Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Quản lý đất ngập nước sau khi tham gia công ước ramsar

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.57 KB, 39 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA ĐỊA CHẤT
--------

TIỂU LUẬN
Đề tài: Quản lý đất ngập nước sau khi tham gia công ước
Ramsar
Nhóm 3
Lớp:

K54 QLTNTN

Hà Nội, 12 – 2010

1


MỞ ĐẦU
Việt Nam có 3260km bờ biển, 2360 con sông có chiều dài từ 10km trở lên và
26 phân lưu của các con sông lớn, lớn nhất là vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu
Long, hàng ngàn hồ chứa nước tự nhiên và nhân tạo, với hơn 4 triệu ha đất trồng
lúa…đã tạo nên các hệ sinh thái (HST) đất ngập nước phong phú và đa dạng trong cả
nước.
Đất ngập nước gồm nhiều loại hình, từ ao hồ, đầm lầy, sông ngòi, đồng lúa…
đến rừng ngập mặn (RNM) phát triển đất lầy mặt ven biển, rừng tràm phát triển trên
đất chua phèn, các đầm ao nuôi trồng thủy sản, các bãi cát, các rạn san hô đã tạo nên
các sinh cảnh đẹp, trù phú, đem lại nguồn lợi kinh tế cho đất nước.
Đất ngập nước Việt Nam có nhiều chức năng và có ý nghĩa quan trọng đối với
hoạt động kinh tế,xóa đói giảm nghèo, bảo tồn đa dạng sinh học, hạn chế ô nhiễm từ
đất liền, hạn chế các tai biến,…
Năm 1989, Việt Nam là quốc gia thứ 50 trên thế giới tham gia Công ước


Ramsar. Trong 15 năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc quản lý đất ngập
nước theo tinh thần của công ước Ramsar. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường,
UNESCO đã công nhận hồ Ba Bể, Bắc Kạn là Khu Ramsar - vùng đất ngập nước có
tầm quan trọng quốc tế thứ 3 của Việt Nam, cần được bảo vệ nghiêm ngặt, sau hai
khu Ramsar quốc gia đã được công nhận là Xuân Thủy, tỉnh Nam Định và Bàu Sấu ở
Đồng Nai. Hiện nay việc quản lý đất ngập nước vẫn còn là một bài toán khó và việc
tham gia Công ước Ramsar là một giải pháp hữu hiệu.

2


I. Tổng quan về đất ngập nước Việt Nam
1. Khái niệm và phân loại đất ngập nước
a. Định nghĩa
Theo định nghĩa về đất ngập nước ghi tại Điều 1 của Công ước Ramsar, được
sử dụng chính thức ở Việt Nam trong các hoạt động liên quan đến đến đất ngập nước:
“đất ngập nước là những vùng đầm lầy, than bùn hoặc vùng nước bất kể là tự nhiên
hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, có nước chảy hay là nước tù, là nước ngọt,
nước lợ hay nước biển, kể cả những vùng biển có độ sâu không quá 6m khi triều
thấp”.
b. Phân loại đất ngập nước
 Theo Công ước Ramsar
Công ước Ramsar (1971) đã phân đất ngập nước thành 22 kiểu mà không chia
thành các hệ và lớp. Năm 1994, phụ lục 2B của Công ước Ramsar đã chia 35 kiểu đất
ngập nước thành 3 nhóm là đất ngập nước ven biển và biển (11 kiểu), đất ngập nước
nội địa (16 kiểu), đất ngập nước nhân tạo (8 loại). phân loại đất ngập nước lại được
công ước Ramsar xem xét lại và chia thành 40 kiểu (1997) sau đó là 42 kiểu (1999).
Bảng phân loại đất ngập nước xây dựng dựa vào đặc điểm thủy văn, trầm tích đáy và
thảm thực vật, năm 1999 được nhiều nước sử dụng phục vụ cho công tác bảo tồn,
quản lý, nghiên cứu và hợp tác quốc tế về đất ngập nước.

 Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn










Hệ thống phân loại đất ngập nước được chia thành 4 bậc:
Bậc 1 gồm hai hệ thống được phân biệt dựa vào bản chất của nước:
Hệ thống đất ngập nước mặn.
Hệ thống đất ngập nước ngọt.
Bậc 2 gồm sáu hệ thống phụ được phân ra từ các hệ thống chính dựa vào các
yếu tố địa mạo:
Đất ngập nước mặn ven biển.
Đất ngập nước mặn cửa sông.
Đất ngập nước mặn đầm, phá.
Đất ngập nước ngọt thuộc sông.
Đất ngập nước ngọt thuộc hồ.
Đất ngập nước ngọt thuộc đầm.
Bậc 3 gồm 12 lớp được phân chia theo yếu tố thủy văn (ngập thường xuyên và
không thường xuyên):



Đất ngập nước mặn ven biển ngập thường xuyên.
3














Đất ngập nước mặn ven biển ngập không thường xuyên.
Đất ngập nước mặn cửa sông ngập thường xuyên.
Đất ngập nước mặn cửa sông ngập không thường xuyên.
Đất ngập nước mặn đầm phá ngập thường xuyên.
Đất ngập nước mặn đầm phá ngập không thường xuyên.
Đất ngập nước ngọt thuộc sông ngập thường xuyên.
Đất ngập nước ngọt thuộc sông ngập không thường xuyên.
Đất ngập nước ngọt thuộc hồ ngập không thường xuyên.
Đất ngập nước ngọt thuộc đầm ngập thường xuyên.
Đất ngập nước ngọt thuộc đầm ngập không thường xuyên.
Bậc 4 gồm 69 lớp phụ được phân chia theo yếu tố sử dụng đất. Trong đó:

Hệ thống đất ngập nước mặn có 42 lớp phụ.
• Hệ thống đất ngập nước ngọt có 27 lớp phụ.
2. Đất ngập nước ở Việt Nam
a. Các đặc điểm tự nhiên hình thành đất ngập nước Việt Nam
Đặc điểm địa mạo: 2/3 diện tích tự nhiên Việt Nam là đồi núi, có hướng

nghiêng chung từ Tây sang Đông. Đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ là những vùng
trũng, tạo nên hai vùng đất ngập nước tiêu biểu cho địa mạo vùng châu thổ sông
Hồng và sông Cửu Long.
Đặc điểm khí hậu: thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình
hàng năm khá cao (hơn 200C/năm), độ ẩm tương đối lớn (hơn 80%/năm), lượng mưa
dồi dào (1500 mm/năm). Sự khác nhau về chế độ khí hậu giữa các vùng, đặc biệt là
chế độ nhiệt - ẩm có ảnh hưởng đến chế độ thủy văn của từng vùng như thời gian
ngập nước, độ sâu ngập nước, chế độ nhiệt của nước, dẫn đến sự khác nhau giữa các
loại hình đất ngập nước.
Đặc điểm thủy văn: hệ thống dòng chảy với một mạng lưới tiêu nước ra biển
khá dày. Tổng số các con sông lớn nhỏ ở Việt Nam lên tới 2500, trong đó những con
sông dài trên 10km là 2360 sông. Các dòng sông chảy ra biển đã tạo thành hệ thống
cửa sông là một trong những loại hình đất ngập nước quan trọng của Việt Nam.
Thổ nhưỡng: có 15 nhóm đất, trong đó có 7 nhóm đất liên quan đến các đặc
trưng của các vùng đất ngập nước, đó là đất mặn, đất phèn, đất phù sa, đất giây, đất
than bùn, đất xám và đất cát. Do các đặc điểm khác nhau về địa mạo, khí hậu, thổ
nhưỡng đã hình thành các vùng đặc trưng về thực vật của các vùng đất ngập nước với
hai dạng điển hình là thực vật vùng đất ngập nước mặn và thực vật vùng đất ngập
nước ngọt.
b. Các hệ sinh thái đất ngập nước
Đất ngập nước Việt Nam gồm 2 nhóm: đất ngập nước nội địa và đất ngập
nước ven biển đất ngập nước nội địa có mặt ở cả ba miền và các vùng sinh thái, đa
4


