Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

đề cương tâm lý học đại cương 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.08 KB, 49 trang )

CHƯƠNG I: TÂM LÝ HỌC LÀ 1 MÔN KHOA HỌC
Câu 1: Phân tích nhận định sau: “ Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào não người thông qua chủ thể”

thể.

TLN mang tính chủ thể, chịu ảnh hưởng của chủ thể và phụ thuộc vào chủ

Nghĩa là con người phản ánh TG bằng hình ảnh TL thông qua “lăng kính chủ quan”
của mình. Tính chủ thể này thể hiện ở chỗ:
Cùng nhận sự tác động của TG về cùng một HTKQ nhưng những chủ thể
khác nhau cho ta những hình ảnh TL với những mức độ và sắc thái khác nhau.
Cùng một HTKQ tác động đến một chủ thể duy nhất nhưng vào thời điểm
khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, với trạng thái cơ thể, tinh thần khác nhau sẽ cho
ta thấy mức độ biểu hiện và các sắc thái TL khác nhau ở chủ thể ấy.


Nguyên nhân gây ra tính chủ thể trong TLN:

Do mỗi con người có những đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan, hệ thần
kinh và não bộ; quá trình hưng phấn hay ức chế của HTK ở mỗi người là khác
nhau. Những yếu tố tự nhiên này trong con người sẽ tạo nên tính chủ thể trong tâm
lý con người.
Mỗi người có hoàn cảnh sống riêng, điều kiện giáo dục, nghề nghiệp, vốn
sống,
truyền thống gia đình không giống nhau, đặc biệt mỗi cá nhân thể hiện
thái độ,
quan điểm, mức độ tích cực hoạt động, tích cực giao lưu khác nhau
trong cuộc sống. Vì vậy tâm lí của người này khác với TL của người kia. Những
yếu tố XH này có tính chất quyết định tạo nên tính chủ thể trong TL con người.



Kết luận:

-

Hình ảnh HTKQ mang đặc điểm của người phản ánh.

Mỗi khi con người phản ánh TG đã đưa cái riêng của mình vào trong sự
phản ánh đó làm cho TLN mang đậm màu sắc chủ quan, hay nói cách khác TLN là
hình ảnh chủ quan về HTKQ.


Ý nghĩa thực tiễn:

TL có nguồn gốc là TGKQ, vì thế khi nghiên cứu cũng như khi hình thành,
cải tạo TLN phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó con người sống và hoạt động.
Trong đời sống thực tiễn phải chú ý tôn trọng cái riêng của mỗi cá nhân,
không thể đòi hỏi họ suy nghĩ và hành động theo người khác.


TL là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì thế phải ứng xử, tổ chức hoạt
động và các quan hệ giao tiếp phù hợp để nghiên cứu hình thành và phát triển TLN,
không nên cứng nhắc.
Câu 2: Phân tích bản chất xã hội của hiện tượng tâm lý ng. Qua đó rút ra bài
học thực tiễn?


TLN mang bản chất xã hội:




TLN có nguồn gốc XH:

TLN chỉ được hình thành và phát triển trong môi trường XH - nơi con người
sinh ra, sống và làm việc với tư cách là một thành viên.
Sinh ra là hình hài người nhưng không sống trong cộng đồng người thì
không có TLN.
VD: Năm 1921 tìm thấy hai em bé ở Ấn Độ sống với bầy sói, đi bằng 4 chi, không
hiểu ngôn ngữ người .


TLN không chỉ có nguồn gốc XH mà con mang nội dung XH, nghĩa là:

TL con người còn phản ánh các quan hệ XH mà họ tham gia (các quan hệ
XH tạo nên bản chất con người như quan hệ chính trị, đạo đức, pháp quyền)
Thông qua hoạt động và giao tiếp trong điều kiện XH thì mỗi cá nhân lĩnh
hội kinh nghiệm (học tập, lao động, sống, làm việc), tinh hoa văn hóa. Từ đó TL cá
nhân được hình thành.
-

TLN là sản phẩm của hoạt động giao tiếp của con người trong các mqh XH.

