Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn khả năng tự học môn Ngữ văn cho học sinh khối 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.85 KB, 17 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Sự phát triển của một quốc gia trong thế kỉ 21 sẽ phụ thuộc lớn vào tiềm
năng tri thức của dân tộc đó. Giáo dục cùng với khoa học công nghệ là nhân tố
quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Bước vào thiên niên kỉ mới,
UNESCO từng có khuyến cáo: “Quốc gia nào, cộng đồng nào coi nhẹ giáo dục
hoặc không biết cách làm giáo dục thì đều lạc hậu và điều này còn tồi tệ hơn là
sự phá sản”. Lời khuyến cáo là kim chỉ nam cho việc thực hiện công cuộc đổi
mới giáo dục để đất nước vững bước hoàn thành công nghiệp hóa – hiện đại hóa
và thực hiện sự hội nhập quốc tế.
Các quốc gia ngày nay đi vào nền kinh tế tri thức trước bối cảnh toàn cầu
hóa đều xác định chiến lược con người, chiến lược về nguồn lực con người.
Chiến lược này phải bắt đầu từ vấn đề nhận thức toàn diện đến quyết tâm, thực
hiện phạm trù nhân cách, có quan điểm đúng đắn về hướng đi và phải có giải
pháp khả thi để hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ.
Đối với đất nước chúng ta, xuất phát từ mục tiêu giáo dục – đào tạo của
nhà trường phổ thông Việt Nam là hình thành những cơ sở ban đầu và trọng yếu
của con người mới phát triển toàn diện phù hợp với yêu cầu, điều kiện và hoàn
cảnh đất nước Việt Nam. Mục tiêu này xuất phát từ chính sách chung về giáo
dục và đào tạo, được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng: “Mục tiêu giáo
dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình
thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ,
năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng và tinh thần yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7, Đảng cộng sản
Việt Nam, trang 81). “Nâng cao mặt bằng dân trí, bảo đảm những tri thức cần
thiết để mọi người gia nhập cuộc sống xã hội và kinh tế theo kịp tiến trình đổi
mới và phát triển đất nước. Đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn

Nguyễn Thị Thanh Tuyền

1




nhân lực để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa” (Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8, Đảng cộng sản Việt Nam, trang 199).
Giáo dục ngày nay được coi là nền móng của sự phát triển công nghiệp
hóa – hiện đại hóa và đem lại sự thịnh vượng cho nền kinh tế quốc dân. Có thể
khẳng định rằng: “Không có giáo dục thì không có bất cứ sự phát triển nào đối
với mỗi con người, đối với kinh tế, văn hóa”. Ý thức được điều đó, Đảng ta đã
thực sự coi “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Hội nghị TW 4 khóa VII đã
khẳng định: “Giáo dục – đào tạo là chìa khóa để mở cửa tiến vào tương lai”.
Nghị quyết TW 2 khóa VIII lại tiếp tục khẳng định “Muốn tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục – đào tạo, phát
huy nguồn lực con người, yếu tố phát triển nhanh và bền vững”. Đại hội lần X
(năm 2006) tiếp tục nhấn mạnh “Đảng ta coi con người vừa là động lực vừa là
mục tiêu của sự phát triển”.
Luật giáo dục năm 2005, điều 28, khoản 2, trang 31 đã nêu “Phương pháp
giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học: bồi dưỡng phương
pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”.
Con đường học vấn là rộng lớn, muốn đạt được học vấn đích thực thì học
phải gắn liền với hành, học gắn với lao động sản xuất với thực tiễn, kết hợp học
và tự học. Một người học xong Đại học có thể gọi là có tri thức. Song họ không
biết cày ruộng, không biết làm công, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm
lại, công việc thực tế họ không biết gì cả. Thế là họ chỉ có tri thức một nửa. Tri
thức của họ là tri thức học sách chưa phải tri thức hoàn toàn. Muốn thành người
hoàn toàn thì phải đem tri thức đó áp dụng vào thực tế.
Như vậy trong thời đại mới, khi khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển,
việc tự học là yêu cầu quan trọng, cần thiết được đặt ra với tất cả mọi người. Đặc

