A – LỜI MỞ ĐẦU
Công ước Berne là công ước quốc tế đa phương đầu tiên về bảo hộ quyền tác giả và
là công ước quan trọng nhất trong hệ thống bảo hộ quốc tế về quyền tác giả của Tổ chức
sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO). Việt Nam (VN) tham gia công ước này từ năm 2004. Như
vậy, cơng ước này mới có hiệu lực tại VN chưa lâu (7 năm). Song có thể nhận thấy, cơng
ước đã tạo nên những chuyển biến đáng được ghi nhận trong việc bảo hộ quyền tác giả có
yếu tố nước ngồi tại VN. Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận một cách khách quan rằng: VN
là một quốc gia có quyền tác giả nói chung và quyền tác giả nước ngồi bị xâm phạm ở
mức độ cao. Điều này cho thấy hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước
ngồi ở VN vẫn cịn tồn tại nhiều vấn đề cần xem xét, hoàn thiện.
B – NỘI DUNG
I. BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VÀ NỘI DUNG CÔNG ƯỚC BERNE 1886
1.1. Bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
Pháp luật VN về bảo hộ quyền tác giả nói chung và quyền tác giả có yếu tố nước
ngồi nói riêng được quy định tại phần 6, phần 7 BLDS 2005. Đây là bộ luật tổng hợp các
quy định hết sức cơ bản về quyền tác giả nói chung (Điều 736 – Điều 743) và quyền tác
giả có yếu tố nước ngồi nói riêng (Điều 758,759 và 774). Vấn đề bảo hộ quyền tác giả có
yếu tố nước ngồi được quy định cụ thể tại Luật SHTT 2005 sửa đổi 2009 gồm các nội
dung sau:
1.1.1.Chủ thể bảo hộ quyền tác giả là: Chủ sở hữu quyền tác giả là người VN; Chủ
sở hữu quyền tác giả là người nước ngồi phải: có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại
Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt
Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được cơng bố lần đầu tiên ở
nước khác hoặc có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền
tác giả mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
1.1.2. Đối tượng được bảo hộ là: Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo
trình … (Điều 14 LSHTT).
1
1.1.3. Tiêu chuẩn bảo hộ: theo quy định Điều 774 BLDS 2005 thì tác phẩm được
bảo hộ tại VN là tác phẩm lần đầu tiên được công bố, phổ biến tại VN hoặc được sáng tạo
và thể hiện dưới một hình thức nhất định tại VN.
1.1.4. Nội dung quyền bảo hộ: các quyền nhân thân và tài sản quy định tại điều 19
và Điều 20 Luật SHTT sửa đổi 2009 như quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật
hoặc bút danh trên tác phẩm; quyền làm tác phẩm phái sinh; quyền sao chép tác phẩm…
1.1.5. Nguyên tắc bảo hộ:
- Tác giả là cơng dân VN có tác phẩm, cơng trình chưa cơng bố ở trong nước mà đc
sử dụng lần đầu tiên dưới bất kỳ hình thức nào ở nước ngoài cũng sẽ được hưởng quyền
tác giả ở nước sử dụng tác phẩm đó. Việc cơng bố tác phẩm của cơng dânVN ở nước
ngồi phải được cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản có thẩm quyền cho phép và phải
tuân theo các quy định của pháp luật VN.
- Tác giả là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài được bảo hộ quyền tác giả theo
quy định của pháp luật VN có các quyền tác giả được quy định tại Luật SHTT. Nghĩa là
họ được hưởng quyền nhân thân và quyền tài sản trong lĩnh vực quyền tác giả như tác giả
là công dân VN.
1.1.6. Thời hạn bảo hộ: quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn trừ quyền công bố
tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm. Quyền công bố tác phẩm hoặc cho
phép người khác công bố tác phẩm và quyền tài sản có thời hạn bảo hộ như sau: Tác
phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ
là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm
điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm
năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác
phẩm được định hình. Tác phẩm khơng thuộc loại trên có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời
tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả
thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết.
1.1.7. Giới hạn bảo hộ: Luật SHTT quy định một số trường hợp sử dụng tác phẩm
đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao như: Tự sao chép
một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân; Trích dẫn hợp lý
2
tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của
mình;… (khoản 1 Điều 25 Luật SHTT sửa đổi năm 2009) và một số trường hợp sử dụng
tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao như: Tổ
chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã cơng bố để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu
tiền đồng thời không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm,
khơng gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin
về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm ( Điều 26 Luật SHTT).
1.2. Nội dung cơ bản của Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả
1.2.1. Nguyên tắc cơ bản của Công ước:
- Nguyên tắc đối xử quốc gia: Theo quy định Công ước Berne, những tác phẩm (văn
học, nghệ thuật) được bảo hộ thì tác giả của chúng được hưởng các quyền tương tự như
cơng dân của nước đó hiện được hưởng theo quy định của luật pháp quốc gia sở tại.
- Nguyên tắc bảo hộ tự động. Nghĩa là, tại các quốc gia đã tham gia Công ước thì
việc hưởng và thực hiện các quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật không
phải làm bất kỳ thủ tục nào. Việc bảo hộ được thực hiện kể cả trong trường hợp tác phẩm
không được bảo hộ ở quốc gia gốc.
