiên là các huyền thoại về các
vị thần, tiêu biểu Huyền thoại về nữ thần Mặt Trời, (trong đó, các tác giả dân gian đã mã
hóa ba yếu tố cốt lõi của văn hóa: nghệ thuật, tư tưởng và sức mạnh dưới dạng ba vị
thần: nữ thần Nghệ thuật Uzume, thần Tư tưởng Omoikane, thần Sức mạnh Tazikarao
cùng những mối quan hệ tương hỗ để tôn vinh nữ thần Mặt Trời); tập hai là cuộc đời của
các vị anh hùng (thường gắn liền với sự trợ giúp hay cản trở từ thần linh); tập ba những

câu chuyện về niềm vui hay nỗi buồn nhân thế (nhân vật trung tâm là con người, thần
linh đã vắng bóng).
Kojiki, xét về mặt thể loại, là sự pha trộn giữa thơ ca và truyện kể. Cũng từ đó, tác
phẩm còn được xem là bước khởi đầu cho truyền thống truyện kể đặc sắc của văn hóa,
văn học Nhật Bản, đồng thời, những bài ca trong Kojiki có thể được coi là những kiểu
mẫu đầu tiên cho thể thơ tanka (đoản ca) của thi ca Nhật Bản.
Năm 720, Nihonshoki (Nhật Bản thư kỉ) hay Nihongi (Nhật Bản kỉ)- một bộ sách
có nội dung tương tự Kojiki ra đời.
Nihongi được viết bằng Hán văn, ghi lại những chuyện của nuớc Nhật cổ xưa từ
khởi thủy đến thế kỷ thứ VII, dưới hình thức một biên niên sử. Tuy nhiên, không chỉ đơn
thuần kể lại huyền thoại hay những câu chuyện lịch sử mà Nihongi còn phần nào hướng
tới diễn giải chúng. Vì vậy, nếu Kojiki nghiêng về văn hóa, văn học thì Nihongi nghiêng
về sử học nhiều hơn.
6


Sau Kojiki và Nihongi, sẽ là thiếu sót nếu nhắc đến đời sống văn hóa, văn học
Nhật Bản thời kỳ này mà không đề cập đến bộ Manyoshu (Vạn diệp tập) hay Manyogana
(Vạn diệp giả danh)- hợp tuyển thơ ca gồm 4500 bài, viết bằng Nhật ngữ, ra đời khoảng
năm 760.
2.1.2 Tập thơ Manyoshu (Vạn diệp tập)
Đội ngũ sáng tác tập Manyoshu thuộc mọi tầng lớp trong xã hội Nhật Bản lúc bấy
giờ, từ Thiên hoàng, quý tộc, cô chúa, tướng quân đến binh lính, nông dân…và cả những
tác giả khuyết danh. Trong đó, người biên soạn chính có thể kể đến là Yakamochi.
Manyoshu xoay quanh ba đề tài lớn: thiên nhiên, tình yêu và xã hội
- Thiên nhiên: ca ngợi vẻ đẹp của non sông đất nuớc, vẻ đẹp chuyển hóa kỳ ảo
trong bốn mùa mang đậm màu sắc Nhật Bản với núi Fuji, biển Iwami, mũi Kara…
Đề tài này thường được thể hiện đặc sắc qua những bài tanka của Akahito- bậc
thầy của thơ ca trữ tình: [1]
Trên nhánh tử đằng


Tôi đi hái

Ôi, hoa nở rộ

những bông hoa tím

trong lòng đất ấy

trên cánh đồng

có phải chăng

và tôi ở lại

nàng đang nằm ngủ

ngủ giữa mùa xuân
(Bài 1424)

(Bài 1471)

…qua những bài tanka của các tác giả khuyết danh:
Một ngọn đồi đỏ thắm
Đàn nhạn bay về
Cây phong của ta ơi

ai mang áo trắng

đến lượt em rồi đó


mà đi qua đồi

đã sang mùa

và áo kia lấp lánh

em hãy đổi màu đi

màu lá thu sáng ngời
(Bài 2192)

(Bài 2183)
…hay qua trường ca về Fuji của Mushimaro:
Có thấy chăng, hỡi ai
đỉnh Fuji bên trời
1

[1] Những bài tanka này chúng tôi lấy nguồn từ: Nhật Chiêu, Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, 2000, tr. 43, 50, 51.

7


che bóng trên các xứ
Suruga và Kai.
Cả những vầng mây trắng
không dám giăng ngang đầu
sợ vùng linh thiêng ấy
chim nào dám bay cao

chỉ có tuyết và lửa
trên đầu non đấu nhau.[1]
(Bài 319)
- Tình yêu: có thể là tình yêu trong những mối quan hệ ruột thịt như cha con, anh
em, chồng vợ…
Bài bi ca của Hitomaro trước cái chết của người vợ:
Bên bờ sông ngày trước
chúng tôi cùng ngắm nhìn
cây du xanh lá
Khi mùa xuân sang
Cây du tươi thắm
Đẹp xinh cũng như nàng
Và cả tâm hồn tôi
say đắm một tình yêu.
Nhưng nàng đã chết
Phù du cuộc đời
Làm sao trốn tránh
Khi phải tàn rơi?[2]
Bài hanka của Okura về cái chết của đứa con trai:
Hỡi người dẫn đường
của thế giới bên kia
1

[1] Nhật Chiêu, sđd, tr. 51, 52.
[2] Nhật Chiêu, sđd, tr. 41, 42.

2

8



hãy nhận món quà và lời cầu khấn
hãy cõng con tôi trên lưng
trên lối đi mà nó chưa từng biết [1]
…có thể là tình yêu đôi lứa: qua các bài tình ca, còn gọi là luyến ca (renka) của các tác
giả khuyết danh:
Một chùm tuyết trắng

Làm sao ta thấy

trên cành mơ tươi

người ta mến thương

hái tuyết cho người

và lòng mong mỏi

nhưng lòng tay ấm

khác nào ngọn núi

tuyết tan đi rồi

Fuji cháy bùng!
(Bài 2695)

(Bài 1833)

Gió ơi, từ biển cả

sao không thổi về đây
những gì ta chờ đợi
làn sương mù mơi ấy
và hơi thở của ai
(Bài 3616)

[2]