Nguyễn Thị Thanh Tuyền

2


biệt là học sinh, tự học là một trong các phương pháp học tập hiệu quả để qua đó
rèn cho học sinh khả năng tự tìm tòi, sáng tạo trong học tập, nghiên cứu. Đó là
điều cần thiết, là nền tảng vững chắc để học sinh vững bước, tự tin ở các lớp học
tiếp theo. Do đó, mỗi học sinh cần trang bị ngay từ khi còn ngồi học ở trường
trung học cơ sở để lên trung học phổ thông và tiếp bước vào Cao đẳng, Đại học
có thể đạt thành tích cao trong kết quả học tập. Học sinh Trung học cơ sở cũng
đã được làm quen với phương pháp học tập này. Những mặt tích cực của việc tự
học là không thể phủ nhận nhưng không phải học sinh nào cũng đạt được kết quả
cao với phương pháp học tập này thậm chí một số học sinh còn cảm thấy bị o ép,
không chấp nhận cách học mới. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phương pháp tự
học của học sinh được thực hiện rộng rãi, thực sự phát huy được hiệu quả, giúp
học sinh nhanh chóng lĩnh hội, chiếm lĩnh tri thức có được kết quả học tập tốt
nhất ?
Chính vì những băn khoăn, trăn trở trên, tôi đã chọn đề tài “Rèn khả năng
tự học môn Ngữ văn cho học sinh khối 9”. Đề tài nghiên cứu nhằm giúp học sinh
lớp 9 của trường THCS Thạnh Lợi có ý thức, có kế hoạch học tập theo phương
pháp tự học. Qua đó phát huy tốt năng lực vốn có của mỗi học sinh.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả học tập theo phương pháp
tự học môn Ngữ văn của học sinh lớp 9. Qua đó, phát triển các kĩ năng tự học, tự
nghiên cứu môn Ngữ văn của học sinh lớp 9 góp phần nâng cao chất lượng học
tập cho học sinh, đáp ứng yêu cầu giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
3.1. Khách thể:
Phương pháp dạy học môn Ngữ văn của giáo viên trung học cơ sở.

3.2. Đối tượng:
Bồi dưỡng khả năng tự học môn Ngữ văn cho học sinh lớp 9 của trường
THCS Thạnh Lợi.
Nguyễn Thị Thanh Tuyền

3


4. Giả thuyết khoa học:
Học sinh lớp 9 của trường THCS Thạnh Lợi có nhận thức đúng đắn về
tầm quan trọng của việc tự học. Nếu áp dụng các giải pháp nâng cao khả năng tự
học cho học sinh lớp 9 thì các em sẽ tích cực tự học hiệu quả góp phần nâng cao
kết quả học tập môn Ngữ văn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu thực trạng tại các trường THCS trong huyện Tháp Mười. Bản
thân thử nghiệm tại trường THCS Thạnh Lợi.
6. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu việc tự học môn Ngữ văn đối với học sinh lớp 9 trong các
trường THCS thuộc huyện Tháp Mười và thử nghiệm tại trường THCS Thạnh
Lợi.
7. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu lí luận: sưu tầm, đọc, tra cứu, nghiên cứu tài liệu,
sách báo có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp quan sát. (theo dõi quá trình học tập trên lớp, kiểm tra bài
tập, bài soạn ở nhà của học sinh)
Phương pháp thống kê.
8. Cấu trúc của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương II: Thực trạng vấn đề tự học môn Ngữ văn của học sinh lớp 9.

Chương III: Các giải pháp nâng cao khả năng tự học môn Ngữ văn của
học sinh lớp 9 và hiệu quả.