- Nguyên tắc bảo hộ độc lập. Luật pháp của quốc gia đã tham gia công ước sẽ quy
định về mức độ và các thủ tục, phương thức bổ cứu nhằm thực hiện sự bảo hộ quyền tác
giả đối với tác phẩm được yêu cầu bảo hộ.
1.2.2. Đối tượng được bảo hộ: là các tác phẩm văn học và các tác phẩm nghệ thuật.
Theo Điều 2 Công ước “các tác phẩm văn học và nghệ thuật” được hiểu là tất cả các sản
phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật được biểu hiện dưới bất kỳ
hình thức nào, theo bất kỳ phương thức nào như: Sách, tập in nhỏ, các ấn phẩm khác …
1.2.3. Chủ thể được bảo hộ quyền tác giả: là công dân của quốc gia đã tham gia
công ước cho dù tác phẩm của họ đã hoặc chưa công bố; là công dân của quốc gia chưa
tham gia công ước nhưng tác phẩm của họ đã được công bố lần đầu tiên tại một nước đã
tham gia công ước hoặc công bố đồng thời ở một số quốc gia trong đó có 1 nước đã tham
gia cơng ước; Tác giả không mang quốc tịch của quốc gia đã tham gia công ước nhưng
3
thường xun cư trú tại nước đó thì cũng được xem như cơng dân của quốc gia đó và tác
phẩm của họ cũng được bảo hộ theo Công ước Berne.
1.2.4. Thời hạn bảo hộ: được quy định tại Điều 7 và Điều 7 bis của Công ước Berne
là suốt cuộc đời của tác giả và 50 năm tiếp theo, sau khi tác giả mất. Riêng đối với tác
phẩm điện ảnh thì thời hạn bảo hộ là 50 năm sau khi tác phẩm được phổ biến tới công
chúng với sự đồng ý của tác giả hoặc có thế được tính kể từ khi tác phẩm được thực hiện.
Những tác phẩm khuyết danh hoặc sử dụng bút danh, thời hạn bảo hộ cũng là 50 năm kể
từ khi tác phẩm được phổ biến tới công chúng. Riêng đối với tác phẩm sử dụng bút danh
sau khi đã rõ tên thật của tác giả thì sẽ được bảo hộ suốt cả cuộc đời của tác giả và 50
năm sau khi tác giả mất. Thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm nhiếp ảnh và tác phẩm mỹ
thuật ứng dụng, mỹ thuật tạo hình là 25 năm. Đối với những tác phẩm có đồng tác giả thì
việc bảo hộ sẽ được thực hiện tương tự như tác phẩm có 1 tác giả. Thời hạn bảo hộ tiếp
theo sẽ được tính kể từ khi đồng tác giả cuối cùng chết.
1.2.5. Các quyền tối thiểu được bảo hộ theo Công ước Berne
Những quy định về các quyền cơ bản (quyền tối thiểu) cũng có thể coi là một
nguyên tắc của Công ước Berne - nguyên tắc bảo hộ quyền tối thiểu. Điều đó có nghĩa,
các quốc gia thành viên có thể quy định về những sự bảo hộ cao hơn các quyền tác giả đối
với tác phẩm văn học, nghệ thuật. Một số quyền cơ bản của tác giả được Công ước Berne
bảo hộ: Quyền về tinh thần (Điều 6 bis); Quyền dịch thuật (Điều 8); Quyền về sao chép
(Điều 9); Quyền của tác giả đối với việc cho phép biểu diễn công cộng và truyền phát
việc biểu diễn đó tới cơng chúng (Điều 11)… Ngồi ra, Cơng ước cịn thừa nhận sự bảo
hộ đối với việc phóng tác điện ảnh, ghi âm tác phẩm âm nhạc và lời kèm theo; Bảo hộ
quyền tác giả đối với các tác phẩm mỹ thuật, bản thảo viết tay, bản sao, việc trình bày,
triển lãm tác phẩm.v.v.
1.2.6. Giới hạn bảo hộ: Công ước Berne cũng giới hạn sự bảo hộ, thể hiện qua
những quy định về một số trường hợp được sử dụng tự do tác phẩm:
Một là, trích dẫn các tác phẩm đã được phổ cập tới công chúng một cách hợp pháp,
trích dẫn để minh hoạ phục vụ việc giảng dạy. Khi trích dẫn phải ghi rõ nguồn gốc của tác
phẩm và tên của tác giả nếu nguồn gốc của tác phẩm có ghi tên của tác giả.
4
Hai là, luật pháp các quốc gia có thể quy định cho phép in lại trên báo chí, phát lại
trên các phương tiện thông tin đại chúng những bài báo có tính chất thời sự về kinh tế,
chính trị hay tơn giáo đã đăng tải trên báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng, nếu
tác giả không giành quyền sử dụng.
II. THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI TỪ KHI
THAM GIA CƠNG ƯỚC BERNE
2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam từ khi tham gia Công ước Berne
2.1.1. Thành tựu
7 năm thực hiện công ước Berne, VN đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận
sau:
2.1.1.1. Gia nhập Công ước Berne, VN đã tạo cho mình những tiền đề đáng kể
từng bước hội nhập nền kinh tế quốc tế. Sau khi gia nhập Công ước, VN đã lần lượt
tham gia các điều ước quốc tế về quyền tác giả như Công ước Gionever bảo hộ nhà sản
xuất bản ghi âm, Công ước Brussls, Hiệp định TRIPs, Công ước Rome… Việc trở thành
thành viên chính thức của Liên hiệp Berne cũng là động lực thúc đẩy quá trinh gia nhập tổ
chức thương mại thế giới WTO.