dạng về kiểu loại, hình thái, tài nguyên, chức năng và giá trị cũng như khả năng khai
thác, sử dụng và bảo vệ. Các kiểu đất ngập nước nội địa gồm: châu thổ ngập nước
thường xuyên; lạch nước; sông suối chảy thường xuyên; tạm thời; hồ nước ngọt; than
bùn; đầm lầy; hồ nước mặn; đất ngập nước trên núi; đất ngập nước địa nhiệt; đầm
nuôi thủy sản; ao lớn hơn 8 ha; đầm lầy… đất ngập nước ven biển phân bố rộng khắp

bờ biển Việt Nam bao gồm đất ngập nước cửa sông, bãi triều, đất ngập nước đầm phá
và vùng nước biển có độ sâu nhỏ hơn 6m khi triều kiệt. Rừng ngập mặn và bãi sinh
lầy tập trung chủ yếu ở các vùng châu thổ, vùng cửa sông và vùng triều. Các đầm phá
cũng tập trung ở vùng bờ biển miền Trung.
Tuy nhiên trong khuôn khổ tiểu luận này chúng tôi chỉ đề cập đến 5 vùng đất
ngập nước quan trọng đó là: đất ngập nước vùng cửa sông đồng bằng sông Hồng
(ĐBSH); đất ngập nước các đầm phá ở miền Trung; đất ngập nước châu thổ sông
Cửu Long; đất ngập nước các hồ và một số kiểu khác.
• Đất ngập nước vùng cửa sông đồng bằng sông Hồng
Theo bản đồ đất ngập nước của vùng cửa sông ĐBSH tỉ lệ 1/100.000 diện tích
đất ngập nước ở vùng này là 229.762 ha (chiếm 76,01% diện tích tự nhiên). Trong
đó, diện tích đất ngập nước mặn là 125.389 ha, gồm 22.487 ha đất ngập nước ven
biển và 102.482 ha đất ngập nước mặn cửa sông, phân bố chủ yếu ở các sông Nam
Triệu, Cấm, Lạch Tray, Văn Úc, Thái Bình, Ba Lạt, Lạch Giang, cửa Đáy với loại
hình sử dụng đất chính là sản xuất nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản (NTTS);
diện tích đất ngập nước ngọt 103.373 ha, với loại hình sử dụng đất chính là canh tác
nông nghiệp.

5


Bảng 1: Đất ngập nước vùng Đồng bằng sông Hồng

Đất ngập nước vùng cửa sông Văn Úc
Mô tả

Diện tích bãi bồi ven biển Hải Phòng là 17.000 ha, diện tích có
rừng ngập mặn 11.000 ha, diện tích chưa có rừng ngập mặn
1.000 ha, đầm nuôi thủy sản nước lợ 5.000 ha.


Rừng ngập mặn

50 loài thuộc 28 họ.Chủ yếu là loài Bần chua (Sonneratia
caseolaris), ngoài ra có Trang (Kandelia candel), Sú (Aegiceras
corniculata), Ô rô biển (Acanthus ebracteatus), Mắm biển
(Avicennia marina), Giá, Cói (Cyperus malaccensis).

Các loài động,
thực vật

Có 185 loài thực vật phù du (Phytoplankton), 306 loài động vật
đáy, 90 loài cá, 5 loài bò sát và 37 loài chim, trong đó có các
loài chim nước thường gặp như: Vịt trời (Anas
poecilorhyncha), Chim lặn (Podiceps ruficolis), Sâm cầm
(Fulica atra), Cốc đế (Phalacrocorax carbo), Gà lôi nước
(Hydrophasianus chirurgus), Gà nước (Rallus).

Các loài chim di Các loài chim nước thường gặp như: Vịt trời (Anas

poecilorhyncha), Chim lặn (Podiceps ruficolis), Sâm cầm
(Fulicaatra), Cốc đế (Phalacrocorax carbo), Gà lôi nước
(Hydrophasianus chirurgus), Gà nước (Rallus).
Kinh
tế
phương

địa Người dân ở đây sống chủ yếu nhờ nuôi trồng thuỷ sản.

Đất ngập nước cửa sông Thái Bình - Trà Lý
Mô tả


Vùng cửa sông điển hình, bãi triều được hình thành do sự bồi
đắp phù sa hàng năm với tốc độ khá nhanh. Diện tích bãi triều là
11.409 ha, trong đó diện tích có khả năng trồng rừng ngập mặn
là 6.775 ha.

6


Rừng ngập mặn

Diện tích rừng ngập mặn 3.388 ha, với 52 loài thuộc 48 chi và
26 họ. Các loài chủ yếu là loài Bần chua (Sonneratia
caseolaris), Trang (Kandelia candel), Sú (Aegiceras
corniculata), Giá (Excoecaria agallocha), Mắm quăn (Avicennia
lanata).

Các loài động, 170 loài tảo, 108 loài động vật phù du, 37 loài động vật đáy, 152
thực vật
loài cá, trong đó bộ cá Vược (Perciformes), bộ cá Trích
(Clupeiformes) và bộ cá Bơn (Pleuronectiformes) có số loài
nhiều nhất.
Các loài
đặc hữu

chim Các loài Cò thìa (Platalea minor), Mòng bể mỏ ngắn (Larus
saudersi), Bồ nông (Pelicanus), Bồ nông chân xám (Pelicanus
philippensis),

quắm

đầu
đen
(Threskiorinis
melanocephalus).

Kinh
tế
phương

địa Cộng đồng dân cư địa phương sống chủ yếu nhờ chăn thả vịt,
nuôi thủy sản, đánh bắt cá và khai thác cát.

Đất ngập nước cửa sông Ba Lạt (Tiền Hải - Giao Thủy)
Mô tả

Diện tích rừng ngập mặn 6.008 ha và diện tích bãi bồi 25.934
ha (ảnh 1). Bãi triều được bồi đắp do phù sa hàng năm với tốc
độ tương đối nhanh (26-67m/năm).

Rừng ngập mặn

Thực vật ngập mặn có 95 loài, các loài phổ biến là Bần chua
(Sonneratia caseolaris), Trang (Kandelia candel), Mắm quăn
(Avicennia lanata), Cóc kèn (Derris trifoliata), Mắm biển
(Avicennia marina).

Các loài động, Có 180 loài tảo, 165 loài động vật phù du, 200 loài đông vật
thực vật
đáy, 56 loài cá thuộc 29 họ, 6 loài động vật có vú và 181 loài
chim nước trong đó nhiều nhất là các loài của bộ sẻ

(Passeriformes).
Các loài quý Trong đó có 3 loài quý hiếm: Rái cá (Lutra lutra), cá Heo
hiếm và đang bị (Delphinus) và cá Đầu ông sư (Neophocaena phocaenoides) và
nguy hiểm
có 9 loài được ghi vào sách đỏ quốc tế.