- Xã hội: hướng đến sự huy hoàng, vinh quang của đất nước
Bài thơ viết trong bữa tiệc đưa tiễn vị đại sứ sang Trung Quốc:
Gió và sóng đang chìm đi
Trên cánh đồng mặt biển xanh lam
Con tàu đưa Ngài vượt biển xanh và không gì cản trở
Lúc Ngài ra đi cũng như lúc Ngài trở về [3]
…hoặc miêu tả cảnh nghèo túng, lầm than của những kẻ khó. Tiêu biểu cho đề tài này là
những tác phẩm của Okura- người được mệnh danh là “nhà thơ của nhân thế” với bài thơ
1

[1] Nhật Chiêu, sđd, tr. 44.
[2] Nhật Chiêu, sđd, tr. 47.
3
[3] R.H.P.Mason & J.G.Caiger, Lịch sử Nhật Bản, (bản dịch của Nguyễn Văn Sỹ), Nxb Lao Động, Hà Nội, 2003,
tr. 56.
2

9


đặc sắc: Về cảnh nghèo khốn (con người khốn khổ lâm vào cảnh nghiệt ngã: trong đêm
giông bão, mưa tuyết, khi thức ăn chỉ còn muối, đồ uống chỉ là bã rượu, không đủ quần

áo ấm, con người ấy hình dung một cuộc đối thoại với kẻ khổ sở, khốn cùng hơn anh ta…
và đến khi cha mẹ, vợ con cũng ngày càng khốn quẫn, thêm vào đó là sự thúc thuế, con
người khốn khổ đó đành buông xuôi với câu tự vấn day dứt muôn đời: “Cuộc sống là
như vậy đó sao?”)
Ngoài ra, Manyoshu còn có một mảng đề tài đề cập đến các huyền thoại và truyền
thuyết dân gian. (Trường ca về Urashima)
Như vậy, có thể thấy những giá trị mà Manyoshu mang lại đã góp phần giúp cho
tập thơ được đánh giá là “tiếng hát bất tuyệt về cuộc đời và thiên nhiên, một thi tuyển độc
đáo và giàu sang” [1] và Manyoshu còn là “thơ ca từ mọi nẻo đường đời của Nhật Bản
ban sơ”[2].
2.2

Văn học thời Heian (794- 1192)

2.2.1 Bối cảnh lịch sử, xã hội
Năm 794, Thiên Hoàng Kammu dời đô từ Nara về Heian (Kyoto), mở đầu thời kỳ
thịnh trị và thái bình.
Năm 805, đại sư Saicho từ Trung Quốc trở về nước, lập Thiên Thai tông (tendai)một tông phái Phật giáo của Trung Quốc muốn kết hợp mọi giáo lý của Phật giáo dành
cho dân gian.
Năm 806, đại sư Kukai (còn gọi là Kobo) từ Trung Quốc trở về nước, lập Chân
ngôn tông (Shingon)- một tông phái Mật giáo mang nặng tính chất huyền bí.
Năm 810, thành lập cơ quan kho bạc gia đình và thiết lập cơ quan cảnh sát thủ đô.
Từ đó, chế độ cai trị trung ương được hợp lý hóa.
Cuối thế kỷ thứ IX, quyền lực từ Thiên Hoàng dần chuyển sang dòng họ Fujiwara
khi quý tộc cung đình đều có bắt nguồn từ dòng họ này. Triều đình mất quyền kiểm soát
đất nước. Thiên Hoàng chỉ còn là bù nhìn. Quan nhiếp chính nắm việc cai quản chính
quyền. Giới quý tộc bên cạnh việc đem lại những đóng góp to lớn với đời sống văn hóa
khi lập ra các học viện, văn viện thì cuộc sống của họ chủ yếu là sự hưởng thụ xa hoa với
thú vui cầm, kỳ, thi, họa, với những buổi yến tiệc, ngắm hoa, thưởng nguyệt….Vì thế,
thời đại Heian còn được gọi là thời đại quý tộc, công gia.

Xã hội Nhật lúc này theo chế độ hoàng gia trung ương tập quyền.
Đến năm 1068, dòng họ Fujiwara mất dần ưu thế thống trị.
Năm 1175, đại sư Honen lập Tịnh độ tông.

1

[1] Nhật Chiêu, sđd, tr. 56.
[2] Nhận định của W.Naumann trong An invitation to Japan’s Literature, Japan Culture institute, 1974, trang 44;
Trích lại từ Nhật Chiêu, sđd, tr. 56.
2

10


Về mặt đời sống xã hội, thời Heian, chế độ phân chia ruộng đất được thay thế
bằng chế độ kế thừa. Vì thế, các thái ấp (shoen) phát triển rầm rộ. Chủ nhân các thái ấp
lập các nhóm vệ sỹ để tự vệ, tạo ra sự khởi đầu của hệ thống samurai sau này.
Cuối thời Heian, triều đình suy đồi, các phe phái địa phương lũng đoạn, trong đó
nổi lên hai thế lực lớn giữa gia đình Minamoto và gia đình Taira.
2.2.2 Đời sống văn học
Văn học Heian tồn tại với hai dòng:
-

Những tác phẩm viết bằng tiếng Trung Quốc theo hệ thống ngữ âm ký hiệu,
thường là của các tác giả nam.

-

Những tác phẩm viết bằng tiếng Nhật, viết bằng những ký hiệu ngữ âm bản xứ,
thường lực lượng sáng tác là các tác giả nữ.


Ba đặc điểm nổi bật của văn học Heian:

Trong đó:
- Người có công lớn cho sự phát triển của văn tự Kana chính là Kukai (Kobo)- người lập
nên Chân Ngôn tông Nhật Bản.
- Kana không phải là một hệ thống âm tố mà là hệ thống âm tiết, có 46 kí hiệu. Tương
truyền sự xuất hiện của kana bắt nguồn từ sự nghiên cứu tiếng Phạn của các nhà sư khi
họ tìm hiểu hệ thống chữ cái của Ấn Độ.
- Đến thời Heian, phần lớn tác giả của các tác phẩm văn học cổ điển nổi tiếng đều thuộc
nữ giới, tiêu biểu như: Truyện Genji của Murasaki, Sách gối đầu của Sei Shonagon…
- Về thể loại: bên cạnh sự ngày càng thịnh hành của tanka, một thể loại mới: kim dạng ca
(Imayo-uta) đã xuất hiện (mỗi bài thông thường có bốn câu); thể loại truyện, được gọi là
monogatari (vật ngữ) nở rộ.