Nguyễn Thị Thanh Tuyền

4


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I . CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu về vấn đề tự học:
Người đặt nền móng cho ý thức về hành động tự học là nhà giáo dục
người Tiệp Khắc J.A Comenxki. Các nhà giáo dục học như Rutxo, Pestalogi,
Dixtecvec, Usinxki ở thế kỉ 18, 19 đã quan tâm nhiều đến sự phát triển trí tuệ,
tính tích cực và tính độc lập sáng tạo của học sinh. Bàn về tự học, các nhà giáo
dục học Việt Nam như Đặng Vũ Hoạt, Hà Thế Ngữ, Nguyễn Cảnh Toàn,… đã
coi việc tự học như chìa khóa vàng của giáo dục trong thời đại bùng nổ công
nghệ thông tin.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài:
1.2.1. Tự học:
Theo giáo sư – tiến sĩ Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là tự mình động não,
suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp,…)
và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi
cả động cơ tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực, có
chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học,
ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi,…) để chiếm lĩnh một lĩnh vực
hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”.
Nói chung, tự học là quá trình của bản thân người học tích cực độc lập, tự
giác chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo bằng những phương pháp phù hợp. Tự
học là quá trình học tập có thể diễn ra với sự tham gia của giáo viên. Mặt khác,

tự học cũng có thể diễn ra không có sự góp mặt của giáo viên. Học sinh tự sắp
xếp thời gian, chương trình học tập phù hợp.
1.2.2. Các hình thức tự học:
1.2.2.1 Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập không
có sách và sự hướng dẫn của giáo viên.

Nguyễn Thị Thanh Tuyền

5


Dạng tự học này phải được dựa trên nền tảng một niềm khao khát, say mê
khám phá tri thức mới và đồng thời phải có một vốn tri thức vừa rộng vừa sâu.
Tới trình độ tự học này người học không thầy, không sách mà chỉ cọ sát với thực
tiễn vẫn có thể tổ chức có hiệu quả hoạt động của mình.
1.2.2.2 Tự học có sách nhưng không có giáo viên bên cạnh.
Ở hình thức tự học này có thể diễn ra ở hai mức:
- Thứ nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy:
Trường hợp này người học tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong
sách qua đó sẽ phát triển về tư duy, tự học hoàn toàn với sách là cái đích mà mọi
người phải đạt đến để xây dựng một xã hội học tập suốt đời.
- Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn:
Mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có các mối quan hệ trao đổi thông tin giữa
thầy và trò bằng các phương tiện trao đổi thông tin thô sơ hay hiện đại dưới dạng
phản ánh và giải đáp thắc mắc.
1.2.2.3 Tự học có sách, có thầy cùng gặp mặt trong giờ học.
Trong quá trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ,
chất xúc tác, thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai
trò là chủ thể của quá trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê.


Nguyễn Thị Thanh Tuyền

6


CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG
2.1. Thực trạng sự đầu tư và tự học môn Ngữ văn trong nhà trường.
Chủ trương đổi mới phương pháp dạy và học luôn được quán triệt đến cơ
sở trong nhiều năm qua và nhất là khi Nghị quyết 40 của Quốc hội ngày
9/12/2000 về Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Tuy nhiên trong quá
trình tổ chức dạy và học ở các trường do sự chi phối của nhiều yếu tố, trong đó
nổi trội nhất là khâu quản lí chuyên môn chưa đồng bộ, đội ngũ giáo viên không
đồng đều về năng lực nên còn không ít những bất cập chưa thể khắc phục làm
hạn chế ít nhiều đến chất lượng giáo dục, trong đó có tình trạng người học không
tự tìm tòi, khám phá tri thức.
Chúng ta ai cũng biết rằng, môn Ngữ văn là môn học chính trong nhà
trường, có một vị trí vô cùng quan trọng trong việc bồi dưỡng nhân cách, tâm
hồn, tình cảm, cảm xúc của học sinh đối với cái thiện, cái đẹp trong cuộc sống.
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh quan niệm: “Văn chương gây cho ta những
tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẳn có; cuộc đời phù phiếm và
chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm
nghìn lần”. Môn Ngữ văn còn góp phần nâng cao trí tuệ, giúp học sinh có kĩ
năng giao tiếp, truyền tải thông tin đến với mọi người một cách tốt nhất, học sinh
vận dụng thành thạo ngôn ngữ của dân tộc ở bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết.
Học sinh của thời đại hôm nay có tâm lí học tập khác hơn tâm lí học tập của học
sinh thời đại trước. Xu hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa trên toàn cầu đã
và đang in đậm dấu ấn của nó trong tâm lí và tính cách của học sinh. Năng lực
tư duy của học sinh ngày càng hiện đại. Các em tỏ ra thờ ơ, hời hợt với môn Ngữ
văn mà tăng cường đầu tư cho những môn thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên. Đây
cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh ngày