2.1.1.2. Hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật về quyền tác giả, quyền liên
quan được tăng cường có hiệu quả. Từ năm 2001 đến năm 2010 đã có trên 100 chương
trình hội nghị, tập huấn, hội thảo quốc gia và quốc tế được thực hiện với gần 10 nghìn
lượt người tham dự. Website quyền tác giả Việt Nam ra đời từ năm 2004, đến cuối năm
2010 đã có trên 40 triệu lượt truy cập. Điều đó có nghĩa là cơng chúng đã ý thức hơn đến
vấn đề bản quyền trong việc khai thác, sử dụng các tác phẩm văn học nghệ thuật và khoa
học và cũng có ý thức chấp hành tốt các quy định liên quan đến vấn đề này, ví dụ: năm
2009 Cục bản quyền đã thụ lý hồ sơ, cấp 4560 giấy chứng nhận cho 4560 tác giả, chủ sở
hữu miền Bắc. Càng ngày số lượng chủ thể nộp đơn đăng ký quyền tác giả, quyền liên
quan tại Cục bản quyền tác giả càng nhiều. Tính đến 15/12/2010 Cục bản quyền đã cấp
3629 Giấy chứng nhận quyền tác giả, Giấy chứng nhận quyền liên quan.
5
2.1.1.3. Về mặt tổ chức, sau khi gia nhập Liên hiệp Berne hệ thống tổ chức quản lý
quyền tác giả bao gồm: Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc (VCPMC), Trung tâm
quyền tác giả văn học (VLCC), hiệp hội công nghiệp ghi âm Việt Nam (RIAV)… đã
được thành lập và hoạt động rất hiệu quả, góp phần quan trọng trong việc tự bảo vệ quyền
và tạo niềm tin cho các văn sỹ, tri thức và nhà đầu tư trong lĩnh vực này. Năm 2008
VCPMC đã thu được 15 tỷ đồng tiền tác quyền cho các nhạc sỹ và tác giả. Đến năm 2010
thu hơn 32 tỷ trong đó có gần 3 tỷ đồng thu từ dịch vụ karaoke –đây được coi là thành
công nhất năm này.
2.1.1.4. Công tác kiểm tra, xử lý của các cơ quan thực thi được tăng cường đảm bảo
cho Công ước Berne được thực hiện nghiêm túc ở Việt Nam. Các cơ quan có thẩm quyền
đã kết hợp với các ban ngành có liên quan về tổ chức kiểm tra nhiều cơ sở kinh doanh
dịch vụ liên quan đến quyền tác giả, phát hiện và xử lý nhiều cơ sở vi phạm như việc
UBND TP.HCM đã ký quyết định xử phạt vi phạm hành chính 500 triệu đồng đối với
Cơng ty TNHH phát hành sách Sài Gòn đã sử dụng, sao chép bất hợp pháp tác phẩm của
người khác. Từ năm 2001 đến nay, đã có trên 20 vụ án về quyền tác giả và quyền liên
quan được các tòa dân sự, kinh tế xem xét va xử lý.
2.1.2 Hạn chế
2.1.2.1. Tình trạng vi phạm quyền tác giả xảy ra phổ biến ở hầu hết các lĩnh vực
- Trong lĩnh vực xuất bản: Hiện nay, ở nhiều nơi trên thị trường, sách dịch vi phạm
bản quyền tràn lan với giá bán giảm 20-70% so với giá bán trên bìa sách gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến doanh thu và sự tồn tại của các nhà xuất bản. Tại Hội thảo về sách vi
phạm bản quyền tổ chức tại Tp.HCM, ông Võ Đại phúc, đại diện NXB Oxford, khẳng
định: “Tổng số đầu sách của chúng tôi cấp phép chỉ ở mức độ chưa đến 100, nhưng số
liệu thống kê sơ bộ thì hiện nay trên thị trường có đến hàng chục nghìn và có đến 90%
những sách này vi phạm, tức là không được cấp bản quyền từ NXB nước ngoài”, cũng
theo đại diện của 6NXB thì sách vi phạm thường được sử dụng ở các trung tâm ngoại
ngữ. Tại hội thảo, hàng nghìn đầu sách vi phạm bản quyền cũng được trưng bày cùng với
sách gốc để đối chiếu. Trong số các sách vi phạm thì có tới gần 350 đầu sách là của NXB
Đồng Nai liên kết với Công ty phát hành sách Sài Gòn sản xuất.
6
- Trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh băng, đĩa: Hoạt động nhập lậu, in lậu, lưu
hành, kinh doanh băng, đĩa lậu thường xuyên diễn ra trên thị trường và tại khu vực cửa
khẩu, biên giới. Cũng giống như sách in lậu, băng đĩa in lậu được bán với giá rất rẻ, chỉ
bằng 1/10 so với giá băng đĩa sản xuất hợp pháp. Thị trường băng đĩa hiện nay phát sinh,
biến tướng nhiều hình thức và kiểu cách mới tinh vi khó lường. Vừa qua, cơ quan cơng an
đã triệt phá tận gốc nhiều ổ băng đĩa phim đồi trụy với số lượng hành ngàn đĩa và hàng
ngàn tập tin trong máy tính.