7


Ảnh 1: đất ngập nước bãi triều cửa sông Ba Lạt
Đất ngập nước đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
Đồng bằng sông Cửu Long thuộc lãnh thổ Việt Nam là phần cuối cùng của lưu
vực sông Mê Kông, có diện tích khoảng 3,9 triệu ha, chiếm khoảng 12% diện tích tự
nhiên cả nước, bao gồm 13 tỉnh và thành phố: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, An
Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long,
Bến Tre và thành phố Cần Thơ.
đất ngập nước của ĐBSCL là một trong những hệ sinh thái giàu có nhất của
lưu vực, là bãi đẻ quan trọng của nhiều loài thủy sản di cư từ phía thượng nguồn sông
Mêkong. Theo bản đồ đất ngập nước vùng đồng bằng sông Cửu Long, diện tích đất
ngập nước có 4.939.684 ha chiếm 95,88% diện tích tự nhiên, bao gồm đất ngập nước
nội địa và đất ngập nước ven biển ngập thủy triều dưới 6m.
Đất ngập nước mặn ven biển phân bố dọc biển Đông, phía Tây Nam bán đảo
Cà Mau và vịnh Thái Lan. Trong đó, đất ngập nước mặn ven biển – ngập thường
xuyên có diện tích 879.644 ha, phân bố ở vùng biển nông có độ sâu nhỏ hơn 6m khi
triều kiệt; đất ngập nước mặn ven biển – ngập không thường xuyên có diện tích
756.425 ha. Các kiểu đất ngập nước chính trong vùng này là đất ngập nước mặn
thường xuyên, không có thực vật; đất ngập nước mặn không thường xuyên, canh tác
nông nghiệp; đất ngập nước mặn không thường xuyên, nuôi trồng thủy sản. Các dải
rừng ngập mặn phân bố dọc ven biển, ở những vùng bãi bùn ngập mặn, có vai trò rất
quan trọng trong hệ sinh thái đất ngập nước ven biển. Trước đấy, rừng NN trải dài

suốt dọc bờ biển nhưng hiện nay diện tích rừng ngập mặn đã và đang bị suy thoái và
giảm đi nhiều về số lượng và chất lượng.
Đất ngập nước mặn cửa sông phân bố chủ yếu ở vùng cửa sông Cửu Long
thuộc địa bàn các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng, thuộc
8


các dạng đất ngập nước mặn không thường xuyên canh tác nông nghiệp và đất ngập
nước mặn không thường xuyên nuôi trồng thủy sản.
Đất ngập nước mặn đầm phá phân bố ở đầm Đông Hồ (Hà Tiên) và đầm Thị
Tường (Cà Mau) ở vùng ven biển vịnh Thái Lan.
Đất ngập nước ngọt thuộc sông bao phủ vùng đồng bằng ngập lũ rộng lớn ở
trung tâm của ĐBSCL đất ngập nước ngọt thuộc sông ngập thường xuyên là cá nhánh
chính của sông Tiền, sông Hậu, các sông khác và các dòng kênh, có diện tích 128.139
ha đất ngập nước ngọt thuộc sông ngập không thường xuyên có diện tích 1.771.381
ha, là các cánh đồng canh tác lúa nước, các vườn cây ăn trái và các diện tích canh tác
nông nghiệp khác.

Đất ngập nước ngọt thuộc hồ ở ĐBSCL phân bố ở vùng hồ rừng Tràm
(Melaleuca) U Minh Hạ (tỉnh Cà Mau), hồ rừng Tràm U Minh Thượng (tỉnh Kiên
Giang) và ở Vườn quốc gia (VQG) Tràm Chim (tỉnh ĐồngTháp). Trước đây, rừng
Tràm che phủ phần lớn vùng đất chua phèn ở ĐBSCL. Đây là nơi cư trú của rất
nhiều loài thủy sản nước ngọt và cung cấp gỗ, củi, cá, mật ong. Đặc điểm nổi bật là
tầng than bùn ở vùng rừng Tràm U Minh có vai trò rất quan trọng đối với hệ sinh
thái. Trong điều kiện bão hòa, than bùn sẽ ngăn chặn quá trình hình thành phèn
trong đ ấ t phèn tiềm tàng. Trong điều kiện khô như bị thoát nước, than bùn sẽ bị
oxy.
Đất ngập nước thuộc đầm ở ĐBSCL chủ yếu là đất ngập nước thuộc đầm
ngập không thường xuyên, sử dụng để canh tác nông nghiệp, phân bố ở vùng Đồng
Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên.

Các hệ sinh thái đất ngập nước chính ở ĐBSCL (bao gồm hệ sinh thái ngập
mặn ven biển; hệ sinh thái rừng Tràm và hệ sinh thái cửa sông) có ý nghĩa quan trọng
đối với khu vực. Tiêu biểu cho các hệ sinh thái này là một số VQG và khu bảo tồn
thiên nhiên được thành lập theo Quyết định của Thủ Tướng Chính phủ bao gồm:
Vườn quốc gia Mũi Cà Mau, vườn quốc gia Tràm Chim,vườn quốc gia U Minh
Thượng, Khu bảo tồn thiên nhiên Thạch Phú, Khu bảo tồn sinh cảnh Kiên Lương,
khu bảo tồn thiên nhiên Lục Ngọc Hoàng, khu bảo tồn sân chim Bạc Liêu, khu bảo
tồn thiên nhiên Vô Dơi.
Các đầm phá của Việt Nam tập trung chủ yếu ở dải ven biển miền Trung từ
Thừa Thiên Huế đến Ninh Thuận. Tổng diện tích của các đầm phá này khoảng 447,7
km2. Trong đó, lớn nhất là hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai dài trên 67 km, diện tích
9


khoảng 216 km2; nhỏ nhất là đầm Nước Mặn ở Quảng Ngãi khoảng 2,8 km 2. Hiện
nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau các đầm phá đang được quản lý và khai thác
không hợp lý nên nhiều đầm đang bị suy thoái. Trong các đầm phá có 4 nhóm đất
ngập nước gồm: đất ngập nước không phủ thực vật, đất ngập nước có phủ thực vật,
đất ngập nước đạt tới độ sâu 6m và đất ngập nước do con người tạo ra và đang được
sử dụng. Tùy thuộc vào nguồn gốc hình thành, điều kiện tự nhiên và hoạt động tương
tác giữa các quá trình theo qui luật tự nhiên và nhân sinh mà mỗi loại hình đất ngập
nước ở các đầm phá là khác nhau.

Tài nguyên sinh vật: các đầm phá có thành phần và cấu trúc các quần xã
động vật phong phú gồm các loài ưa nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Các loài này
phát triển ưu thế theo mùa. Tiềm năng nguồn lợi sinh vật đầm phá chủ yếu từ các
nhóm cá, giáp xác, thân mềm, rong và cỏ biển.
Hệ thống các đầm phá ở miền Trung bào gồm:
1. Tam Giang - Cầu Hai
2. Lăng Cô

3. Trường Giang
4. An Khê
5. Nước Mặn
6. Trà Ổ
7. Nước Ngọt
8. Thị Nại
9. Cù Mông
10. Ô Loan
11. Thuỷ Triều
Tài nguyên phi sinh vật: Loại tài nguyên này không lớn nhưng đa dạng với
các loại khoáng sản như sa khoáng (zircon, ilmenit), cát xây dựng. Ở nhiều đầm phá
có cát màu trắng được khai thác và sử dụng làm nguyên liệu thủy tinh như điểm cát
trắng Phú Xuân (phá Tam Giang - Cầu Hai) có trữ lượng khoảng 8 triệu m3.
10