càng học yếu môn Văn. Từ cách hiểu chưa đúng của học sinh, là một giáo viên
thiết nghĩ chúng ta cần phải uốn nắn lại cách nghĩ, cách làm của các em. Có như
vậy thì các em mới vững vàng kiến thức, nắm kiến thức một cách toàn diện.
Nguyễn Thị Thanh Tuyền

7


Trong việc đổi mới phương pháp giáo dục ngày nay lấy học sinh làm trung
tâm thì việc tự học của học sinh vô cùng quan trọng. Lịch sử khoa học – nghệ
thuật thế giới đã có những tấm gương tự học vĩ đại như nhà bác học Ê-đi-xơn,
tác giả của hàng vạn phát minh khoa học có ích cho nhân loại; đại văn hào Nga
Mac-xim Gorki, người coi cuộc sống là “Những trường Đại học của tôi”,… Việt
Nam cũng có những tấm gương như thế: chủ tịch Hồ Chí Minh, người luôn tự
học không ngừng ở mọi lỉnh vực, biết nhiều ngoại ngữ; học giả Đào Duy Anh,
tác giả nhiều từ điển, nhiều công trình nổi tiếng,… Trong những năm gần đây,
ngày càng xuất hiện nhiều học sinh giỏi, nhiều thủ khoa là những con em gia
đình nghèo nhờ khát vọng mà tự học vươn lên, là điểm sáng trong bức tranh giáo
dục đáng tự hào của hôm nay và mai sau.
Tuy vậy, trong thực tế hiện nay việc áp dụng phương pháp dạy học hướng
dẫn học sinh tự học của giáo viên ở tất cả các môn học nói chung và môn Ngữ
văn nói riêng còn gặp rất nhiều khó khăn. Cách học của học sinh vẫn đơn giản là
cố gắng hoàn thành hết các bài tập giáo viên giao về nhà bằng mọi cách có thể và
học thuộc lòng trong vở ghi đối với các môn học thuộc. Còn giáo viên từ trước
đến nay chỉ quan tâm đến cách dạy mà quên đi cách học của học sinh, quên đi
phương pháp tự học của người học. Đa số giáo viên thường quan niệm kiến thức
là mục đích của quá trình dạy học nên chỉ quan tâm đến phương pháp truyền thụ
một chiều thuyết minh hàng loạt các kiến thức trong sách giáo khoa, bài giảng
với một hình ảnh quen thuộc thầy đọc trò chép. Trước phương pháp giảng dạy
của các thầy cô giáo kết hợp với sự thụ động trong quá trình học tập vì thế học

sinh luôn phải cố gắng nhớ, lắng nghe, ghi chép toàn bộ những kiến thức từ thầy
cô giáo. Và từ thế hệ này đến thế hệ khác chúng ta đào tạo ra được những con
người thụ động, giáo điều, nguyên tắc, sách vở, khả năng tư duy, tìm tòi, sáng
tạo rất kém.
Thực trạng tại các trường trung học cơ sở:

Nguyễn Thị Thanh Tuyền

8


Trong tổng số học sinh yếu kém môn Ngữ văn có 100% học sinh không có
khả năng tự học.
Khả năng tự học môn Ngữ văn của học sinh chiếm khoảng 38,96% trên
toàn trường thuộc dạng xem bài, soạn bài trước khi đến lớp.
(Số liệu thu thập tại một số trường THCS Hưng Thạnh, THCS Thanh Mỹ,
THCS Trường Xuân và khảo sát, thăm dò ý kiến học sinh THCS Vĩnh Châu, Tân
Hưng, Long An).
Thực trạng tại trường trung học cơ sở Thạnh Lợi:
Trong tổng số học sinh yếu kém môn Ngữ văn có 100% học sinh không có
khả năng tự học.
Khả năng tự học môn Ngữ văn của học sinh chiếm khoảng 32,18% trên
toàn trường, thuộc dạng xem bài, soạn bài trước khi đến lớp.
Khả năng tự học môn Ngữ văn của học sinh khối 9 có 15/49, chiếm tỷ lệ
30,61% trên toàn trường, thuộc dạng xem bài, soạn bài trước khi đến lớp.
2.2. Các nguyên nhân.
2.2.1. Đối với giáo viên bô môn.
- Một số giáo viên chưa có kĩ năng soạn bài, vẫn áp dụng cách rập khuôn,
máy móc kiểu dạy học truyền thống, chủ yếu giải thích, minh họa, tái hiện, liệt
kê kiến thức theo sách giáo khoa là chính, ít sử dụng câu hỏi tìm tòi, tình huống

có vấn đề,… coi nhẹ rèn luyện thao tác tư duy, năng lực thực hành, ít sử dụng
các phương tiện dạy học, ít tổ chức cho học sinh tham gia nghiên cứu, thảo luận.
- Thực tế giáo viên thường soạn bài bằng cách sao chép, lấy những bài
soạn của bạn bè, đồng nghiệp rồi dạy nên không khai thác sâu kiến thức, chưa
sát với nội dung chương trình, chưa hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức giải
quyết vấn đề từ nhỏ đến lớn trong thực tế đời sống. Khi dạy giáo viên thường
nặng nề về lí thuyết, không tổ chức cho học sinh hoạt động độc lập, không
hướng dẫn được phương pháp tự học.

Nguyễn Thị Thanh Tuyền

9


- Phương pháp dạy học phổ biến hiện nay vẫn theo lối mòn cũ, giáo viên
truyền đạt kiến thức, học sinh thụ động lĩnh hội tri thức. Thậm chí có giáo viên
còn đọc hay ghi những nội dung trên bảng cho học sinh chép vào.
- Sợ học sinh không làm được bài (ví dụ như viết đoạn văn hay là viết một
bài văn) giáo viên lại phải làm sẵn những đoạn mẫu, bài mẫu cứ thế học sinh học
thuộc như vẹt thì ít nhiều cũng có điểm không tệ.
2.2.2. Đối với học sinh.
- Chưa bắt nhịp được với phương pháp dạy học mới (phương pháp dạy
học tích cực), các em tỏ ra xa lạ từ đó chán nản, sợ giáo viên gọi đến tên mình.
Phần lớn, học sinh rất hào hứng khi giáo viên hỏi những câu hỏi mà nội dung có
liên quan sẳn có trong sách giáo khoa nhưng khi giáo viên hỏi thêm “vì sao …?”
hoặc “em hiểu như thế nào…?” thì học sinh thụt những cánh tay đang giơ cao
chờ được phát biểu xuống hết.
- Một số chưa biết cách tự học môn Ngữ văn như thế nào cho có hiệu quả?
- Không yêu thích, có ý nghĩ lệch lạc đối với bộ môn này thường xem nhẹ.
Các em có thể đầu tư rất nhiều từ công sức để tự học tập ở nhà rồi kể cả tiền bạc

để đi học thêm cho những môn học khác như Toán, Tiếng anh, Hóa,…
2.3. Hậu quả.
2.3.1. Học sinh.
- Có thói quen ỉ lại ở giáo viên, không chủ động tìm hiểu kiến thức.
- Máy móc, rập khuôn với những cái sẵn có. Không có khả năng sáng tạo,
bị thụ động trong học tập, lười suy nghĩ sẽ thủ tiêu óc sáng tạo của người học,
biến học sinh thành những người quen suy nghĩ diễn đạt bằng những ý vay
mượn, bằng những lời có sẵn, lẽ ra phải làm chủ tri thức thì lại trở thành nô lệ
của sách vở.
- Hành văn dở, ảnh hưởng lớn đến khả năng diễn đạt trong giao tiếp.
2.3.2. Giáo viên.