Nghị định 75/2010/NĐ-Cp về xử phạt hành chính trong hoạt động văn hóa (thay thế
các quy định tại Chương II Nghị định 56/2006) có hiệu lực từ đầu tháng 9/2010, nhưng
tình trạng sao chép đĩa lậu vẫn tràn lan. Điểm mới là ngoài các quy định xử phạt những
người in, sao chép, bán và cho thuê băng đĩa lậu, Nghị định này còn quy định xử phạt
người mua băng đĩa lậu. Theo quy định, khi đi kiểm tra các cửa hàng nếu gặp người mua
đĩa không tem, nhãn hoặc dán nhãn giả từ 10 cái trở lên sẽ phạt tiền với những mức phạt
khác nhau. Nhưng trên thực tế, rất khó gặp người mua một lúc 10 đĩa.
- Trong lĩnh vực phần mềm máy tính: Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin,
những vi phạm quyền tác giả trong lĩnh vực này cũng tăng đáng kể. Nhiều phần mềm của
tác giả nước ngoài và tác giả VN bị các tổ chức, cá nhân sao chép, sử dụng khơng được
phép của tác giả. Tình trạng vi phạm bản quyền phần mềm (BQPM) tràn lan không chỉ
gây tổn thất cho ngành phần mềm máy tính nước nhà mà cịn ảnh hưởng tới uy tín của
quốc gia. Theo báo cáo gần đây của Liên minh phần mềm doanh nghiệp VN và IDC, tỷ lệ
vi phạm BQPM của VN là 85%. Thiệt hại xử lý vi phạm BQPM của VN tăng lên tới 353
triệu USD, đứng thứ 24 trong số 30 quốc gia có giá trị vi phạm BQPM cao nhất, khối
người tiêu dùng, là nơi có tốc độ tăng số máy tính cá nhân mua mới rất cao (52%), đi kèm
với các phần mềm “lậu”, đã làm giảm tác dụng của các nỗ lực kéo tỷ lệ vi phạm BQPM
xuống.
- Trong lĩnh vực âm nhạc: Hiện nay, rất nhiều tổ chức, cá nhân chưa thực hiện nghĩa
vụ trả tiền bản quyền tác giả tác phẩm âm nhạc trong các hoạt động văn hóa, kinh doanh,
du lịch và hoạt động thông tin – truyền thông. Cụ thể:
7
+ Trong hoạt động biểu diễn thường xuyên: rất nhiều đoàn nghệ thuật chưa thực hiện
ký kết hợp đồng và trả tiền bản quyền tác giả âm nhạc cho VCPMC. Tính đến ngày
28/8/2010, tại khu vực phía Bắc chỉ có 9/40 (chiếm 22,5%) đoàn ca múa nhạc chuyên
nghiệp thực hiện việc ký kết hợp đồng và trả tiền bản quyền tác giả âm nhạc cho
VCPMC.
+ Trong hoạt động biểu diễn không thường xuyên: hầu hết các cá nhân và tổ chức sử
dụng âm nhạc trong lĩnh vực kinh doanh dễ dàng trốn tránh nghĩa vụ luật pháp sau khi có
giấy phép. Trong 7 tháng đầu năm 2010, có 354 buổi biểu diễn được cấp phép tại Sở Văn
hóa truyền thơng du lịch Hà Nội nhưng chỉ có 2-3% tổ chức biểu diễn thực hiện nghĩa vụ
bản quyền tác giả âm nhạc.
+ Trong hoạt động kinh doanh du lịch: Hiện nay trên cả nước có 1447 khách sạn từ 1
sao đến 5 sao do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý và cấp phép hoạt động,
nhưng mới có 40 đơn vị đăng ký hợp đồng bản quyền tác giả âm nhạc. Theo thống kê sơ
bộ, hiện nay trên cả nước có 78 khu vui chơi giải trí và khu nghỉ mát lớn nhưng mới chỉ
có 5 đơn vị xin phép bản quyền tác giả cho các tác phẩm âm nhạc được sử dụng.
+ Trong lĩnh vực phát thanh và truyền hình: Trong năm 2010, hầu hết các đài phát
thanh và truyền hình trên cả nước đã nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ trả tiền sử dụng tác
phẩm âm nhạc cho các tác giả, chủ sở hữu tác phẩm. Tuy nhiên, vẫn cịn một số Đài vẫn
định khơng thực hiện.
- Trong lĩnh vực mỹ thuật: Hiện tượng nổi bật nhất trong việc về vi phạm bản quyền
trong mỹ thuật là vấn đề sao chép tác phẩm để bán ở thị trường trong nước và nước ngoài.
Việc sao chép này chủ yếu đối với các tác giả nổi tiếng như Bùi Xuân phái, Nguyễn Tư
Nghiêm, Tô Ngọc Vân... Gần đây, có thể kể đến vụ vi phạm bản quyền giữa tranh của tác
giả Nguyễn Tấn Khởi –tác phẩm tranh cổ động giải A duy nhất trong cuộc thi sáng tác
tranh với chủ đề phòng chống HIV/AIDS cho thanh niên với tác phẩm của họa sĩ Rewais
Hanna.