Đến nay, xét về mặt ĐDSH và các chức năng sinh thái 5 đầm phá ven biển
có thể được coi là các vùng đất ngập nước quan trọng của Việt Nam. Đó là đầm Ô
Loan (Phú Yên), Đầm Thị Nại và Đề Gi (Bình Định), Cầu Hai (Thừa Thiên Huế) và
Đầm Nại (Ninh Thuận).
c. Một số kiểu đất ngập nướ c khác ở ven biển Việt Nam
Rừng ngập mặn: theo kết quả thống kê của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt
Nam năm 2001 cho thấy, Việt Nam có khoảng 155.290 ha rừng ngập mặn, trong đó
diện tích rừng ngập mặn, trong đó có diện tích rừng ngập mặn tự nhiên là 32.402 ha,
rừng ngập mặn trồng là 122.892 ha, phân bố như sau: vùng Đông Bắc có 22.969 ha,,
đồng bằng Bắc Bộ 20.842 ha, Bắc Trung Bộ và thành phố Hồ Chí Minh 20.092 ha và
nhiều nhất là ĐBSCL 82.387 ha. Rừng ngập mặn có vai trò quan trọng trong bảo vệ
bờ biền, chắn sóng, chắn bão; ổn định khí hậu khu vực; là nơi tham quan du lịch;
cung cấp nguồn dược liệu và thức ăn gia súc…
Rừng ngập mặn có các chức năng và giá trị rất quan trọng như: cung cấp các

sản phẩm gỗ, củi, thủy sản và nhiều sản phẩm khác; là bãi đẻ, bãi ăn và ương các loài
cá, tôm, cua và các loài thủy sản có giá trị kinh tế khác; xâm chiếm và cố định các
bãi bùn ngập triều mới bồi, bảo vệ bờ biển chống lại tác động của sóng, bão và sóng
thần; là nơi cư trú cho rất nhiều loài động vật hoang dã (chim, thú, lưỡng cư, bò sát),
gồm các loài địa phương và các loài di cư.
Tuy nhiên, diện tích rừng ngập mặn đã và đang bị suy giảm nghiêm trọng do
các hoạt động chuyển đổi diện tích rừng sang sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, quai đê lấn biển; do xói lở bờ biển. Trong hai thập kỷ qua, có hơn 200.000 ha
rừng ngập mặn bị phá để nuôi tôm.
Mất rừng ngập mặn có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng: mất nguồn
ĐDSH phong phú của hệ sinh thái, mất nơi cư trú, sinh đẻ của nhiều loài, gây phèn
hóa, ô nhiễm môi trường, gây xói lở vùng bờ biển và cửa sông. Ví dụ ở Tây Nam Cà
Mau, sau một năm khoanh đầm nuôi tôm làm giảm khoảng 20 loài động vật đáy, các
loài chim ở sân chim Bạc Liêu, Đầm Dơi di cư đi nơi khác. Ở Tiền Hải (Thái Bình),
phá 2.500 ha rừng ngập mặn làm đầm nuôi tôm, gây thiệt hại lớn cho môi trường
(hàm lượng H2S, COD vượt quá tiêu chuẩn cho phép gây nhiễm mặn diện tích lớn,
xói lở các vùng xung quanh và làm mất nơi cư trú của chim di cư); đời sống của
người dân ở đây suy giảm, nhiều dân chài nghèo không có công ăn việc làm.

11


Rạn san hô: là một trong các hệ sinh thái đặc sắc của biển Việt Nam, nơi có
ĐDSH rất cao, năng xuất sơ cấp lớn, cảnh quan kỳ thú. Các rạn san hô ở Việt Nam
phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam trên diện tích khoảng 1.122 km2, tập trung nhiều
ở vùng biển Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. San
hô Việt Nam rất đa dạng và phong phú với khoảng 350 loài tạo rạn kèm theo khoảng
3.000 loài sinh vật khác có đời sống liên quan và sống gắn bó với vùng rạn san hô.
Trong đó, có khoảng 2.000 loài sinh vật đáy, cá (500 loài) và nhiều loài có giá trị
kinh tế cao như tôm hùm, bào ngư, trai ngọc, hải sâm,... sống gắn bó trực tiếp với san

hô. Ở vịnh Hạ Long, phát hiện được 205 loài san hô cứng, 27 loài san hô sừng, san hô
mềm và san hô bò. Ở đảo Côn Đảo, có 219 loài san hô, thuộc 17 họ, tập trung
thành khu vực lớn kèm theo là 160 loài cá san hô.
Hệ sinh thái san hô có cấu trúc phức tạp, rất nhạy cảm với sự đe doạ của môi
trường, đặc biệt là những đe doạ từ con người như đánh bắt cá bằng thuốc nổ, hóa
chất độc; khai thác san hô bừa bãi, hoạt động du lịch và các hoạt động phát triển kinh
tế - xã hội khác. Trong những năm trở lại đây, khoảng 15-20% diện tích các rạn
san hô bị mất, tập trung chủ yếu ở các vùng có dân cư sinh sống như vịnh Hạ Long Cát Bà, các tỉnh ven biển miền Trung từ Đà Nẵng đến Bình Thuận và một số đảo có
người sinh sống thuộc quần đảo Trường Sa.
Độ phủ san hô sống trên rạn đang bị giảm dần theo thời gian, nhiều nơi độ
phủ giảm trên 30%. Điều này cho thấy rạn san hô đang bị phá hủy và có nhiều
chiều hướng suy thoái mạnh. Sự biến đổi diện tích và những tổn thương của rạn san
hô gây nhiều thiệt hại: giảm ĐDSH, sinh thái và chất lượng môi trường biển; mất
nguồn lợi sống của cộng đồng vùng ven biển và thiệt hại cho ngành thủy sản, du
lịch.

12


Bảng2: Sự suy giảm độ che phủ san hô ở một số vùng ven biển Việt Nam

STT

Vùng nghiên cứu

Độ phủ san hô bị suy giảm(%)

Thời gian

1


Hạ Long-Cát Bà

-7.1

1993-1998

2
3
4
5

Cù Lao Chàm
Vịnh Nha Trang
Côn Đảo
Phú Quốc

-1.9
-21.2
-32.3
-3.3

1994-2002
1994-2002
1994-2004
1994-2004

Nguồn: Viện Hải Dương học Nha Trang, 2003

Ảnh 2: Cỏ vích Th.hemprichii mọc cùng san hô quanh đảo Trường Sa (Nguyễn Huy Yết, 1996)


Ảnh 3: San hô bị khai thác làm đồ lưu niệm ở Nha Trang - Khánh Hòa (Mai Trọng Nhuận, 2003)

13


Thảm cỏ biển: là hệ sinh thái có giá trị cao là nơi cư trú, bãi đẻ, bãi ương
giống của nhiều loài sinh vật khác như tảo bì sinh, động vật đáy, cá biển, thú biển; là
môi trường sinh sản thuận lợi; là nguồn thức ăn quan trọng của nhiều loài sinh vật
(cá tôm, đồi mồi, vích, bò biển); là nguồn nguyên liệu để sản xuất giấy, phân bón
hóa học, thức ăn gia súc đồng thời là nơi để thăm quan du lịch và có tác dụng tích tụ
trầm tích, chắn sóng, hạn chế xói lở bờ biển,... Ở Việt Nam, đã xác định được 15 loài
cỏ biển (Seagrass) /16 loài cỏ biển ở vùng Đông Nam Á. Các thảm cỏ phân bố ở
các trong vùng triều ven biển, ven đảo, vùng cửa sông, rừng ngập mặn, vịnh, đầm
nước lợ ở độ sâu từ 0-20 m, trong dải độ muối rộng từ 5-32%. Ở đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai, diện tích bãi cỏ biển khoảng 1000 ha, với 5 loài cỏ biển có tổng trữ
lượng các loài khoảng 95.500 tấn tươi.
Tuy nhiên, hệ sinh thái cỏ biển cũng là một trong những hệ sinh thái nhạy
cảm và rất dễ bị tổn thương khi môi trường thay đổi. Hiện nay, thảm cỏ biển ở nước
ta đã bị suy thoái nghiêm trọng do ô nhiễm môi trường, đánh bắt thủy sản bằng
thuốc nổ, các hoạt động khai thác các vùng đất bồi có cỏ biển vào mục đích nông
nghiệp, nuôi trồng thủy sản làm cho diện tích bãi cỏ biển bị thu hẹp, gây mất nơi
cư trú của các nguồn lợi hải sản có giá trị và hạn chế sự phát triển của cỏ biển. Sự
suy giảm và mất các thảm cỏ biển của nước ta đang có nguy cơ gia tăng, ảnh hưởng
nghiêm trọng tới môi trường sinh thái biển: suy giảm chất lượng môi trường nước
và trầm tích, mất cân bằng dinh dưỡng, sinh thái và ĐDSH, giảm trữ lượng cá và
nguồn trứng cá và cá con trong hệ sinh thái này, giảm nguồn cung cấp nguyên liệu
cho công nghiệp và nông nghiệp, mất diện tích sa bồi các vùng cửa sông gây ảnh
hưởng tới quá trình bồi tụ và mở rộng quỹ đất...