Con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể XH. Phần tự nhiên ở
con người (đặc điểm cơ thể, giác quan, thần kinh, não bộ) được xã hôi hóa ở mức
cao nhất, kể cả sự thỏa mãn nhu cầu cá nhân cũng được XHH.
TL con người là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh nghiệm XH,
nền văn hóa XH; là sự chuyển hóa những yếu tố XH thành vốn liếng tinh thần cho
bản thân.



Kết luận:


Yếu tố XH-LS là yếu tố quyết định, ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển
TLCN

TL của mỗi con người hình thành phát triển và biến đổi cùng với sự phát
triển của LS cá nhân, LS dân tộc và môi trường XH. Đồng thời TL con người cũng
bị ức chế bởi những yếu tố trên.




Ý nghĩa thực tiễn:


Muốn nghiên cứu TL con người phải nghiên cứu môi trường XH, nền văn
hóa XH, quan hệ XH mà cá nhân đó sống và hoạt động.

Muốn phát triển TL con người (bản thân) thì phải tích cực tham gia các hoạt
động và giao lưu đa dạng và phong phú.
CHƯƠNG II: HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP VÀ SỰ HÌNH THÀNH PHÁT
TRIỂN TÂM LÝ, Ý THỨC
Câu 1: Bằng ví dụ, phân tích các đặc điểm cơ bản của hoạt động. Rút ra bài
học kinh nghiệm?
a, Khái niệm hoạt động:
-

Là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người và thế giới (khách thể) để
tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới và cả về phía con ng(chủ thể). Hay ns

cách khác hoạt động là quá trình con người thực hiện các quan hệ giữa mình
và thế giới tnhiên, xh, ng khác và bản thân.

b,Trong quá trình con người hoạt động có hai quá trình đồng thời thống nhất với
nhau:


Quá trình xuất tâm:

Đó chính là quá trình con người chuyển hoá năng lượng lao động và phẩm
chất TL để tạo ra sản phẩm của hoạt động.
Trong quá trình này, TL, ý thức của chủ thể họat động (con người) được bộc
lộ ra bên ngoài thông qua sản phẩm của hoạt động. Do đó sản phẩm hoạt động là
nơi chứa đựng những đặc điểm TL của chủ thể.
-

Như vậy, muốn đánh giá TL của chủ thể ta phải xem xét sản phẩm của HĐ.



Quá trình nhập tâm:

Khi con người tiến hành hoạt động thì chủ thể hoạt động sẽ chuyển kinh
nghiệm, bản chất của SV-HT (đối tượng hoạt động), cách thức tạo sản phẩm, cách
thức tiến hành hoạt dộng, thao tác thực hiện vào TG nội tâm của mình. Đấy chính
là quá trình hình thành TL, ý thức của chủ thể tiến hành hoạt động.
Con người tiếp tục điều khiển, điều chỉnh hoạt động của mình sao cho kết
quả hoạt động ngày càng cao hơn thì TL con người ngày càng phát triển hơn.



Như vậy, khi con người tiến hành hoạt động tạo ra 2 sản phẩm:

-

Sản phẩm lao động: của cải vật chất cho XH nhằm đáp ứng nhu cầu XH.

Toàn bộ sự vật hiện tượng xung quanh ta đều là sản phẩm hoạt động.


Sản phẩm 2 là sự hoàn thiện nhân cách của bản thân. Đó là quá trình tạo nên
TL, ý thức của con người tiến hành hoạt động. Hay nói cách khác, TLCN là sản
phẩm của hoạt động.