2.1.2.2. Mức độ vi phạm quyền tác giả ngày càng nghiêm trọng
Cùng với việc sao chép đơn thuần một tác phẩm, ngày nay những tác phẩm này còn
được cắt xén, bổ sung… nhiều sản phẩm băng đĩa cũng sử dụng hình thức này để sao
8
chép, làm giả. Thậm chí, số lượng lớn băng đĩa mang nội dung xấu, đồi trụy cũng tràn lan
khắp trên thị trường khó có thể kiểm sốt được. Những đầu sách nước ngoài ngập các vỉa
hè, chất lượng giấy in xấu được bán với giá rẻ vẫn đáp ứng được nhu cầu đọc của độc giả.
Thậm chí là tự tiện dịch sách, chụp, sao chép những sách học ngoại ngữ, sách chuyên
ngành…
Trong năm 2007, Thanh tra Văn hóa–Thể thao, Du lịch đã kiểm tra 31.477 cơ sở
kinh doanh, dịch vụ phát hiện và xử lý 10.559 cơ sở vi phạm, phạt cảnh cáo 786 cơ sở,
đình chỉ hoạt động 437 cơ sở, tạm giữ 204 giấy phép kinh doanh…
2.1.2.3. Việc xử lý vi phạm quyền tác giả cịn nhiều khó khăn và bất cập
Vai trò của Tòa án rất mờ nhạt so với các cơ quan hành chính. Trong khi các vi
phạm xảy ra ngày một gia tăng nhiều hơn nhưng khó bị phát hiện và khi bị phát hiện thì
thường chỉ bị xử lý bằng các biện pháp dân sự hoặc hành chính. Mỗi năm lực lượng quản
lý thị trường kiểm tra và xử lý hàng ngàn vụ vi phạm SHTT nhưng chủ yếu do Cảnh sát
Kinh tế, Quản lý thị trường và Thanh tra Văn hóa Thơng tin phụ trách giải quyết, số vụ
được đưa ra xét xử tại tịa án khơng q 10 vụ. Chưa kể đến trình độ chun mơn, nghiệp
vụ trong các lĩnh vực liên quan đến SHTT của phần lớn đội ngũ cán bộ làm cơng tác bảo
vệ pháp luật cịn hạn chế, mức xử phạt nhìn chung cịn nhẹ, chưa đủ sức răn đe. Ngồi ra,
chính những người mà quyền lợi của họ bị xâm phạm lại tỏ ra e ngại khi tốn thời gian,
cơng sức và tiền bạc cho việc hầu tịa trong khi vi phạm quyền tác giả đang trở thành một
vấn nạn. Điều đó đặt ra câu hỏi cho các nhà làm luật về một cơ chế tạo điều kiện thuận lợi
nhất để tác giả bảo vệ được tác phẩm của mình.
2.1.2.4. Các cơ quan có thẩm quyền cịn gặp nhiều vướng mắc trong quá trình thực
thi quyền tác giả
Hiện nay có nhiều loại cơ quan cũng có thẩm quyền quản lý hành chính quyền tác
giả: UBND các cấp, thanh tra văn hóa, cảnh sát kinh tế, quản lý thị trường, hải quan…
pháp luật chưa phân định rạch ròi thẩm quyền của từng cơ quan. Cho nên, trong thực tế,
có vụ việc nhiều cơ quan cùng giải quyết, có vụ việc không thuộc thẩm quyền của cơ
quan nào. Sự phối hợp thiếu đồng bộ và chồng chéo, nhiều tầng nấc xử lý giữa các cơ
9
quan trong bộ máy quản lý nhà nước về quyền tác giả khiến hiệu lực thực thi bị phân tán,
phức tạp.
Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể các hành vi xâm
phạm quyền tác giả. Chính điều này gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền. Có
những hành vi xâm phạm quyền tác giả một cách rõ ràng, nhưng cũng có những hành vi
phải phân tích, xem xét kỹ lưỡng mới kết luận được có hành vi vi phạm hay khơng. Cho
nên, dẫn đến hai hệ quả là: Bỏ sót người vi phạm hoặc xử lý người chưa vi phạm.
2.1.2.5. Chưa quan tâm đúng mức đến các ưu đãi mà Việt Nam được hưởng
Trong văn kiện xin gia nhập Công ước Berne, VN tuyên bố áp dụng chế độ ưu đãi,
dành cho các nước đang phát triển theo Điều II và Điều III của phụ lục Công ước. Là
quốc gia đang phát triển gia nhập Liên hiệp nên VN sẽ được hưởng những ưu đãi về
quyền dịch thuật và quyền làm bản sao đối với một số tác phẩm theo những điều kiện
nhất định theo quy định của Công ước. Thời hạn VN được hưởng ưu đãi này ít nhất đến
năm 2014. Ưu đãi là vậy, và thời gian được hưởng ưu đãi cũng không phải là dài nhưng
dường như chúng ta chưa mấy quan tâm đúng mức đến vấn đề này.