11


Ngoài ra, các thể loại như tùy bút (zuihitsu), nhật ký (nikki) cũng đạt được những
thành tựu đáng kể (tùy bút Sách gối đầu – Sei Shonagon, Nhật ký Murasaki – Murasaki
Shikibu, Nhật ký Kagero – tác giả nữ khuyết danh, Nhật ký Sarashima – tác giả là con gái
của Sugawara Takasue…)
2.2.2.1 Tập thơ Kokinshu (Cổ kim tập)
Tác phẩm được biên soạn theo sắc lệnh của triều đình, hoàn tất năm 905, do thi sỹ
Ki no Tsurayaki chủ biên, với tên đầy đủ là Kokinwakashu (Cổ kim hòa ca tập) gồm 1111
bài thơ (bốn bài sekoda, năm bài choka, còn lại là tanka).
Kokinshu được chia thành 20 quyển: [1]
-

Sáu quyển đầu dành cho các bài thơ về bốn mùa.

Quyển bảy là thơ ca về hạnh phúc.
Quyển tám có chủ đề biệt ly.
Quyển chín viết về du hành.
Quyển mười xoay quanh tên sự vật bao gồm cỏ hoa, chim muông, nơi chốn…
Từ quyển mười một đến mười lăm là thơ tình.
Quyển mười sáu dành cho bi ca.
Quyển mười bảy và mười tám trải rộng nhiều đề tài khác nhau, tạp loại.
Quyển mười chín chứa đựng một vài thể thơ Nhật khác, ngoài tanka, như bốn
bài sekoda và bốn bài choka.
Quyển cuối cùng là những bài thơ nghi lễ soạn cho triều đình, có một số bài
diễn tả tín ngưỡng ở vùng đông bắc xa xôi.

1

[1] Trích lại từ Nhật Chiêu, sđd, tr. 72.

12


Kokinshu chủ yếu chứa những bài thơ ngắn, viết theo thể tanka- thể thơ 5 dòng với
quy định về số lượng âm tiết: 5-7-5-7-7.
Xét về nghệ thuật, nếu đặt trong sự so sánh với Manyoshu thì đến Kokinshu, nghệ
thuật thi ca đã đạt đến trình độ điêu luyện, tinh tế hơn: “vẻ tao nhã, chất hóm hỉnh và kỹ
năng trong cách viết là đặc tính của tuyển tập đã trở thành những tiêu chuẩn đánh dấu
một xã hội có học thức”[1].
Các tác giả tiêu biểu của Kokinshu, bên cạnh các thi sĩ khuyết danh, có thể kể đến:
Narihita, Tsurayuki, Komachi, Ise, …
Một số bài tanka tiêu biểu trong Kokinshu:
Trong những vòng xoáy
của cơn gió lốc

Những đóa hoa anh đào bị cuốn tung theo nhấp nhô
Khác nào những lớp sóng trào lên
Tận trời xanh không bụi nước. [2]
(Tsurayuki)
Thực tế ra
Có thể: sống làm người là hay
Nhưng thậm chí ngay trong giấc mộng
Tự nhìn mình trước mắt người
Thấy mình đã co lại! Thực buồn biết mấy [ 3]
(Komachi)
2.2.2.2 Truyện Genji (Genji monogatari)
Được đánh giá là một trong những cuốn tiểu thuyết vỹ đại của văn học Nhật Bản,
Truyện Genji là tác phẩm của một nữ tác giả thuộc dòng họ quý tộc Fujiwara, tên thường
gọi là Murasaki Shikibu.
Truyện Genji- một trường thiên tiểu thuyết lãng mạn xoay quanh cuộc sống và
những mối tình của hoàng tử Genji, nhân vật chính- dài khoảng 3000 trang, với khoảng
400 nhân vật, hơn 30 nhân vật chính, bao gồm 54 chương, được chia thành 2 phần:
Phần đầu (40 chương): kể về cuộc đời của hoàng tử Genji, còn được gọi là Hikaru
Genji, tức Genji sáng chói. Chủ yếu trong phần này, tác giả xoáy sâu vào miêu tả những
1

[1][2] [3]R.H.P.Mason & J.G.Caiger, Sđd, tr.84, 85.

2
3

13


cuộc phiêu lưu tình ái của hoàng tử Genji đồng thời, thông qua đó khắc họa những nét

tính cách phong phú, đa chiều của các nhân vật nữ- những tình nhân hoặc nghịch lý hoặc
mơ hồ, hoặc thực hoặc mơ… của Genji như: Fujitsubo- con gái vị hoàng đế cũ, mẹ kế
của Genji, mẹ ruột của vua Reidei; Aoi- con quan tể tướng, vợ đầu của Genji hơn Genji 4
tuổi, là vợ sau của To_ no_ Chujo và là mẹ của Yugini; Rokujo- vợ góa của một hoàng tử
kế vị quá cố cậu của Genji, là mẹ của Akikonomu; Yugao- một người phụ nữ dòng dõi
thấp kém, lúc đầu là người tình của To_ no_ Chujo và sau đó quan hệ với Genji, là mẹ
của Tamakatsura, Murasaki- con gái Hoàng thân Hyobu, cháu Fujitsubo, cháu gái một vị
vua trước đó; công chúa San-no-miya (Onnasan): con gái của vua Suzaku, vợ của Genji
và là mẹ của Kaoru…
Phần kế tục (14 chương): tác giả tập trung kể về cuộc đời của Kaoru- nhân vật
được xem là kế vị Genji sau khi Genji sáng chói chết. Thực tế Kaoru chỉ là kẻ bị lầm
tưởng là con trai của Genji: Kaoru là con của Kashiwaki và San-no-miya. Cũng tương tự
như phần đầu, khi hướng vào cuộc đời Kaoru, tác giả Murasaki tiếp tục chọn cách thể
hiện tính cách các nhân vật của mình trong việc lồng ghép vào những cuộc phiêu lưu tình
ái. Đó là mối tình của Kaoru với ba chị em ở Uji: Agemaki, Kozeri và Ukifune.
Giá trị của Truyện Genji:
Đánh giá ý nghĩa của Truyện Genji có những xu hướng khác nhau, trong đó nổi
lên năm hướng chính:
- Tác phẩm có thể được hiểu như một sự truyền bá đạo Phật với những tư tưởng về
nghiệp quả (karma);
- Tác phẩm được sáng tác nhằm mục đích giáo huấn;
- Tác phẩm bị xem như là một loại tiểu thuyết vô luân, thậm chí thuộc văn học khiêu
dâm;
- Tác phẩm cũng có thể được coi là một dạng biên niên sử trá hình;
- Tác phẩm chuyển tải nguyên tắc mono no aware (bi cảm) của mỹ học truyền thống Nhật
Bản.
Có thể thấy, Truyện Genji là câu chuyện về cuộc đời một con người: hoàng tử
Genji sinh ra, lớn lên, phiêu lưu cùng những mối tình khác nhau, bị lưu đày, đối mặt với
tuổi già và cuối cùng là cái chết. Trong những chặng đường khác nhau của cuộc đời ấy,
Genji có cơ hội khám phá thế giới, cũng như khám phá đời sống tâm lý phức tạp của con