VD: Người thợ may muốn cắt may ra sản phẩm là cái áo thì người thợ may
chuyển khả năng cắt may và phẩm chất TL là sự chăm chỉ, khéo léo để tạo ra cái
áo. Nhìn vào cái áo người ta đánh giá được trình độ thợ may. Đồng thời khi làm ra
cái áo, người thợ may còn nắm bắt được đặc điểm đặc trưng bản chất của các loại
vải (bản chất TG).
c,Bài học kinh nghiệm: ( tự bản thân chém)
Câu 2: Phân tích cấu trúc của hoạt động để thấy được mối liên hệ giữa các
thành tố. Ý nghĩa của sự hiểu biết này
a, Khái niệm hoạt động:
Là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người và thế giới (khách thể) để
tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới và cả về phía con ng(chủ thể). Hay ns cách khác
hoạt động là quá trình con người thực hiện các quan hệ giữa mình và thế giới
tnhiên, xh, ng khác và bản thân.
b, Cấu trúc của hoạt động:
A.N.Lêônchiev nêu lên cấu trúc vĩ mô của hoạt động gồm 6 thành tố và mối
quan hệ của 6 thành tố: Hoạt động; Hành động; Thao tác; Động cơ; Mục đích;
Phương tiện.

+ Hoạt động được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định. Động cơ là cái quan trọng
nhất trong tâm lý con người. Có động cơ gần và động cơ xa. Động cơ xa là mục
đích chung của hoạt động;
+ Động cơ gần là mục đích bộ phận. Mục đích bộ phận là mục đích của từng hành
động.
+Hành động là bộ phận hợp thành của hoạt động. Mỗi hoạt động có thẻ gồm một
hay nhiều hành động tạo nên. Ngược lại một hành động có thể tham gia một hay
nhiều hoạt động khác nhau.
Hành động nhằm giải quyết một nhiệm vụ cụ thể trong điều kiện cụ thể. Tuỳ
mục đích và điều kiện cụ thể nơi diễn ra hành động mà xác định cách thức cụ thể
giải quyết nhiệm vụ. Cách thức này chính là các thao tác tạo nên hành động.


+ Mục đích hành động thực hiện được là nhờ thực hiện thao tác. Ngược lại,
các thao tác được quyết định bởi các công cụ, điều kiện bên ngoài.
- Tóm lại, cuộc sống của con người là một dòng các hoạt động. Dòng các hoạt
động này bao gồm các hoạt động riêng rẽ theo các động cơ tương ứng. Hoạt động
được hợp thành bởi các hành động theo một mục đích nhất định. Hành động do các
thao tác hợp thành và tuỳ thuộc các điều kiện cụ thể. Đó là cấu trúc vĩ mô của hoạt
động ở con người.
- Cần đặc biệt chú ý tới mối quan hệ qua lại giữa các thành tố trong cấu trúc hoạt
động. Sáu thành tố cùng với các mối quan hệ giữa chúng tạo thành cấu trúc vĩ mô
của hoạt động. Hoạt động là sự vận động của từng người, các thành tố và quan hệ
giữa chúng là sản phẩm nảy sinh chính trong sự vận động của hoạt động.
c, Ý nghĩa( tự lm)
Câu 3: Phân tích vai trò của hoạt động và giao tiếp đối với sự phát triển tâm
lý, ý thức con người. từ đó làm mối quan hệ giữa hoạt động và giao tiếp ?
*Khái niệm hoạt động: Là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người và thế giới
(khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới và cả về phía con ng(chủ thể).
Hay ns cách khác hoạt động là quá trình con người thực hiện các quan hệ giữa

mình và thế giới tnhiên, xh, ng khác và bản thân.
* Khái niệm của giao tiếp : Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người,
thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn
nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau.
- Vai trò của hoạt động trong sự hình thành và phát triển tâm lý : Hoạt động đóng
vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển tâm lý người; nó là hình
thức quan trọng nhất của mối quan hệ tích cực giữa con người với thế giới khách
quan; là phương thức tồn tại của con người.
- Vai trò của giao tiếp trong sự hình thành và phát triển tâm lý :Giao tiếp là điều
kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển tâm lý người ví nhờ có giao tiếp giữa
các thế hệ, giữa nhóm này với nhóm kia mà tâm lý người được nảy sinh và phát
triển.
(còn mối quan hệ: kẻ sơ đồ học sgk)
Câu 4: Từ các chức năng về giao tiếp, làm rõ vai trò của giao tiếp trong sự
hình thành và phát triển tâm lý, ý thức?