Nguyễn Thị Thanh Tuyền

10


- Có tư tưởng phó mặc, không hứng thú trong cập nhật kiến thức, không
sáng tạo trong việc tìm kiếm các phương pháp giảng dạy.
- Không nâng cao được tay nghề, chậm tiến bộ, thậm chí tạo sức ỳ rất lớn.
Hạn chế tiềm năng vốn có ở giáo viên và cả học sinh.
- Tự học từ lâu vốn được coi là một phương pháp dạy học hữu hiệu để
truyền tải hết kiến thức một cách nhẹ nhàng, ít tốn thời gian trên lớp mà thông
qua đó người học lĩnh hội tri thức đầy chủ động, sáng tạo.

Nguyễn Thị Thanh Tuyền

11



CHƯƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ HIỆU QUẢ
3.1. Những giải pháp rèn khả năng tự học môn Ngữ văn cho học sinh
lớp 9 trường trung học cơ sở:
3.1.1. Giáo viên.
3.1.1.1. Bản thân người giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp dạy
học, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả trong giảng dạy môn
ngữ văn 9.
3.1.1.2. Bản thân người giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách tự học hiệu
quả:
3.1.1.2.1. Tự học ở nhà:
- Đối với môn Ngữ văn, tự học qua sách giáo khoa là vô cùng quan trọng.
Học sinh tự nghiên cứu sách giáo khoa ở nhà trước khi lên lớp học bài mới
nhưng không chỉ đơn giản là nhắc nhở các em về nhà chuẩn bị bài mới mà cần
nêu cụ thể câu hỏi (nêu nhiệm vụ cụ thể) giúp cho học sinh khi đọc sách giáo
khoa có mục tiêu rõ ràng. Ví dụ như: Để chuẩn bị cho văn bản “Ánh trăng” của
Nguyễn Duy, giáo viên cần lưu ý học sinh về nhà tự học những gì?
+ Bước 1: Đọc kĩ bài thơ.
+ Bước 2: Tìm hiểu chú thích sách giáo khoa (cần đọc kĩ chú thích để nắm
được tiểu sử tác giả, thể loại, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm)
+ Bước 3: Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của bài thơ thông qua việc trả
lời các câu hỏi trong phần đọc hiểu văn bản.
- Khi nghiên cứu sách giáo khoa ở nhà, những vấn đề không hiểu nên ghi
nhận lại để lên lớp giáo viên giảng thì tập trung chú ý hơn cho vấn đề này.
3.1.1.2.2. Tự học trên lớp:
- Sử dụng sách giáo khoa trên lớp, những ví dụ mẫu giáo viên không nên
thay đổi để những học sinh khi tham gia tự nghiên cứu bài trước ở nhà thì sẽ
tham gia trả lời ngay bài giảng, tạo tâm lí thoải mái, hứng thú trong tiết học.