2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả từ khi
tham gia công ước Berne
2.2.1. Sự chưa tương thích của pháp luật Việt Nam khi VN chưa tham gia Công
ước
Trước khi tham gia Công ước Berne, các vấn đề về quyền tác giả được quy định tại
phần I chương 6 BLDS 1995 và một số văn bản. Nhìn chung các quy định này tương đối
phù hợp với cơng ước nhưng vẫn cịn một số quy định chưa tương thích như:
Thứ nhất, về tác phẩm văn học được bảo hộ: Công ước Berne không quy định các
tác phẩm không được bảo hộ mà dành quyền chủ động cho các quốc gia thành viên khi
“trong khi tác phẩm được ấn định trên một hình thái vật chất nhất định”. Hầu hết các quốc
gia thành viên trong Liên hợp Berne không quy định tác phẩm không được bảo hộ. Trong
khi đó pháp luật VN lại quy định loại trừ các tác phẩm khỏi sự bảo hộ vào nội dung chính
tác phẩm đó. Những nội dung khơng được bảo hộ như: chống phá nhà nước VN, phá hoại
10
khối đại đoàn kết toàn dân, tuyên truyền bạo lực chiến tranh… (khoản 1 Điều 749 BLDS
1995).
Thứ hai, về quyền tác giả sở hữu tác phẩm: Quy định này của Việt Nam khác biệt
so với Berne xoay quanh vấn đề các thuật ngữ: “quyền nhân thân”, “quyền tài sản” với
“quyền tinh thần”, “quyền kinh tế” và nội hàm của chúng. Trong thời kỳ này pháp luật
Việt Nam chưa quy định về quyền “droit de suit” đối với các tác phẩm viết tay.
Thứ ba, quy định về thời hạn bảo hộ: Chính sự khác nhau về thuật ngữ dẫn đến có
những quy định về thời hạn bảo hộ khác nhau. Công ước Berne quy định thời hạn bảo hộ
tối thiểu, pháp luật Việt Nam quy định thời hạn cụ thể và bất biến. Hơn nữa, Công ước
quy định thời hạn bảo hộ dựa vào đối tượng bảo hộ còn pháp luật Việt Nam dựa vào loại
quyền nào. Pháp luật Việt Nam còn chưa quy định thời hạn bảo hộ đối với quyền của
nghệ sĩ biểu diễn và nhà sản xuất băng ghi âm như Công ước Berne.
Thứ tư, về quy định công bố tác phẩm: Trái với quy định của công ước, nghị định
76/1996/NĐ-C quy định: Việc công bố phổ biến tác phẩm là trình bày tác phẩm trước
cơng chúng dưới dạng thuyết trình, trưng bày, xuất bản, biểu diễn, phát thanh, truyền hình
và các hình thức khác. Quy định này trái với điều 3 công ước.
Thứ năm, về quy định thực thi quyền tác giả: Theo điều 15 công ước thì nghĩa vụ
chứng minh của tác giả chỉ xoay quanh “có tên mình trên tác phẩm như thơng lệ”. Trong
khi đó pháp luật VN quy định phương thức áp dụng để thực thi quyền tác giả như:
phương thức dân sự, phương thức hành chính hay phương thức hình sự. Mặc dù tham gia
công ước tương đối muộn song pháp luật về bảo hộ quyền tác giả ở VN đã được hình
thành từ lâu, đi vào đời sống, xác lập nên trật tự quyền tác giả. Trước đó VN cũng đã ký
kết với Hoa Kỳ và Thụy Sỹ các hiệp định song phương về quyền tác giả. Các quy định
này nhiều điểm gần giống Cơng ước Berne, nhiều điều khoản cịn quy định chi tiết hơn.
Điều đó cũng giúp VN có thêm kinh nghiệm thực tế trong việc thực thi quyền tác giả.
2.2.2 Tác động của công ước Berne về quyền tác giả ở Việt Nam
Năm 2004, VN tham gia Công ước Berne và ngày 24/10/2004, Cơng ước chính
thức có hiệu lực tại VN. Sau khi gia nhập Liên minh Bern, pháp luật VN đã có những
chuyển biến rõ rệt theo hướng tương thích với những quy định của Cơng ước Berne. Cụ
11
thể là việc một loạt các luật mới liên quan tới quyền tác giả được ban hành như: BLDS
2005, Luật SHTT 2005 sửa đổi, bổ sung 2009… Theo đó các nhà làm luật đã kế thừa nội
dung các quy định về quyền tác giả phù hợp với Berne của VN trước khi tham gia Công
ước. Cụ thể: BLDS 2005 ra đời đã giải quyết một số chênh lệch của pháp luật VN về
quyền tác giả và quy định của Công ước.
+ BLDS 2005 đã bỏ những quy định về các tác phẩm không được bảo hộ tại Điều
749 trong BLDS 1995;
+ Nội dung quyền tác giả được thay đổi phù hợp với Công ước Berne;
+ Điều 748 của BLDS 2005 quy định việc bảo hộ quyền tác giả đối với tín hiệu vệ
tinh mang chương trình được mã hóa.
Như vậy, chỉ cịn một số rất ít các vấn đề chênh lệch: công bố tác phẩm, thời hạn bảo
hộ quyền tác giả và thực thi quyền tác giả chưa được giải quyết trong BLDS 2005.
Đến LSHTT 2005 sửa đổi, bổ sung 2009 được ban hành cụ thể hóa các quy định của
Berne. Đây là việc tiến hành thực hiện tiêu chuẩn hóa và thực hiện các cam kết quốc tế về
khung pháp luật quyền tác giả. Tuy nhiên, vẫn còn một số điều luật chưa tương thích với
các chuẩn mực quốc tế. Các quy định về quyền và giới hạn quyền tại Điều 23, 26; về chủ
sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm khuyết danh; về loại hình bảo hộ.