người. Tác phẩm tuy là hư cấu tưởng tượng nhưng vẫn mang tính chất miêu tả và đặc biệt
là sự khai thác tâm lý con người rất sát với thực tại.
Được sáng tác trên nguyên tắc dung hợp giữa tự sự và trữ tình, trong Truyện
Genji, cuộc đời nhân vật cứ thế lặng lẽ hiển hiện trước độc giả. Nhân vật Genji không chỉ
đơn thuần được đặt trong mối quan hệ với những tình nhân mà còn được thấu hiểu trong
tư cách một người con, một người cha, người chồng, người bạn hoặc một người bảo bọc,
che chở. Dù có rất nhiều người tình nhưng dường như Murasaki luôn là cái đích cuối
cùng mà Genji tìm về. Phải chăng, điều tác giả muốn chuyển tải chính là giữa bao sự mơ
14


hồ, đa tạp của cuộc đời, con người vẫn luôn (và cần phải) tìm được cho mình một mục
tiêu chân xác?
Truyện Genji cũng thấp thoáng âm hưởng bi ai khi thông qua những mối tình sâu
đậm có, thoảng qua có của nhân vật, độc giả có thể cảm nhận được một chân lý: đó là sự
vật chẳng bao giờ là vĩnh cửu.
Phần kế tục của Truyện Genji, tác giả Murasaki chuyển hướng sang cuộc đời nhân
vật Kaoru. Phải chăng Kaoru như một sự nối tiếp cuộc đời hoàng tử Genji theo quy luật
của dòng chảy thời gian?
2.3

Văn học thời Kamakura (1192- 1338) và Muromachi (1338- 1573)

2.3.1 Bối cảnh lịch sử, xã hội
Thời Kamakura được xem là thời đại đặt dấu mốc cho sự bắt đầu của chế độ
phong kiến ở Nhật Bản.
Sang thế kỷ XII, những xung đột giữa Thiên Hoàng (đúng hơn là Thiên Hoàng đã
nhường ngôi sớm, giữ chức Thượng Hoàng nhưng thực tế lại thu tóm mọi quyền hành) và
dòng họ Fujiwara ngày càng gay gắt và đỉnh điểm là loạn Heiji (1156 – 1159). Tham gia
loạn Heiji có dòng họ Taira (Heishi) và Minamoto (Genji)- được xem là hai bushidan

(võ sĩ đoàn) mạnh nhất lúc bấy giờ.
Trong cuộc loạn này họ Taira chiến thắng họ Minamoto và Thiên Hoàng. Taira
Kiyomori nắm quyền nhiếp chính. Tuy nhiên, ngay sau đó, những chính sách mà Taira
Kiyomori đưa ra đã gây nhiều bất bình trong dân chúng và rồi cuối cùng bị dòng họ
Minamoto đánh bại.
Sau chiến thắng hiển hách đối với dòng họ Taira, của – thuộc dòng họ Minamoto,
Minamoto Yoritomo- anh cả của Yoshitsune- vị chủ tướng có công lớn trong cuộc chiến
này- trở thành Tướng Quân (Sei-i Tai shogun ) đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, lập nên
chế độ Mạc Phủ (bakufu) Kamakura, mở đầu thời đại võ sĩ.
Năm 1191, thiền sư Eisai từ Trung Quốc về, lập chùa Shofuku ở Hakata- ngôi
chùa được xem là thiền viện đầu tiên ở Nhật Bản, sau đó thiền phái Lâm Tế được hình
thành. Eisai còn là người có công lớn trong việc khai sáng Trà đạo của Nhật Bản.
Từ năm 1274 đến 1281, Nhật Bản đẩy lùi được hai cuộc xâm lược từ Mông Cổ.
Thời Muromachi- còn được mệnh danh là thời Chiến quốc (Sengoku) đánh dấu
bởi cuộc chiến tranh Nam Bắc triều (1338- 1392) giữa Thiên Hoàng Godaigo và Thiên
Hoàng Komyo, tiếp theo là hàng loạt những cuộc chiến tranh giữa các dòng họ võ sĩ rồi
đến các phong trào nổi dậy của nông dân.
Năm 1333, tướng phủ Kamakura bị lật đổ, đến 1338, Ashikaga thành lập tướng
phủ ở Kyoto.
Từ 1467 đến 1577, nội chiến diễn ra ở toàn nước Nhật.
15


Đến giữa thế kỷ XVI, Nhật Bản bắt đầu tiếp xúc với phương Tây, cụ thể là Bồ
Đào Nha và Tây Ban Nha. Kitô giáo được truyền vào Nhật.
Từ 1568 đến 1598, công cuộc dẹp loạn và lập lại hòa bình được thực hiện thành
công dưới sự lãnh đạo của hai tướng Nobunaga và Hideyoshi.
Văn học thời kỳ này được ghi nhận là văn chương thời võ sĩ đạo.
2.3.2 Tập thơ Shinkokinshu (Tân cổ kim tập)
Hợp tuyển thơ gồm 20 quyển, khoảng 2000 bài, theo thể tanka, được biên soạn

theo lệnh của Thiên Hoàng, ra đời năm 1205, với người chủ biên đầu tiên là nhà thơ
Teika, thuộc dòng họ Fujiwara.
Các bài thơ trong hợp tuyển thường là thơ vịnh bốn mùa, thơ tình, thơ tôn giáo,
thơ chúc tụng hay thơ ly biệt. Trong đó, tinh thần u huyền (Yugen) được chọn làm tinh
thần chính, xuyên suốt toàn bộ hợp tuyển thi ca này.
Nếu Manyoshu được đánh giá là mang phong cách cổ sơ, Kokinshu mang phong
cách cổ điển thì Shinkokinshu được các nhà nghiên cứu nhận định là một thi tuyển có
phong cách mới.
Ở Shinkokinshu, có thể thấy được sự thể hiện cá tính sáng tạo của các nhà thơ.
Phương pháp honkadori (bản ca thủ): sáng tạo cái mới từ một khởi điểm cũ- được
các nhà thơ sử dụng khá phổ biến trong Shinkokinshu.
Với hình ảnh “chiếc cầu mộng” mượn từ Truyện Genji, Teika đã “honkadori”
thành một bài thơ mang hơi thở mới mẻ:
Rơi từ chiếc cầu mộng
Của một đêm xuân
Tôi thức giấc
Trên trời một đám mây
Đã rời xa đỉnh núi
Shinkokinshu đem lại những ảnh hưởng khá rộng đến đời sống văn học Nhật Bản
sau này, từ sân khấu Noh đến thơ Haiku và cả văn chương thời hiện đại.
2.3.3 Truyện kể Heike (Heike monogatari)
Truyện kể Heike thuộc thể loại Quân ký vật ngữ (Gunki monogatari)- gọi theo âm
Hán Việt, được định nghĩa là “những tác phẩm được biên soạn lại từ những truyện kể
hay ca khúc được diễn xướng theo đàn tì bà về đề tài chiến tranh, nhất là về dòng họ
Heike” [1].
1

[1] Nhật Chiêu, sđd, tr. 182.