Nguyễn Thị Thanh Tuyền


12


- Học sinh phải biết chú ý lắng nghe lời thầy cô giảng, tập trung theo dõi
diễn biến nội dung bài học, học một cách không thụ động, biết đề xuất thắc mắc,
những chỗ chưa hiểu được rõ hỏi thầy cô ngay để giải đáp cùng xây dựng bài
học.
- Học sinh cần trang bị thêm cho mình một quyển vở học phụ để ghi chép
thêm những nội dung mở rộng hay những lời bình của giáo viên về đoạn thơ, bài
thơ,…
3.1.1.2.3. Tự học qua sách tham khảo, báo chí, Internet:
Giáo viên chủ động hơn trong việc tìm kiếm tài liệu hỗ trợ cho bài học
bằng cách giới thiệu những loại sách, báo có liên quan làm phong phú hơn kiến
thức cho học sinh. Ngoài ra còn có thể giới thiệu những trang tin trên mạng cho
các em lên mạng tìm đọc, nghiên cứu.
- Cần giúp học sinh nhận thức được vai trò, vị trí của bộ môn Ngữ văn đối
với đời sống, kích thích nhu cầu học thực sự, có lòng say mê học tập. Giáo viên
phải là người hướng dẫn, tạo điều kiện, cuốn hút học sinh vào tiến trình học tập
giúp học sinh tự tìm hiểu, khám phá, phát huy được khả năng bản thân cũng như
tính tích cực, tự chủ trong học tập.
- Tăng cường ra bài tập về nhà cho học sinh có kiểm tra, đánh giá thường
xuyên.
3.1.2 Về phía học sinh.
- Cần tập trung nghe giảng, cùng xây dựng bài học, lắng nghe ý kiến của
các bạn và phải tập nhận xét.
- Mạnh dạn, không sợ xấu hỗ hay mắc cỡ mà nêu những thắc mắc, những
vấn đề nào chưa thông, chưa rõ thấu đáo nhờ giáo viên giải đáp.
- Cần chú ý lắng nghe và ghi chép vào vở nháp (tập học phụ) những dẫn
chứng minh họa, những lời bình, mở rộng của giáo viên.
- Về nhà , thực hiện đầy đủ những yêu cầu, bài soạn, bài tập của giáo viên

giao.
Nguyễn Thị Thanh Tuyền

13


- Học ngay bài của ngày hôm đó. Cuối một phần của cụm bài, học sinh tự
thống kê ôn tập.
-Tập cho mình thói quen đọc sách, xem sách như món ăn tinh thần không
thể thiếu để rèn luyện khả năng diễn đạt tốt bằng những minh chứng cụ thể,
mạch lạc trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, trong viết văn.
-Học sinh phải nhận thức được tầm quan trọng cũng như ích lợi của việc
tự học.
-Phải luôn nâng cao tinh thần tự giác, xác định rõ động cơ và mục đích
học tập của mình. Biết tạo ra niềm say mê trong học tập, chủ động nghiên cứu
bài học trước, vấn đề chưa rõ, chưa hiểu phải hỏi bạn bè hay thầy cô.
-Phải thay đổi thái độ học thụ động, bớt phụ thuộc vào giáo viên.
3.1.3. Về phía gia đình.
-Sắp xếp thời gian hợp lí cho con em nên lập một thời gian biểu ở nhà và
quản lí giờ giấc học tập của con.
- Thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở, đôn đốc con chuẩn bị bài ở nhà.
3.1.4. Về phía nhà trường.
Chỉ đạo giáo viên cách ra đề kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì một
cách hợp lí với nhiều hình thức khác nhau nhằm khắc phục tình trạng học tủ, học
vẹt phổ biến của học sinh hiện nay.
3.2. Kết quả bước đầu.
- Về chất lượng giảng dạy:
Căn cứ vào kết quả khảo sát môn Ngữ văn trước khi hướng dẫn học sinh
tự học.
Tổng

0-<3,5
3,5-<5,0
5,0-<6,5
6,5-< 8,0
8,0-10
số
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL TL
9a1
26
1 3,8% 5 19,2% 7
27% 12 46,2% 1 3,8%
9a2
23
4 17,4% 3
13%
6 26,1% 8 34,8% 2 8,7%
Cộng 49
5
10,2
8 16,33 13 26,53 20 40,82 3 6,12
Lớp


Nguyễn Thị Thanh Tuyền

14


Phấn đấu đạt kết quả môn Ngữ văn sau quá trình học sinh đã thay đổi cách
học theo phương pháp tự học.
Tổng
số
9a1
26
9a2
23
Cộng 49
Lớp