Ảnh 4: Các bãi cỏ biển C.rotundatata ở đảo Phú Quý (Nguyễn Hữu Đài, 1999)

14


d. Đất ngập nước thuộc hồ (hồ chứa, hồ tự nhiên)
Theo Công ước Ramsar, hồ là những vùng ngập nước ngọt thường xuyên hoặc
ngập theo mùa, có diện tích từ 8 ha trở lên, có bờ, bị ngập theo mùa hoặc không có
quy luật và những hồ ở vùng đồng bằng ngập lũ.
Các hồ tự nhiên tiêu biểu ở Việt Nam là: Hồ Ba Bể (Bắc Kạn), Hồ Chử (Phú
Thọ),Hồ Tây (Hà Nội), Biển Hồ (Gia Lai), Hồ Lăk (Đăk Lăk), Hồ Đơn Dương, Đan
(Đà Lạt), Hồ Biển Lạc (Bình Thuận).
Các hồ nhân tạo thường là nơi lưu trữ nước phục vụ cho thủy lợi, thủy điện,
nông nghiệp, cung cấp nước sinh hoạt, nuôi trồng thủy sản, du lịch... Hiện nay, cả
nước có khoảng 3.600 hồ chứa nước ngọt nhân tạo do nhiều ngành tham gia xây
dựng. Trong đó, có 539 hồ có thể phát triển thủy sản, với 6 hồ có diện tích trên
10.000 ha, 14 hồ có diện tích từ 1.000-10.000 ha. Hồ nhân tạo có diện tích lớn nhất là
hồ Dầu Tiếng (7.200 ha); hồ có công suất lắp máy lớn nhất là hồ Hoà Bình (19.200
MW), tiếp đến là hồ Trị An (420 MW), hồ Đa Nhim (160 MW), hồ Thác Bà (108
MW).
e. Sông suối
Việt Nam có lượng mưa lớn, cùng với đặc điểm địa hình (75% lãnh thổ là đồi
núi) đã hình thành một hệ thống sông, suối dày đặc. Đặc trưng cho loại hình thủy vực
này là quần xã thực vật nổi khá phong phú, nhưng có số lượng thấp. Sông, suối là nơi
cư trú rất quan trọng của các quần thể cá: các sông miền Bắc có 243 loài, sông miền
Trung có 134 loài, sông miền Nam có 255 loài.
Thảm thực vật ở suối chủ yếu là tảo (Algae), là nguồn thức ăn quan trọng cho
cá và động vật không xương sống. Tuy nhiên, các hoạt động xây đập, kè, khai thác
khoáng sản (cát, sỏi,...), giao thông thủy, xả thải,... đã và đang làm suy thoái môi
trường và tài nguyên của hệ sinh thái này.


c. Chức năng và giá trị của đất ngập nước Việt Nam
đất ngập nước là nguồn sống của một bộ phận khá lớn người dân Việt Nam,
mang lại lợi ích và giá trị to lớn về kinh tế - xã hội – văn hóa – môi trường, đóng góp
rất quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Cụ thể:
 Chức năng của đất ngập nước Việt Nam:
15




Chức năng nạp, tiết nước ngầm: vào mùa mưa, khi dư lượng nước mặt lớn, các
vùng đất ngập nước có tác dụng như một bể chứa nước để sau đó nước ngấm dần vào
lòng đất trong mùa khô. Quá trình này diễn ra liên tục nhằm bổ sung lượng nước cho
các tầng nước ngầm. Mặt khác, quá trình nạp và tiết nước liên tục giữa vùng đất ngập
nước với các tầng nước ngầm cũng góp phần thấm lọc, làm cho các tầng nước ngầm
trở nên sạch hơn.



Chức năng tích lũy chất dinh dưỡng: giữ lại các chất dinh dưỡng (nito,
photpho, các nguyên tố vi lượng…) cho vi sinh vật, phát triển nguồn lợi thủy sản và
lâm nghiệp, hạn chế bớt hiện tượng phú dưỡng như ở các vùng đất ngập nước đồng
bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và các thủy vực khác.



Chức năng điều hòa vi khí hậu: đặc biệt, ở vùng có cỏ biển, rừng ngập mặn,
rạn san hô, góp phần cân bằng O2 và CO2 trong khí quyển, điều hòa khí hậu địa
phương (nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa) và giảm hiệu ứng nhà kính.




Chức năng sản xuất sinh khối: là nơi sản xuất sinh khối, tạo nguồn thức ăn cho
các loại thủy sản, gia súc, động vật hoang dã hoặc vật nuôi. Ngoài ra, một phần các
chất dinh dưỡng này có từ các động thực vật đã chết sẽ được các dòng chảy bề mặt
chuyển đến các vùng hạ lưu và các vùng ven biển, làm giàu nguồn thức ăn cho các
vùng đó.



Chức năng duy trì đa dạng sinh học: nhiều vùng đất ngập nước, đặc biệt là các
vùng đất ngập nước có rừng ngập mặn, san hô, cỏ biển, là môi trường thích hợp cho
việc cư trú, đẻ trứng, sinh sống và phát triển của nhiều loại động, thực vật hoang dã
đất ngập nước là nơi duy trì nhiều nguồn gen, trong đó có nhiều loài quý hiếm, có giá
trị không chỉ ở Việt Nam.



Chức năng chắn sóng, chắn gió bão, ổn định bờ biển, chống xói lở, hạn chế
sóng thần: có thể nói rằng không có công trình nào bảo vệ bờ biển, chống xói lở tốt
như đai rừng ngập mặn. Nhờ có thảm thực vật, đặc biệt thảm thực vật rừng ngập mặn,
thảm cỏ biển, rạn san hô mà các vùng đất ngập nước ven biển có chức năng bảo vệ bờ
biển khỏi bị tác động của sóng, thủy triều, xói lở, sóng thần. Mặt khác, chúng còn tạo
ra môi trường thuận lợi cho việc lắng đọng phù sa, góp phần ổn định và mở rộng bãi
bồi. Các rạn san hô ngầm rộng lớn đã giảm cường độ sóng tác động đến bờ biển, các
vùng ven đảo trong thời kỳ dông bão, sóng thần. Nhiều năm gần đây, diện tích các hệ
sinh thái đất ngập nước tự nhiên bị suy giảm nghiêm trọng do các hoạt động khai
hoang để sử dụng nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, khai thác thủy – hải sản. Do đó,
đường bờ liên tục bị biến động, chiều dài bở biển bị xói lở tăng.

16




Các chức năng khác: Ngoài các chức năng nói trên, đất ngập nước còn đóng
vai trò quan trọng tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế của nhiều
ngành khác nhau: nông nghiệp, thủy sản, lâm nghiệp, giao thông thủy, dịch vụ du
lịch, khai thác khoáng sản,…Đặc biệt, đất ngập nước là nơi sinh sống của 80% dân số
Việt Nam.