Hiện nay, việc bảo hộ các quyền tác giả đã được ghi trong BLDS 2005 và LSHTT
2005 sửa đổi, bổ sung 2009. Một loạt các văn bản dưới luật đã được ban hành nhằm
hướng dẫn, giải thích, làm rõ các nguyên tắc và các điều khoản của LSHTT để có thể
được thực thi hiệu quả luật trong đời sống thực tiễn.
+ Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 về quyền tác giả và các quyền liên
quan.
+ Nghị định 105/2006/NĐ-CP về quản lý nhà nước và thực thi các quyền SHTT.
+ Nghị định 47/2009/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính về quyền tác giả, quyền
liên quan.
+ Nghị định 75/2010/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong vi phạm văn hóa.
Pháp luật Việt Nam về quyền tác giả ngày càng được hoàn thiện và phù hợp với các
điều kiện quốc tế, tạo môi trường pháp lý cho quá trình hội nhập quốc tế một cách toàn
12
diện. Qua việc nhìn lại bức tranh tồn cảnh thức trạng quy định pháp luật về quyền tác
giả, ta thấy được nỗ lực của Việt Nam trên con đường tiếp cận các chuẩn mực quốc tế,
đặc biệt là Công ước Berne để có được hệ thống quy phạm chuẩn mực và khả thi như hiện
nay.
2.2.3. Đánh giá quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả có yếu
tố nước ngồi
Các quy định về quyền tác giả trong BLDS 2005 là cơ sở cho các quy định tại Luật
SHTT. Mới đây, Luật SHTT sửa đổi bổ sung 2009 đã có hiệu lực (1/1/2010) điều chỉnh
các quan hệ quyền tác giả, Nghị định 100/NĐ-CP/2006, Nghị định 47/2009/NĐ-CP… Có
thể thấy, hệ thống pháp luật Việt Nam đã tạo hành lang pháp lý an tồn, khuyến khích các
hoạt động sáng tạo và bảo hộ thành quả lao động của các chủ thể quyền tác giả. Luật
SHTT 2005 sửa đổi, bổ sung 2009 đã tiếp thu được các giá trị của các văn bản pháp luật
ban hành và thực thi trong những năm qua, điều chỉnh lợi ích củ các bên, về cơ bản đã
tương thích với pháp luật quốc tế, minh bạch và khả thi. Hệ thống này là phương tiện để
các chủ thể quyền tác giả sử dụng nhằm bảo vệ quyền lợi của mình đồng thời là cơng cụ
quản lý và điều khiển trong lĩnh vực sơ hữu trí tuệ của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả cho quyền tải sản và quyền công bố tác phẩm trong
Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật SHTT được quy định dài hơn. Thời hạn bảo hộ
quyền tác giả trước Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật SHTT đối với tác phẩm điện
ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mĩ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh là năm mươi năm kể
từ khi tác phẩm được ông bố lần đầu tiên; trong khi đó thời hạn này được quy định trong
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật SHTT là bảy lăm năm kể từ khi tác phẩm được
công bố lần đầu tiên. Đây là một trong những thay đổi quan trọng của pháp luật SHTT
VN.
Luật SHTT sửa đổi bổ sung 2009 đã sửa đổi Điều 26 cho phù hợp với qui định tại
Điều 11bis của công ươc Berne. Theo đó, tổ chức phát sóng khi sử dụng tác phẩm để làm
chương trình phát sóng, dù chương trình có tài trợ, quảng cáo hay thu tiền hay không đều
13
có nghĩa vụ trả nhuận bút hay thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả. Đây là một điểm mới
của Luật SHTT 2005.
Tuy nhiên, liên quan đến quyền sao chép: theo quy định tại Điều 20 Luật SHTT thì
sao chép tác phẩm thuộc độc quyền của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Điều 25 dành
ra một ngoại lệ đối với quyền sao chép tác phẩm là các trường hợp: 1) Tự sao chép nhằm
mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy cá nhân; 2) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong
thư viện với số lượng không quá một bản. Theo hướng dẫn tại Điều 25 Nghị định 100 thì
việc sao chép khơng q một bản và không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm
tạo hình và chương trình máy tính. Như vậy, theo quy định hiện nay, trường hợp sao chép
tác phẩm với số lượng lớn hơn một bản với mục đích sử dụng cá nhân, phí thương mại
vẫn phải xin phép, vẫn phải trả tiền cho tác giả, chủ sở hữu tác phầm. Tuy nhiên điều này
khó có thể thực hiện trên thực tế, một mặt do sự phát triển của công nghệ sản xuất, kinh
doanh các thiết bị và phương tiện để sao chép mỗi cá nhân đều dễ dàng có cơ hội sử dụng
dẫn đến việc sao chép cá nhân khơng thể kiểm sốt và quản lý được. Bên cạnh đó, có một
số mơi trường thường xun sao chép với số lượng lớn nhưng khơng vì mục đích thương
mại như các cơ sở nghiên cứu, đào tạo. Đồng thời tại Khoản 2 Điều 9 Công ước Berne
quy định việc sao chép tác phẩm không đưa ra các trường hợp cụ thể mà chỉ đưa ra
nguyên tắc chung là các nước thành viên có thể quy định việc tự sao chép trong một số
trường hợp cụ thể nếu sao chép đó khơng làm phương hại đến lợi ích hợp pháp của chủ sở
hữu quyền tác giả chứ không giới hạn về số lượng là một bản như Luật SHTT của chúng
ta. Qui định như chung ta hiện nay dẫn đến hệ quả thực thi kém.