16



Lấy bối cảnh là những chiến trường nổi tiếng: Ichi- no- Tani, Yashima, Dan- noUra…, Truyện Heike thể hiện những trận chiến khốc liệt giữa hai thế lực Taira (Heike) và
Minamoto (Genji). Thế lực Taira ngày càng kiêu ngạo, chuyên quyền với quyền lực của
mình nhưng cuối cùng cũng đã bị xóa sổ. Gia đình Minamoto với vị chủ tướng tài ba
Yoshitsune đã đánh bại dòng họ Taira và được dân chúng yêu chuộng.
Khai thác những tình tiết xoay quanh mối xung đột giữa hai gia đình, hai thế lực,
Truyện Heike mang dáng dấp của anh hùng ca Iliade (xung đột giữa thế lực của
Agamennon và Priam) của tác giả Homère trong văn học Hy Lạp cổ đại, đồng thời, hình
ảnh nhân vật Yoshitsune cũng mang đậm tinh thần bi tráng của dũng sỹ Roland trong Bài
ca về Roland của văn học châu Âu trong cổ.
Ngoài ra, cũng có thể nhận thấy: Truyện Genji là thế giới của niềm bi cảm còn
Truyện Heike là thế giới của hành động.
Không những thế, Truyện Heike không chỉ đơn thuần là câu chuyện chiến trận mà
còn chuyển tải triết lý “thăng giả tất suy” của đạo Phật: tác phẩm mở đầu bằng âm vang
của một tiếng chuông từ một ngôi chùa ở Ấn Độ- nơi Đức Phật đang truyền những lời
thuyết giáo đầy ý nghĩa: “Màu sắc của cây gỗ tếch cho biết những bông hoa nào nở rộ sẽ
phải rụng. Đúng, những kẻ kiêu ngạo chỉ tồn tại trong một chốc lát, khác nào cơn mộng
chiều xuân. Kẻ quyền thế cuối cùng sẽ bị tàn lụi, chúng chỉ như hạt bụi bay trước gió”[1].
Ngoài Truyện Heike, quân ký vật ngữ còn có (gọi theo âm Hán Việt):
Bảo nguyên vật ngữ (Hogen monogatari)
Bình trị vật ngữ (Heiji monogatari)
Nguyên Bình thịnh suy ký (Gempei seisuiki)
Các loại quân kí phát triển sang thế kỷ sau được gọi là chiến ký (senki), trong đó
các tác giả thường lồng thêm quan điểm của cá nhân khi sáng tác, tiêu biểu như Thái
bình ký (Taiheiki).
2.3.4 Sơ lược sân khấu Noh
Kịch Noh được biết đến như một nết văn hóa truyền thống độc đáo của Nhật Bản,
ra đời vào thế kỷ XIV, cực thịnh vào thế kỷ XV, sau đó suy tàn và được phục hồi vào thế
kỷ XX. Nguồn gốc ban đầu của kịch Noh là sự kết hợp giữa ca múa dân gian với các buổi

tế lễ. Đến thế kỷ XIV, kịch Noh được các nghệ sỹ cải biến và phát triển thành một bộ
môn nghệ thuật mang tính bác học (sân khấu kịch của tầng lớp samurai).
Ban đầu, một buổi biểu diễn kịch Noh truyền thống phải đủ năm hồi, liên quan đến
năm đề tài (cũng là năm loại nhân vật) chính:

1

[2]R.H.P.Mason & J.G.Caiger, Sđd, tr.136-137.

17


Cụ thể, các hồi được phân bổ như sau:
Shobamme- mono (vở kịch hồi một), đôi khi được gọi là wakino- mono hoặc kami (thần)
 Nibamme- mono (vở kịch hồi hai) hoặc còn gọi là shura- mono, thường nói về chiến
sỹ  Sambamme- mono (vở kịch hồi ba) cũng được gọi là katsura- mono, thường nói về
giai nhân  Yobamme- mono (vở kịch hồi bốn), hoặc zo- mono, thường đề cập đến các
nhân vật điên  Gobamme- mono (vở kịch hồi năm), hoặc kirino- mono hay còn gọi là
“vở kịch quỷ”.
Về sau, thời gian biểu diễn được rút ngắn lại. Thông thường, một vở kịch Noh
được chia thành hai hồi:
Hồi mở đầu:

Trong đó, nhân vật waki không đeo mặt nạ và đóng vai trò như một người dẫn chuyện.
Hồi hai:

18


Nhân vật shite mang mặt nạ truyền thống (thường là những mặt nạ nhiều màu và

giàu sắc thái biểu cảm).
Xen giữa hai hồi của Noh là một vở hài kịch (Kyogen).
Tất cả các vai trong vở kịch Noh, kể cả vai nữ, đều do các diễn viên nam đảm
nhận. Phong cách diễn xuất của các nhân vật: mọi vận động trên sân khấu thường hướng
vào trong, có thể hiểu là một cách “hoạt động trong bất động” (vai diễn có những khoảnh
khắc bất động nhưng ẩn chứa nội lực của diễn viên). “Tiết chế hành động đến mức tối
thiểu mà vẫn tạo được hiệu quả sân khấu tối đa, đấy là phong cách Noh”[1].
Thời gian trong Noh là thời gian quá khứ, thời gian của kiếp trước hay nói cách
khác, là thời gian mang tính chất hồi cố.
Một vở kịch Noh luôn là sự xen lẫn giữa văn xuôi, thơ, vũ đạo, ca hát và âm nhạc.
Noh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo và đặc biệt là tư tưởng Thiền tông,
trong đó thế giới quan Thiền tông với những linh hồn còn chưa thoát tục (còn vấn vương
tục lụy với những oán thù, tình yêu, danh vọng, tội lỗi…) chỉ được giải thoát khi có cơ
hội để đại ngộ, nhìn thấu bản chất vô thường, vô ngã của thế gian.
“Noh là sân khấu của biểu tượng, của cái ảo, là nỗ lực vươn tới cái u huyền của
cuộc sống”[2].
Kịch tác gia tiêu biểu của sân khấu Noh: Zeami Motokiyo với những tác phẩm nổi
tiếng: Chiến sỹ Atsumori (Atsumori), Chiếc trống lụa (Aya no tsuzumi), Bên bờ giếng
(Izutsu), Sơn mụ (Yamauba)...
Ở sân khấu kịch Noh hiện đại, người được ghi nhận có nhiều đóng góp là Mishima
Yukio với Năm vở kịch Noh hiện đại.
Bên cạnh kịch Noh, sân khấu Nhật Bản còn có Kyogen- thể loại hài kịch có khi
tồn tại giữa hai hồi của một vở kịch Noh, giữa chương trình gồm vài vở kịch Noh hoặc có
khi được trình diễn hoàn toàn riêng biệt.
Diễn viên của Kyogen gồm: - omo (diễn viên chính)
- ado (diễn viên thứ hai)
1
2

[1] Nhật Chiêu, sđd, tr. 200.

[2] Nhật Chiêu, sđd, tr. 199.

19


- ko-ado (diễn viên thứ ba)
Các nhân vật của Kyogen thuộc mọi thành phần xã hội như tăng lữ, nông dân, thợ
thuyền, ăn xin, ăn trộm…có khi là cả thú vật (khỉ, ngựa…), trong đó, thường gặp nhất là
loại cặp nhân vật lãnh chúa- gia nhân.
Kyogen ít dùng mặt nạ (thường mặt nạ chỉ dành cho các vai quỷ, thần, thú…)
Kyogen ban đầu chỉ tồn tại dưới hình thức truyền khẩu. Đến giữa thế kỷ XVII,
tuyển tập Kyogenki (Cuồng ngôn ký, 1660) mới xuất hiện.
Nếu so sánh Kyogen với Noh, có thể thấy: “Noh là thế giới lý tưởng, Kyogen là
thế giới thường ngày. Noh là quý tộc, Kyogen là dân giã. Noh là thơ ca, Kyogen là văn
xuôi…”[1].
Noh là khát vọng vươn tới hoàn thiện của con người. Kyogen là bản tính xưa nay
của con người trên đường trần.
2.4

Văn học thời Edo (1603- 1868)

2.4.1 Bối cảnh xã hội
Kế vị Hideyoshi, Tokugawa Ieyasu dẹp loạn tại chiến trường Sekigahara, được
Thiên Hoàng phong danh Tướng quân năm 1603, thiết lập tướng phủ Tokugawa tại Edo
(Tokyo), rồi trở thành một trong những nhà cai trị lỗi lạc của Nhật Bản.
Bộ luật hợp pháp cho các gia đình quý tộc được thành lập, tạo điều kiện cho chế
độ Shogun kiểm soát triều đình.
Hệ thống bốn đẳng cấp trong xã hội được xây dựng: đứng đầu là võ sĩ, rồi đến
nông dân, thợ thủ công và nhà buôn. Việc hôn nhân bắt đầu giới hạn trong những người
cùng đẳng cấp. Mối quan hệ chủ - tớ phong kiến được thiết lập.

Edo trở thành trung tâm văn hóa mới. Quốc học, Cổ học, Sử học, Nho học đặc biệt
được chú ý và ngày một phát triển.
Thời Edo còn được xem là thời của thị dân và thương gia. Văn hóa Edo còn được
gọi là văn hóa thị dân (chonin bunka)
Nghệ thuật in ấn phát triển mạnh, đem đến cho công chúng sự thưởng thức ồ ạt
các loại văn chương, hội họa, từ những giá trị văn hóa thuần túy đến cả những yếu tố
phóng đãng, đồi trụy,…
Thời Edo còn được biết đến bởi Yukaku- mệnh danh là “những thành phố không
đêm” với những khu vui chơi, các thanh lâu, lữ quán, nhà hát…cùng những nghệ sỹ và kỹ
nữ, các samurai lang thang và các du nữ…

1

[1] Nhật Chiêu, sđd, tr. 211.

20


Từ 1638 đến 1853, chính quyền Tokugawa ban hành lệnh tỏa quốc với chính sách
Sakoku: đóng cửa đất nước (chủ yếu nhằm vào cấm đạo Cơ đốc và việc buôn bán với các
thương gia nước ngoài).
Năm 1854, một năm sau khi đô đốc Perry của Mỹ đến Nhật, hiệp ước sơ khởi giữa
Nhật- Mỹ được ký kết nhằm phá bỏ lệnh tỏa quốc của Tokugawa và đến năm 1858, một
hiệp ước khác được ký, chấm dứt hoàn toàn thời kỳ bế quan tỏa cảng, khởi đầu giai đoạn
Nhật Bản liên tục mở rộng các chính sách buôn bán với nước ngoài và đổi mới đất nước.
Từ đời tướng quân thứ 11 trở đi, bệnh dịch, đói kém lan tràn, chế độ mạc phủ
không được lòng dân. Đến đời tướng quân thứ 15, chế độ này đã hoàn toàn bị xóa sổ khi
tướng quânn Toyotomi Yoshinobu buộc phải trao quyền lại cho triều đình.
2.4.2 Đời sống văn học
- Tiểu thuyết của Ihara Saikaku