 Giá trị của đất ngập nước Việt Nam


Giá trị trong sinh hoạt: đất ngập nước là những dòng sông, suối, các hồ chứa
nước và các thủy vực nước ngọt chính là nguồn cung cấp nước cho nhu cầu sinh hoạt
của con người. Tuy nhiên, tài nguyên nước hiện đang là vấn đề cần được quan tâm để
quản lý tốt trên phạm vi toàn cầu nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Mặc dù chưa có
công trình nghiên cứu nào ở Việt Nam tính giá trị kinh tế của đất ngập nước trong
chức năng cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt của người dân, nhưng nước đối với cuộc
sống của con người chính là sự tồn tại và phát triển, sẽ trở nên vô cùng quý giá, có
thể không tính được thành tiền.



Giá trị kinh tế của đất ngập nước : góp phần quan trọng cho sự phát triển của
các ngành nông nghiệp, thủy sản, lâm nghiệp, năng lượng, giao thông thủy. Các dòng
chảy thường xuyên tạo các vùng châu thổ rộng lớn phì nhiêu (là vùng sản xuất nông
nghiệp trù phú), có khu hệ cá phong phú với sản lượng cao, là nguồn lợi cung cấp cho
nhiều cộng đồng dân cư sống xung quanh. Cụ thế:


-

Đất ngập nước là những vùng sản xuất nông nghiệp quan trọng: Việt
Nam là một quốc gia có nền nông nghiệp lúa nước lâu đời. Nông dân Việt Nam đã
sống trên các vùng đất ngập nước để trồng lúa và canh tác nông nghiệp. Các vùng đất
ngập nước như ĐB sông Hồng và ĐB sông Cửu Long là những vựa lúa của cả nước,
góp phần rất quan trọng đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Phần lớn lúa, gạo,
lương thực, thực phẩm, cá, tôm đều được sản xuất ở những vùng đất ngập nước.

-

Đất ngập nước là vùng sản xuất thủy sản: Theo Bộ thủy sản, nước ta có
khoảng 1 triệu ha mặt nước ngọt và 1.470.000 ha mặt nước sông, ngòi, đó là những
địa bàn phát triển nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra,còn có khoảng 1 triệu ha mặt nước
nội thủy và lãnh hải. Đó là những vùng đất ngập nước, bao gồm cả đất ngập nước
mặn và đất ngập nước ngọt sản xuất thủy sản cung cấp cho nhu cầu của xã hội và
xuất khẩu, góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu thủy
sản hàng đầu trên thế giới. Mặt khác, các khu rừng ngập nước là những nơi cung cấp
giống, bãi đẻ, thức ăn cho các loài thủy sản.
17


Ảnh 5: Khai thác ngao tự nhiên tại bãi triều Hải Hà, Quảng Ninh (Trần Đăng Quy, 2004)

Ảnh 6: Khai thác rong biển ở Cửa Hội, Xuân Thành, Nghi Xuân, Hà Tĩnh (Trần Đăng Quy, 2004)





-

Giá trị văn hóa của đất ngập nước : đất ngập nước có những giá trị văn hóa,
lịch sử, tín ngưỡng và khảo cổ quan trọng đối với cộng đồng địa phương cũng như
quốc gia đất ngập nước Việt Nam là cội nguồn của nền văn minh lúa nước đất ngập
nước và các tài nguyên của nó là nguồn cảm hứng sáng tạo của nhiều nhà văn, nhà
thơ, họa sĩ, nhạc sĩ ở Việt Nam. Có rất nhiều biểu tượng nổi tiếng mang ý nghĩa quốc
gia có liên quan đến đất ngập nước như: Hoa Sen được chạm khắc trong các đền
chùa, trong các điệu múa, bài ca dao, là biểu tượng của Hàng không Việt Nam; Chim
Hạc (Sếu) và Rồng là hai trong bốn loài sinh vật quý có ý nghĩa, có đời sống liên
quan đến đất ngập nước, còn là vật thờ thiêng liêng. Rối nước ở Việt Nam là loại hình
nghệ thuật độc đáo, duy nhất.
Giá trị về đa dạng sinh học:
Đất ngập nước ven biển với chiều dài bờ biển hơn 3.000 km là nơi phân
bố của rất nhiều sân chim với các loài chim di cư. Rừng ngập mặn, các thảm cỏ biển
và các rạn san hô của Việt Nam gần những khu có giá trị đa dạng sinh học cao nhất ở
vùng biển Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương và giao lưu với nhiều vùng biển quan trọng
18


xung quanh biển Đông. Rạn san hô là sinh cảnh có tính đa dạng sinh học cao nhất, đã
có hơn 300 loài san hô cứng được tìm thấy ở vùng biển Việt Nam. Các hệ sinh thái
rừng ngập mặn, cỏ biển và rạn san hô là nơi cư trú của nhiều loài sinh vật.
-

Đất ngập nước vùng cửa sông là nơi có sự đa dạng về các loài chim
định cư và chim di cư, nơi phân bố của rừng ngập mặn, đầm lầy nước mặn, cỏ biển
và tảo.

-


Đất ngập nước vùng đầm phá là nơi cư trú của nhiều loài cá, nơi dừng
chân của nhiều loài chim di cư. Các vùng đầm phá ven biển miền Trung còn mang
những nét độc đáo về sinh cảnh tự nhiên và chứa đựng giá trị đa dạng sinh học rất lớn
của khu hệ sinh vật thủy sinh.

-

Các vùng đất ngập nước nội địa như Đồng Tháp Mười, U Minh và hệ
thống các sông, suối, hồ là những nơi chứa đựng nhiều loài động, thực vật đặc hữu
hoặc những loài có tầm quan trọng về đa dạng sinh học toàn cầu.

Ảnh 7: Khai thác rong biển ở Cửa Hội, Xuân Thành, Nghi Xuân, Hà Tĩnh



Giá trị về phát triển du lịch: Có thể nói Việt Nam là một đất nước có cảnh quan
tự nhiên đẹp, trong đó hầu hết các vùng đất ngập nước là những nơi có cảnh quan tự
nhiên đẹp nhất. Có những vùng đất ngập nước đã nổi tiếng cả trong nước và trên thế
giới, là điểm đến của các du khách trong nước và quốc tế, như vịnh Hạ Long, Cát Bà,
Phú Quốc, đồng bằng sông Cửu Long. Ở những vùng đất ngập nước này, thiên nhiên,
con người và văn hóa bản địa là những tài nguyên du lịch rất hấp dẫn đối với du
khách. Ngành du lịch Việt Nam đã coi các vùng đất ngập nước này là những trọng
điểm để phát triển du lịch nhằm mang lại lợi ích kinh tế và xã hội vô cùng to lớn cho
đất nước.

19


Ảnh 8: Khu du lịch ven biển Cù Lao Câu, Bình Thuận


II. Xu thế biến động đất ngập nước Việt Nam:
1. Biến động về diện tích:

Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường (năm 2004), tổng diện tích đất ngập
nước Việt Nam là khoảng hơn 10 triệu ha. Trong nhiều năm qua, diện tích đất ngập
nước tự nhiên giảm đi, diện tích đất ngập nước nhân tạo tăng lên:


Các khu rừng ngập mặn tự nhiên ven biển đã mất dần, thay vào đó là các đầm
nuôi thủy sản, các công trình du lịch và một số ít diện tích rừng trồng. Diện tích rừng
ngập mặn đã giảm đi 183.724 ha trong 20 năm qua (từ năm 1985). Trong khi diện
tích nuôi trồng thủy sản đã tăng lên 1,1 triệu ha vào năm 2003.



Các khu rừng Tràm tự nhiên và các trảng cỏ ngập nước theo mùa ở Đồng Tháp
Mười cũng đã mất dần, thay vào đó là diện tích khoai lang trồng lúa và các khu rừng
trồng tràm.



Diện tích đất ngập nước mặn ven biển năm 1982 là 494.000 ha, đến năm 2000
là 606.972 ha, do mở rộng diện tích nuôi tôm.