A, Khái niệm Giao tiếp: là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người, thông qua đó
con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng
tác động qua lại với nhau.
Mối quan hệ giao tiếp giữa con người với con người có thể xảy ra với các hình thức
khác nhau:
- Giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân.
- Giao tiếp giữa cá nhân với nhóm.
- Giao tiếp giữa nhóm với nhóm, giữa nhóm với cộng đồng…
Như vậy có thể nhận thấy giao tiếp vừa có tính chất xã hội, vừa có tính chất
cá nhân.
B, Chức năng của giao tiếp bao gồm:
- Định hướng: Là khả năng xác định mức độ nhu cầu tình cảm, vốn kinh
nghiệm, tư

tưởng, hứng thú … của đối tượng giao tiếp qua đó chủ thể giao tiếp có nội
dung giao
tiếp phù hợp với đối tượng.
Định hướng được tiến hành ngay cả trong quá trình giao tiếp để điều chỉnh
nội dung giao tiếp. Chức năng định hướng trong giao tiếp kết thúc khi quá trình
giao tiếp kết thúc.
- Điều khiển, điều chỉnh hành vi: Qua quá trình định hướng, chủ thể giao tiếp
điều
khiển, điều chỉnh hành vi cho phù hợp với đối tượng giao tiếp nhằm đạt mục
đích đã
đề ra.
- Giáo dục và phát triển nhân cách: Qua quá trình giao tiếp, chủ thể và đối
tượng giao
tiếp học hỏi lẫn nhau về chuẩn mực hành vi và đạo đức. Đây là điều kiện để
hình
thành và phát triển nhân cách.
C,Từ các chức năng trên chúng ta có thể thấy rằng giao tiếp có vai trò quan trọng
trong việc hình thành và phát triển tâm lý, ý thức.


Trong tâm lý: Giao tiếp là điều kiện tất yếu của sự hình thành và
phát triển tâm lý người ví nhờ có giao tiếp giữa các thế hệ, giữa nhóm này
với nhóm kia mà tâm lý người được nảy sinh và phát triển
Trong ý thức: Nhờ có ngôn ngữ ra đời cùng với lao động mà
con người có công cụ để xây dựng, hình dung ra mô hình tâm lý của sản
phẩm. Hoạt động ngôn ngữ giúp con người có ý thức về việc sử dụng công
cụ lao động, tiên shành hệ thống các thao tác hành động lao động để làm ra
sản phẩm. Ngôn ngữ cũng giúp con người phân tích, đối chiếu đánh giá sản
phẩm mà mình làm ra.
+ Hoạt động lao động là hoạt động tập thể, mang tính xã hội. Trong

lao động nhờ ngôn ngữ và giao tiếp mà con ngườithôn gbáo, trao đổi
thông tin với nhau, phối hợp động tác với nhau để cùng làm ra sản phẩm
chung. Nhờ có ngôn ngữ và giao tiếp mà con người có ý thức về bản thân
mình, ý thức về người khác trong lao động chung.