Ihara Saikaku (1641- 1693) được đánh giá là tiểu thuyết gia lớn nhất thời Edo.
Các tác phẩm của ông thường chứa đựng tính chất hiện thực trào lộng với hai
mảng chủ đề chính: sắc tình và tiền tài.
Với chủ đề thứ nhất: sắc tình, có thể thấy thế gian xuất hiện trong tiểu thuyết của
Saikaku là thế gian đa tình, khi con người trở thành nhan sắc của chính cuộc đời, nhưng
tình yêu được Saikaku phác họa không phải là thứ tình yêu thuần khiết, trong sáng mà
luôn gắn liền với yếu tố koshoku (hiếu sắc), nghĩa là gồm cả tình yêu lẫn sắc dục. Tiêu
biểu cho các tác phẩm thuộc đề tài này của Saikaku có thể kể đến: Người đàn ông đa tình
(Koshoku ichidai otoko, 1682), Người đàn bà đa tình (Koshoku ichidai onna, 1686),
Năm người đàn bà đa tình (Koshoku gonin onna, 1686),…
Ở mảng chủ đề thứ hai: tiền tài, tiểu thuyết của Saikaku thường tập trung khai thác
những yếu tố thực tiễn trong đời sống thị dân, tiếng Nhật gọi là choninmono (đinh nhân
vật), như những phương cách kiếm tiền, các hình thức tiêu hoang hay sự khốn quẫn do
túng thiếu…Tác phẩm tiêu biểu: Kho tàng vĩnh cửu ở Nhật Bản (Nippon eitaigura, 1688),
Nợ nần thế gian (Seken Munesanyo, 1692),…
-Thơ Haiku của Basho
Haiku được xem như tinh hoa văn hóa của dân tộc Nhật.
Matsuo Basho (1644- 1694), vốn xuất thân từ một gia đình dòng dõi samurai. Am
hiểu cổ văn Nhật và cổ văn Trung Quốc, dành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu thư
pháp, Basho từng là người giảng dạy thơ haikai (tên đầy đủ là haikai no renga- bài hài
liên ca) - thể loại thơ có nội dung thiên về trào lộng.
Từ thơ haikai, Basho sáng tạo một phong cách mới: giảm dần sắc thái trào phúng,
thổi vào âm hưởng tâm linh cao nhã của Thiền tông, gói gọn trong khổ thơ ngắn 17 âm
tiết, được gọi là hokku (phát cú). Sau Basho- Yosa Buson và Masaoka Shiki hoàn thiện
21


thể thơ này và đặt tên là haiku. Một bài haiku chứa 17 âm tiết, được phân bổ thành 3 câu
theo số lượng âm tiết: 5-7-5.
Furuike ya

Kawazu tobikomu
Mizu no oto

Dịch thơ:

Ao cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xao [1]

Có thể thấy rất rõ số lượng âm tiết trong từng câu theo nguyên tắc 5-7-5
Fu 1ru 2i3ke4 ya5
Ka 1wa2 zu3 to4bi5ko6 mu7
Mi1zu2 no3 o4to5
hay:
Shi1zu2ke3sa4 ya5
Dịch thơ:
Yên lặng làm sao
1
2
3
4
5 6
7
I wa ni shi mi -i ru
Tiếng ve sầu ra rả
1
2
3
4 5
Se mi no ko e

Thấu tận lòng tảng đá [2]
Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, những nguyên tắc này có thể bị vượt qua:
Kare eda ni

Dịch thơ:

Trên cành khô

Ka1ra2su3 no4 to5ma6ri7 ke8ri9

Cánh quạ đậu

Aki no kure

Chiều thu [3]

Thế nhưng, dù có vượt quá số âm tiết quy định đi chăng nữa thì haiku vẫn là thể
thơ ngắn nhất thế giới:
“Sự ngắn gọn của haiku không phải là vấn đề hình thức; haiku không phải là một
tư tưởng phong phú rút vào một hình thức ngắn, mà là một sự tình vắn tắt đã tìm ra được
hình thức vừa vặn của mình”[ 4].
Trong thơ haiku, yếu tố không thể thiếu là kigo (quý ngữ), được hiểu là từ miêu tả
một mùa nào đó trong năm. Các hình ảnh về mùa cũng góp phần tạo ra thể thống nhất
trong mối quan hệ thiên nhiên, trời đất, con người kiểu: không gian- thời gian- con người.
Phải chăng đó chính là sự hòa hợp của con người khi cùng tồn tại với thời gian,
không gian của vũ trụ theo quan niệm phương Đông?
Các kiểu cảm thức chính thường bắt gặp trong thơ haiku [5]:

1


Nhật Chiêu, Sđd, tr. 265.
R.H.P.Mason & J.G.Caiger, Sđd, tr.272.
3
Nhật Chiêu, Sđd, tr.271
4
Nhận định của Roland Barthes, L’empire des signes, 1970, trích lại từ Nhật Chiêu, Sđd, tr. 271.
5
Dựa theo Nhật Chiêu, Sđd, tr. 273.
2

22


- Sân khấu ca kịch Kabuki và sân khấu múa rối Bunraku
+ Sân khấu ca kịch Kabuki: là loại hình ca- vũ- kỹ, phối hợp diễn xuất, vũ điệu và âm
nhạc; là thể loại kịch của quần chúng và cũng như kịch Noh, các diễn viên của Kabuki
đều do nam giới thủ vai.
Mặt nạ trong sân khấu Noh dùng để diễn tả những sắc thái buồn vui, giận dữ…của
nhân vật còn trong sân khấu Kabuki, mặt nạ thể hiện tính cách cá nhân (hiền, ác, ngay
thẳng, gian tà…) của nhân vật qua những màu sắc khác nhau. Điều này, Kabuki có những
nét tương đồng nhất định với sân khấu tuồng cổ Việt Nam, khi nhân vật trong tuồng cổ
Việt Nam được hóa trang kiểu: Người trung mặt đỏ đôi tròng bạc/ Đứa nịnh râu đen mấy
sợi còi.
Từ năm 1688, Kabuki được trình diễn dưới ba hình thức khác nhau:
 Jidai- mono (kịch lịch sử): thường chứa đựng nhiều vai diễn, đạo cụ phức tạp, trang
phục diễn viên cầu kỳ, lời thoại sử dụng thứ ngôn ngữ trang trọng và hình thức này phù
hợp với giới quý tộc cũng như tầng lớp samurai.
 Sewa- mono (kịch gia đình): mô tả cuộc sống của thị dân, trang phục diễn viên là những
gì đang thịnh hành trong đời sống người dân thời Edo, ngôn từ thoại là lời ăn tiếng nói
thông tục hàng ngày.

 Shosagoto (tiết mục múa): những buổi trình diễn múa và kịch câm.
Sân khấu Kabuki (điều này cũng được thể hiện trong sân khấu Bunraku), bên cạnh
những tình tiết chính liên quan đến nội dung của vở kịch, thường kết hợp chuyển tải
những quan niệm đạo đức thịnh hành thời Edo như: luật công bằng thưởng phạt, tính phù
du của vạn vật (ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo) hay quan niệm về bổn phận của cá
nhân với đất nước, với cộng đồng, với gia đình và những mâu thuẫn, xung đột giữa bổn
phận với những khao khát, đam mê của con người (ảnh hưởng của tư tưởng Khổng giáo).
Kabuki đạt đến đỉnh cao nghệ thuật với những vở kịch nổi tiếng của Tsuruya
Namboku (1755- 1892) và Kawatake Mokuami (1816- 1893).