• Diện tích khu vực cửa Bạch Đằng giảm từ 64.169 ha (năm 1934) xuống 30.729 ha

(năm 1997); đất ngập nước triều tự nhiên cửa sông ven biển vùng đồng bằng Cửu
Long là 1.473.889 ha (năm 1995) xuống 1.409.289 (năm 1999).



Năm 1976, diện tích gieo trồng lúa ở ĐB sông Cửu Long là 2.062.000 ha, đến
năm 2004 tăng lên 3.815.000 ha.



Theo số liệu của Viện khoa học Thủy lợi miền Nam, hiện nay diện tích bị ảnh
hưởng của xâm nhập mặn ở ĐB sông Cửu Long chiếm trên 50% diện tích toàn vùng

20


(khoảng trên 2 triệu ha). Một trong những nguyên nhân của hiện tượng này là do mất
hệ thống rừng ngập mặn phòng hộ ven biển.


Diện tích đất than bùn vùng U Minh năm 1990 khoảng 90.000 ha, đến năm
2005 còn khoảng 12.000 ha.
Báo cáo quy hoạch xây dựng vùng ĐB sông Cửu Long đến năm 2020 của Bộ
xây dựng, năm 1996 dân số đô thị ở ĐBSCL gần 2,7 triệu người, tỷ lệ đô thị hóa là
16,2%. Năm 2003, dân số đô thị là 3,26 triệu người, tỷ lệ đô thị hóa tăng lên 19,6%.
Theo quy hoạch đến năm 2020 tỷ lệ đô thị hóa ở ĐBSCL sẽ là 40%. Điều này sẽ dẫn
đến diện tích đất đô thị tăng lên và diện tích đất ngập nước giảm đi.

2. Biến động về chất lượng môi trường

Môi trường Việt Nam nói chung và đất ngập nước nói riêng đang theo xu
hướng xấu do một số nguyên nhân chính sau:
• Ô nhiễm do chất thải công nghiệp: các chất ô nhiễm công nghiệp, từ tàu thuyền, các


xí nghiệp sản xuất và chế biến đã và đang gây ra những tác động nghiêm trọng đến
chất lượng các vùng đất ngập nước (sông, hồ và kênh rạch chứa nước). Các khu công
nghiệp và khu chế xuất thuộc vùng kinh tế phía Nam, mỗi ngày thải hơn 137.000 m 3
chất thải (trong đó có 90 tấn chất thải rắn) vào sông Đồng Nai, Thị Vải và sông Sài
Gòn.


Ô nhiễm dầu: nghiêm trọng nhất là ở các cửa sông, cản biển. Trong 5 năm
(1995-2000), đã có 30 tai nạn dầu tràn xảy ra, làm tràn khoảng 92.000 tấn dầu ra
biển, gây thiệt hại lớn cho môi trường biển và ven biển.



Ô nhiễm do sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật trong nông nghiệp: vùng đồng
bằng châu thổ sông Hồng có mức độ sử dụng hợp chât bảo vệ thực vật rất lớn, riêng ở
Thái Bình, trong giai đoạn 1990 - 1995, đã sử dụng 152-268 tấn/năm. Hàm lượng các
hợp chất thuốc trừ sâu ở vùng cửa sông Hồng vào mùa mưa đều vượt quá giới hạn
cho phép nuôi trồng thủy sản khoảng 23-28 lần (lúc triều thấp). Hàm lượng DDT,
Linda trong đáy bùn của lưu vực sông Sài Gòn - Đồng Nai cao, đạt 6-32 mg/kg.



Ô nhiễm chất hữu cơ: xu hướng tăng cao hàm lượng các chất hữu cơ kèm theo
các chất dinh dưỡng, hóa chất độc sẽ gây hiện tượng tảo nở hoa, tảo độc đe dọa lớn
cho tài nguyên sinh vật vùng đất ngập nước. Năm 2002, tảo độc (hiện tượng thủy
triều đỏ) xuất hiện ở Bình Thuận, Nha Trang làm cá chết gây thiệt hại lớn. Năm
2005, tảo độc lại xuất hiện ở vùng biển Bình Thuận, ảnh hưởng xấu tới môi trường và
21



hoạt động du lịch. Sông Sài Gòn bị ô nhiễm nặng bởi các chất hữu cơ (hàm lượng
BOD tại cảng Nhà Rồng 30mg/l, vượt hơn 7 lần cho phép của môi trường).


Sử dụng các hóa chất độc trong khai thác tài nguyên đất ngập nước : việc sử
dụng thuốc nổ, độc tố xyanua để đánh bắt cá gây ô nhiễm môi trường đáy, phá hủy
cấu trúc và sinh thái rạn san hô (Cô Tô, Bạch Long Vĩ, Côn Đảo), hủy diệt quần xã
sinh vật và để lại nhiều tác động lâu dài cho môi trường.
III. Quản lý đất ngập nước Việt Nam

1. Hiện trạng quản lý đất ngập nước Việt Nam

Hiện nay việc quản lý đất ngập nước ở Việt Nam được tổ chức trên nguyên tắc
“song trùng trực thuộc” (trực thuộc các cơ quan chuyên ngành trung ương và Ủy ban
Nhân dân tỉnh).
Ở cấp trung ương, tính cho đến năm 2003 nước ta vẫn chưa có một cơ quan
nào chịu trách nhiệm duy nhất về quản lý đất ngập nước ở cấp trung ương. Mỗi bộ,
ngành tùy theo chức năng được Chính phủ phân công thực hiện việc quản lý theo lĩnh
vực từng ngành bao gồm các đối tượng đất ngập nước
• Bộ Nông nghiệp và Phát Triển nông thôn chịu trách nhiệm quản lý các vùng đất ngập

nước thuộc đất canh tác lúa nước, các VQQG, khu bảo tồn đất ngập nước thuộc hệ
thống rừng đặc dụng, các công trình thủy lợi, các hồ chứa.
• Bộ Thủy sản chịu trách nhiệm về đất ngập nước trong phạm vi diện tích mặt nước
nuôi trồng thủy sản và vùng ven bờ biển.
• Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm về quản lý lưu vực sông và là cơ quan
đầu mối quốc gia điều phối các hoạt động liên quan đến công ước Ramsar.
Ngoài những Bộ trên thì việc quản lý đất ngập nước còn có các ngành khác
liên quan như giao thông thủy, du lịch, thủy điện,…
Đến năm 2003, Nghị định của Thủ tướng Chính phủ số 109/2003/NĐ-CP ngày

23 tháng 9 năm 2003 đã phân công nhiệm vụ cho các Bộ, ngành và địa phương trong
bảo tồn và phát triển bền vững đất ngập nước.
Bộ Tài nguyên và Môt trường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo
tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước. Lập kế hoạch tổng thể về điều tra
cơ bản, nghiên cứu, đánh giá hiện trạng môi trường các vùng đất ngập nước trên
phạm vi cả nước; chủ trì việc điều tra, nghiên cứu, lập quy hoạch cho bào tồn và phát
22


triển bền vữngvà trình Thủ tướng Chính phủ thành lập các khu bảo tồn đất ngập nước
có tầm quan trọng quốc tế, quốc gia liên quan đến nhiều ngành và nằm trên địa bàn
nhiều tỉnh. Xây dựng, trình bày hoặc ban hành theo thẩm quyền các chính sách, văn
bản quy phạm pháp luật về bảo tồn đất ngập nước ; thanh tra, kiểm tra việc thực hiện
chính sách pháp luật về bảo tồn đất ngập nước và là cơ quan đầu mối quốc gia chỉ
đạo thực hiện công ước Ramsar.
Bộ nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Thủy sản có nhiệm vụ tổ chức
điều tra, nghiên cứu, lập quy hoạch bảo tồn và khai thác bền vững các vùng đất ngập
nước có tính chất chuyên ngành, có tầm quan trọng quốc tế, quốc gia và nằm trên địa
bàn nhiều tỉnh. Chỉ đạo và tổ chức quản lý các khu bảo tồn đất ngập nước chuyên
ngành có tầm quan trọng quốc gia, quốc tế.
Ở cấp tỉnh thì việc quản lý đất ngập nước cũng tương tự như cấp trung ương
nghĩa là mỗi sở, ngành sẽ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vuecj của mình
trong đó có vấn đề liên quan đất ngập nước theo quy định của pháp luật và sự phân
công của Ủy ban Nhân dân tỉnh. Cụ thể Nghị định 1009/2003/NĐ-CP đã quy định:
• ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức quản lý
các khu bảo tồn đất ngập nước không thuộc trách nhiệm quản lý của các Bộ và thuộc
địa bàn của tỉnh, thành phố mình
• Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ trù
điều tra, nghiên cứu, lập quy hoạch bảo tồn và khai thác bền vững các vùng đất ngập
nước có tầm quan trọng thuộc địa phương mình.