0-<3,5
SL
TL
0
0%
0
0%
0
0,0

3,5-<5,0
SL
TL
0

0%
0
0%
0
0,0

5,0-<6,5
SL
TL
9 34,6%
11 47,8%
20 40,82

6,5-< 8,0
SL
TL
15
57,7
10 43,5%
25 51,02

8,0-10
SL TL
2 7,7%
2 8,7%
4
8,16

- Giáo viên đã có nhiều cố gắng tìm tòi sáng tạo và bước đầu đã có những
thành công nhất định trong việc truyền tải kiến thức cho học sinh thông qua

phương pháp dạy học tích cực đó là rèn cho học sinh ý thức tự học, tự tìm tòi
chiếm lĩnh tri thức.
- Học sinh biết cách tự học và có hứng thú tự học. Trong giờ học, học sinh
phải hết sức tập trung chú ý lắng nghe lời giảng của giáo viên công với những
kiến thức được các em chuẩn bị chu đáo ở nhà qua sự hương dẫn của giáo viên
từ đó kiến thức được khắc sâu, nhớ lâu. Học sinh quen dần với lối học mới “tự
học”. Kiến thức nắm sâu và nhớ kĩ hơn. Học sinh không chỉ biết cách lắng nghe
lời giảng, lời bình từ giáo viên mà còn biết cách lập luận, biết tranh luận, biết
vận dụng kiến thức vào bài học. Học sinh trở nên yêu thích học Văn hơn. Thực
ra môn học này cũng không khó gì mấy chỉ bởi học sinh chưa tìm ra cách học
hiệu quả đó thôi.

PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
- Rèn khả năng tự học môn Ngữ văn cho học sinh lớp 9 là một yêu cầu cần
thiết để nâng cao chất lượng dạy - học trong nhà trường hiện nay. Nếu học sinh
từng bước hình thành năng lực tự học thì sẽ tự làm giàu kiến thức và có thêm ý
thức học tập thường xuyên và suốt đời.

Nguyễn Thị Thanh Tuyền

15


- Đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn phức tạp trong điều kiện hiện
nay của các trường đòi hỏi cả một quá trình lâu dài với sự cố gắng của nhiều đối
tượng khác nhau mới có thể có kết quả, nhất là với điều kiện học tập như trường
vùng sâu .
- Thông qua sự hợp tác, tìm tòi, nghiên cứu và thảo luận tập thể, ý kiến
của mỗi cá nhân sẽ có cơ hội bộc lộ và được điều chỉnh, khẳng định hay bác bỏ.

Qua các cuộc tranh luận sôi nổi, người học có thêm kinh nghiệm và nâng mình
lên. Đây là cơ hội để học sinh tự soi lại mình để vững tin hơn và không ngừng
phấn đấu học tập vì một tương lai tốt đẹp phía trước.
- Giáo viên tích cực làm đồ dùng dạy học, sưu tầm tranh ảnh để nâng cao
hứng thú học tập của học sinh, nâng cao chất lượng giờ học.
2. Kiến nghị:
Ban giám hiệu và tổ chuyên môn tăng cường dự giờ, thăm lớp một cách
thường xuyên để giáo viên và học sinh đều có sự chuẩn bị chu đáo, tích cực hơn
trong giờ học nhằm tác động đến ý thức tự học, tự tìm tòi kiến thức của học sinh.
Thạnh Lợi, ngày 10 tháng 03 năm
2012
Người viết

Nguyễn Thị Thanh Tuyền

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nguyễn Thị Thanh Tuyền

16


1. Tạp chí giáo dục số 245 ( kì 1 – 9/ 2010 )
2. Nghị quyết 40 của Quốc hội ngày 9/12/2000 về Đổi mới chương trình giáo
dục phổ thông.
3. Phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại.

4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7, 8, 9.

5. Luật Giáo dục năm 2005.


6. Các tài liệu khác.

Nguyễn Thị Thanh Tuyền

17



×