23


+ Sân khấu múa rối Bunraku: phát triển từ hình thức kể chuyện sang hình thức nhạc kịch;
kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố hình thức, màu sắc, âm thanh; thường sử dụng ba người
điều khiển rối để thể hiện một nhân vật duy nhất; được xem như một thể loại kịch chính
thống của sân khấu Nhật Bản nói chung.
Chikamatsu Monzaemon (1653- 1725): là người có những đóng góp đáng kể cho
văn chương Kabuki và đặc biệt là Bunraku. Ông là tác giả của hàng trăm vở Bunraku giá
trị, tiêu biểu có thể kể đến:
Cuộc chiến Kokusenya (Kokusenya kassen,1715) – một vở kịch theo loại thời đại (jidai)
là câu chuyện về một anh hùng chiến đấu ở Trung Quốc cho cuộc phục hưng nhà Minh.
Tự sát đôi ở Sonezaki (Sonezaki Shinju, 1703)- một vở kịch theo loại thế thoại (sewa) là
câu chuyện tình bất thành của anh Tokubei- thư ký hiệu buôn- với cô kỹ nữ Ohatsu, cuối
cùng để không phải xa nhau, họ đã chọn cách tự sát bên nhau.
Xung đột chính thường thấy trong các vở kịch rối của Chikamatsu là xung đột
giữa bổn phận và đạo lý đối với xã hội (giri) và những tình cảm đam mê của con
người(ninjo), ở một khía cạnh rộng hơn, đó cũng là xung đột giữa lý trí và tình cảm- một
kiểu xung đột phổ biến trong kịch cổ điển Pháp thế kỷ XVII (Le Cid, Horace, Cinna…
của Pierre Corneille, Andromaque của Racine…), và cũng là mối xung đột muôn đời

trong quy luật của cuộc đời.

CHƯƠNG 3
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ THẾ KỶ XIX ĐẾN NAY

3.1

Bối cảnh lịch sử, xã hội
Chế độ tướng quân tan rã, quyền lực phục hồi về tay Thiên Hoàng.

Năm 1867, Mutsuhito lên ngôi, lấy hiệu là Thiên Hoàng Meiji (Minh Trị), thời đại
Minh Trị bắt đầu từ năm 1868 và kết thúc vào năm 1912.
Năm 1868, kinh đô mới Tokyo (Đông Kinh) được lập tại Edo.
Năm 1889, Hiến pháp Minh Trị được ban hành, trong đó có những điều khoản
khẳng định Thiên Hoàng là “linh thiêng và bất khả xâm phạm”. Nghị viện quốc gia và
chế độ tư pháp độc lập cũng được thành lập trong khoảng thời gian này.
Kinh tế Nhật Bản chuyển dần theo hướng tư bản chủ nghĩa.
Năm 1894- 1895, Nhật giành chiến thắng trong chiến tranh Trung- Nhật.

24


Năm 1904- 1905, cuộc chiến Nga- Nhật nổ ra và kết thúc với thắng lợi của quân
Nhật.
Từ năm 1912 đến năm 1926 là thời Taisho (Đại Chính). Chiến tranh thế giới lần
thứ nhất, Nhật tham gia vào phe đồng minh (1914). Thời Taisho ở Nhật cũng là thời kỳ
của các phong trào cải cách theo đường lối dân chủ chủ nghĩa.
Từ năm 1926 đến năm 1989: thời Showa (Chiêu Hòa)
Năm 1940, Nhật liên kết với phát xít Đức và đến năm 1941, Nhật tuyên chiến với
Mỹ bằng trận Trân Châu Cảng lịch sử trong cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, rồi đưa

quân bành trướng sang Miến Điện, Sumatra, New Guinea, quần đảo Solomon.
Quân đội Nhật bại trận vào năm 1945, sau đó bị Mỹ cai trị đến năm 1952.
Từ năm 1989 đến nay: thời Heisei (Bình Thành), Thiên Hoàng là Akihito.
Sau khi hoàn thành quá trình xây dựng quốc gia dân chủ chủ nghĩa, Nhật nhanh
chóng phục hồi kinh tế và tiến những bước tiến nhảy vọt từ thập niên 70 của thế kỷ XIX
đến nay, để trở thành cường quốc kinh tế đứng thứ hai trên thế giới.
3.2 Đời sống văn học
3.2.1 Văn học thời Meiji (1868- 1912)
Thời kỳ Meiji, văn học được biết đến bởi sự nổi bật của tên tuổi Natsume Soseki
(1867- 1916).
Natsume Soseki chuyên về Hán văn từ nhỏ, đến khi trưởng thành, ông chịu ảnh
hưởng lớn từ văn minh châu Âu, đặc biệt là từ Anh quốc. Soseki từng du học ở London
trong hai năm (từ 1900 đến 1903), là một học giả Anh ngữ, thế nhưng bản thân ông là
người có tâm hồn thuần túy Á Đông nên dù vẫn tiếp nhận những tinh hoa văn hóa nước
ngoài mà vẫn luôn lo ngại sự lấn lướt, đặc biệt từ văn hóa Âu Mỹ.
Tác phẩm đầu tay của Soseki: Mèo chúng tớ (Wagahai wa neko dearu-1905) chứa
đựng nhiều yếu tố trào lộng khi ông đặt điểm nhìn của người kể chuyện vào vai một con
mèo để quan sát và tìm hiểu những sinh hoạt của gia chủ- đại diện cho giới trí thức, công
chức thời Meiji.
Sau những thành công đáng kể mà sản phẩm đầu tay mang lại, Soseki tiếp tục cho
ra mắt công chúng hàng loạt tác phẩm giá trị khác như: Gối cỏ (Kusamakura- 1906), Cậu
ấm (Botchan- 1906), Bão mùa thu (Nowaki- 1907),…trong đó Cậu ấm mang lại cho ông
những danh tiếng rực rỡ, thậm chí một trường phái gọi là trường phái Soseki đã được
hình thành.
Tiếp đó, Soseki xuất bản hàng loạt tác phẩm được sáng tác dựa trên mỹ cảm
truyền thống của Nhật Bản như yojo (dư tình) hay mono no aware (bi cảm): Truyện
chàng Sanshiro (Sanshiro- 1908), Từ dạo ấy (Sorekara- 1909) và Cánh cổng (Mon1910), Người đi đường (Kojin, 1913), Trái tim (Kokoro, 1914), Cỏ ven đường
(Michikusa, 1915)…
25



×