Hiện nay thì sự hiểu biết về bảo tồn và phát triển bền vững đất ngập nước ở các
cơ quan cấp tỉnh còn hạn chế. Do đó chúng ta cần tăng cường sự tuyên truyền, giáo
dục người dân địa phương về quản lí và bảo tồn đất ngập nước.
2. Hiện trạng sử dụng đất ngập nước và xu thế sử dụng

Theo thống kê sơ bộ thì có khoảng trên 50% tổng diện tích đất ngập nước được
sử dụng cho gieo trồng (chủ yếu là lúa) với sự quay vòng sử dụng đất rất cao (2-3
vụ); 25% tổng diện tích đất ngập nước được sử dụng cho mục đích nuôi trồng thủy
sản; 10% sông suối; 10% là hồ chứa nước nhân tạo (thủy lợi, thủy điện) và trong xu
thế ngày càng tăng.
Diện tích trồng lúa của cả nước hiện nay là 4,1 triệu ha. Từ năm 1989 đến 2004
đã xuất khẩu hơn 45 tấn gạo, tương đương trên 10 tủ USD. Giá trị xuất khẩu thủy sản
năm 2002 đã vượt mức 2 tỷ USD.
23


Nguồn thu từ du lịch trên các vùng đất ngập nước như Vịnh Hạ Long, Cát Bà,
Phú Quốc, Côn Đảo,… ngày càng tăng.
Hầu hết diện tích của loại đất ngập nước trồng lúa và nuôi trồng thủy sản do
các hộ gia đình sử dụng theo kinh nghiệm sản xuất và tập quán canh tách của từng địa
phương. Phần diện tích đất ngập nước còn lại do nhà nước quản lý và thông thường
được sử dụng thông qua một dự án đầu tư hay kế hoạch quản lý được nhà nước phê
duyệt và cấp kinh phí. Việc sử dụng đất ngập nước bắt đầu bằng việc quy hoạch sử
dụng dất cấp quốc gia, cấp vùng, cấp tỉnh và các cấp thấp hơn dựa trên các đặc điểm
tự nhiên, kinh tế xã hội và các mục tiêu mà Chính phủ đề ra cho từng vùng từng tỉnh.
Tuy nhiên việc sử dụng đất theo quy mô hộ gia đình còn nhiều tồn tại mà quan trọng
nhất là vốn đầu tư và sự hiểu biết về sử dụng đất ngập nước. Nhiều hộ nông dân ở
vùng ven biển ít vốn đầu tư và thiếu kiến thức về nuôi trồng thủy sản nên đã gặp thất
bại trong các vụ nuôi tôm và để lại hậu quả về môi trường.
Số lượng các VQG và khu BTTN đất ngập nước (những khu đất ngập nước có

tầm quan trọng quốc gia được Thủ tướng Chính phủ xác lập) cũng tăng lên. Diện tích
đất ngập nước phục vụ nuôi trồng thủy sản tăng, trong khi diện tích rừng ngập mặn
diện tích rừng ngập mặn ven biển giảm đi. Điều này gây bất lợi cho môi trường sinh
thái nhưng lại góp phần nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
Bên cạnh đó, loại đất ngập nước canh tác lúa nước cũng tăng lên phục vụ cho mục
tiêu phát triển nông nghiệp và an ninh lương thực quốc gia.
Khu BTTN Thạnh Phú chịu sức ép rất lớn từ các hộ dân vùng đệm, dân nghèo
không có đất sản xuất, cuộc sống hàng ngày của họ bị đe dọa, tài nguyên động thực
vật của phân khu bảo vệ nghiêm ngặt bị xâm hại, Thủ Tướng Chính phủ đã có Quyết
định số 57/2005/QĐ-TTg ngày 23/3/2005 đồng ý giảm diện tích phân khu này từ
1.788 ha xuống còn 668 ha. VQG U Minh Thượng có diện tích 8.038 ha, sau trận
cháy rừng mùa khô năm 2002, diện tích bị cháy là 3.212 ha, trong đó có 2.703 ha
rừng Tràm và
194 ha đất than bùn, nguyên nhân gây cháy do sự bất cẩn của con người. Khu
BTTN Lung Ngọc Hoàng đang đứng trước những tác động do quá trình ngọt hóa
vùng Quản Lộ-Phụng Hiệp, việc thay đổi bản chất của nước sẽ dẫn đến thay đổi hệ
sinh thái. Trong nhiều năm trở lại đây, việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên
này đang diễn ra một cách ồ ạt, thiếu quy hoạch. Khai hoang để trồng lúa, nuôi trồng
thủy sản, mở rộng các khu dân cư, đô thị hóa, khu công nghiệp, phát triển giao thông,
chặt phá rừng ngập mặn,... làm cho diện tích đất ngập nước tự nhiên bị thu hẹp, tài
24


nguyên suy giảm, tăng cường các tai biến xói lở, bồi tụ, môi trường bị ô nhiễm
nghiêm trọng (ô nhiễm dầu, các kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực vật, ô nhiễm các vi
sinh vật gây bệnh), tổn thất về ĐDSH. Nếu không có các giải pháp hữu hiệu xu
hướng này sẽ còn tiếp tục xảy ra trong thời gian tới.
3. Hoạt động bảo tồn đất ngập nước

Hướng bảo tồn đất ngập nước là bảo tồn những khu đất ngập nước nước tự

nhiên có giá trị cao về đa dạng sinh học và những hệ sinh thái đặc thù. Hiện nay ở
Việt Nam đã có một hệ thống các khu bảo tồn là hệ thống các rừng đặc dụng.
Sau khu Ramsar đầu tiên là VQG Xuân Thuỷ, tháng 8 năm 2005, Bàu Sấu và
các vùng đất ngập nước theo mùa thuộc VQG Cát Tiên đã trở thành khu Ramsar thứ
2 của Việt Nam.
Việt Nam có nhiều cố gắng phục hồi một số vùng đất ngập nước bị suy thoái,
ví dụ như tái trồng rừng ngập mặn trong các đầm nuôi thủy sản bị suy thoái ở Tiền
Hải, Giao Thủy, Cà Mau,...
Từ năm 1989 đến nay, diện tích một số loại đất ngập nước có diện tích tăng lên
như: các VQG và khu BTTN: VQG Xuân Thủy, VQG U Minh Thượng, VQG Phú
Quốc, Khu BTTN Lung Ngọc Hoàng, VQG Lò Gò- Xa Mát, VQG Núi Chúa,... thể
hiện nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc bảo tồn những diện tích đất ngập
nước tự nhiên còn duy trì các giá trị cao về ĐDSH và cảnh quan thiên nhiên trong bối
cảnh dân số và quá trình khai thác sử dụng đất cho mục đích kinh tế ngày càng tăng.

25


×