Từ khi trở thành thành viên cơng ước Berne Việt Nam đã tích cực tham gia kí kết
hầu hết các điều ước quốc tế về quyền tác giả như Công ước Giơnever (2005), Công ước
Brussels (2006), Hiệp định TRIPs (2007), Công ước Rome (2007)…
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO
HỘ QUYỀN TÁC GIẢ CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI
Theo đánh giá của các đối tác kinh tế quan trọng, VN đang có nhiều nỗ lực trong
việc xây dựng và hồn thiện pháp luật về SHTT nhưng vấn đề thực thi đang cần một lộ
trình và giải pháp phù hợp.
14
VN đã ban hành BLDS 2005 với các quy định tiến bộ và hợp lý hơn về bản quyền,
đồng thời VN cũng xây dựng được LSHTT riêng với những quy định cụ thể, chuyên biệt
về vấn đề quyền tác giả, bảo hộ quyền tác giả, tạo điều kiện hơn cho việc thực hiện quyền
tác giả. Gần đây, Luật SHTT đã được sửa đổi, bổ sung một lần nữa (có hiệu lực ngày
1/1/2010) nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về SHTT nói chung và quyền tác giả nói riêng.
Tuy nhiên, LSHTT VN mới chỉ định ra những quy định chung về thực thi quyền
SHTT và coi đó là những nguyên tắc thực thi quyền SHTT. Nhưng quy định này không
trực tiếp chỉ ra các yêu cầu tổng quát được coi là tiêu chuẩn mà hệ thống thực thi quyền
SHTT ở VN phải đạt được trên cơ sở hài hòa các nguyên tắc chung của Berne.
Bên cạnh đó, quyền tác giả chịu sự điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau, nên
nếu chỉ sửa đổi, bổ sung LSHTT thôi là chưa đủ. Trong pháp luật dân sự cần quy định về
việc xác định hành vi xâm phạm SHTT, nâng cao vai trò của tòa án dân sự trong việc giải
quyết tranh chấp về SHTT. Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn thực thi quyền SHTT một
cách kịp thời và có hiệu quả. Xác định rõ thẩm quyền vụ việc tòa án trong việc xét xử các
tranh chấp về SHTT, bổ sung những quy định chi tiết vê các chế tài đủ mạnh để chống lại
các hành vi xâm phạm quyền SHTT, tham khảo một số biện pháp khẩn cấp tạm thời đã
được áp dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp bản quyền trên thế giới.
Trong luật hành chính, Chính phủ cần quy định theo hướng mở rộng thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện hành chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền SHTT cho tòa án. Xây dựng và
ban hành những quy định, hướng dẫn riêng về thủ tục tố tụng và các vấn đề cụ thể, riêng
biệt cần được áp dụng trong q trình giải quyết các khiếu kiện hành chính về quyền tác
giả.
Hồn thiện có chế bảo đảm thi hành quyền tác giả trong pháp luật hình sự. Ban hành
các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ Luật Hình sự có liên quan tới việc
xét xử các vụ án hình sự về xâm phạm SHTT nói chung, xâm phạm quyền tác giả nói
riêng.
Ngồi ra,với các quy định chưa tương thích với Cơng ước cần nghiên cứu kĩ, có
những điều chưa thích hợp cần điều chỉnh, nhưng có những điều đã đảm bảo với mức tối
thiểu của Công ước và phù hợp với điều kiện nước ta thì chưa cần phải thay đổi Ví dụ: Về
15
quy định tại Điều 25 LSHTT về giới hạn các bản sao là một bản, điều này hiệu quả thực
thi khơng cao. Do đó, nên cân nhắc sửa đổi Điều 25 theo phương hướng mở rộng hơn
ngoại lệ cho việc sao chép với mục đích sử dụng cá nhân, phi thương mại, cụ thể nên bỏ
quy định về giới hạn về số bản sao chép như hiện nay.
Mặt khác, các quy định về quyền tác giả chủ yếu được quy định trong LSHTT
và các điều luật khác nằm rải rác. Thêm vào đó, LSHTT lại quy định 3 đối tượng với cơ
chế bảo hộ khác nhau trong cùng một văn bản là khơng hợp lí. Nên chăng nước ta cũng
nên có một luật riêng về quyền tác giả như Mỹ, Nhật... hoặc các quốc gia khác trên thế
giới.
C – KẾT LUẬN
Có thể thấy, từ khi gia nhập cơng ước Berne, hệ thống pháp luật VN về quyền tác giả
ngày càng được hoàn thiện và phù hợp với các điều kiện quốc tế, tạo mơi trường pháp l ý
cho q trình hội nhập quốc tế một cách toàn diện. Các quy định về bảo hộ quyền tác giả
có yếu tố nước ngoài của pháp luật Việt Nam hiện hành về cơ bản đã tương thích với
cơng ước Berne. Tuy nhiên, một số chênh lệch còn tồn tại vẫn chưa được giải quyết trong
BLDS 2005 và Luật SHTT sửa đổi 2009. Cộng với việc tình trạng vi phạm quyền tác giả
ở VN ngày càng nhiều, càng tinh vi, nguy hiểm hơn. Do đó, VN cần nhanh chóng hồn
thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền SHTT nói chung, quyền tác giả nói riêng để bảo
vệ quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm một cách tốt nhất..
16