Do vậy, cần phải rèn luyện các kỹ năng giao tiếp. để không
ngừng phát triển tâm lý và ý thức.
“Sự phát triển của một các nhân phụ thuộc vào sự phát triển của các cá
nhân khác mà nó giao tiếp trực tiếp và gián tiếp”.
-

Câu 5: Phân tích vai trò của lao động và ngôn ngữ trong việc hình thành ý
thức của con người. Rút ra bài học thực tiễn?
Lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực. Lao động là hoạt
động có mục đích, có ý thức của con người nhằm tọa ra các sản phẩm phục vụ cho
các nhu cầu của đời sống XH. Lao động là hoạt động đặc trưng nhất, là hoạt động
sáng taọ của con người.
Ngôn ngữ là phương tiện của hoạt động giao tiếp giữa con người với con
người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác
lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng lao động và ngôn ngữ có vai trò quan
trọng trong việc hình thành ý thức của con người.
Vai trò của lao động với sự hình thành ý thức:
+ Điều khác biệt giữa con người và con vật là con người trước khi lao
động làm ra một sản phẩm lao động nào đó con người phải hình dung ra
trước mô hình của cái cần làm ra và cách làm ra cái đó trên cơ sở huy động
toàn bộ vốn hiểu biết, năng lực trí tuệ của mình vào đó. Con người có ý thức
về cái mình sẽ làm ra.




+ Trong lao động, con người phải chế tạo và sử dụng các công cụ lao
động, tiến hành các thao tác và hành động lao động tác động vào đối tượng
lao động để làm ra sản phẩm. ý thức của con người được hình thành và thể
hiện trong quá trình lao động.
+ Kết thúc quá trình lao động, con người có ý thức đối chiếu sản phẩm
làm ra với mô hình tâm lý của sản phẩm mà mình đã hình dung ra trước để
hoàn thiện, đánh giá sản phẩm đó. Như vậy, có thể nói ý thức được hình
thành và biểu hiện trong suốt quá trình lao động của con người, thống nhất
với quá trình lao động và sản phẩm lao động do mình làm ra.

Vai trò của ngôn ngữ với sự hình thành ý thức:
+ Nhờ có ngôn ngữ ra đời cùng với lao động mà con người có công cụ
để xây dựng, hình dung ra mô hình tâm lý của sản phẩm. Hoạt động ngôn
ngữ giúp con người có ý thức về việc sử dụng công cụ lao động, tiên shành
hệ thống các thao tác hành động lao động để làm ra sản phẩm. Ngôn ngữ
cũng giúp con người phân tích, đối chiếu đánh giá sản phẩm mà mình làm ra.
+ Hoạt động lao động là hoạt động tập thể, mang tính xã hội. Trong
lao động nhờ ngôn ngữ và giao tiếp mà con ngườithôn gbáo, trao đổi thông
tin với nhau, phối hợp động tác với nhau để cùng làm ra sản phẩm chung.
Nhờ có ngôn ngữ và giao tiếp mà con người có ý thức về bản thân mình, ý
thức về người khác trong lao động chung.
Câu 6: Phân tích sự hình thành ý thức và tự ý thức của cá nhân. Cho ví dụ
minh họa và rút ra bài học thực tiễn?
Trước hết, chúng ta nên hiểu tâm lý là thuộc tính đặc biệt của
vật chất có tổ chức cao với khả năng phản ánh thực tại kháchquan. Ý thức là
thuộc tính phân biệt người với động vật, và con người phải sử dụng nó trong
hầu hếtmọi lĩnh vực, mọi khía cạnh hoạt động của mình để cải tạo thế giới.
Tính chất ý thức trong các hiện tượng tâm lý của con người là biểu hiện chất
lượng mới, đặc thù của tâm lý con người


Thuật ngữ ý thức có thể được dùng với nghĩa rộng hoặc nghĩa
hẹp.
Theo nghĩa rộng, ý thức thường được dùng đồng nghĩa với tinh
thần, tư tưởng…
Theo nghĩa hẹp, ý thức được dùng để chỉ một cấp độ đặc biệt
trong tâm lý con người.
ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất riêng con người mới
có, phản ánh bằng ngôn



ngữ, là khả năng con người hiểu được các tri thức (hiểu biết) mà
con người đã tiếp thu được.

Theo đó, sự hình thành ý thức và tự ý thức của cá nhân có thể
được hiểu như sau
ý thức đối với cá nhân
+ ý thức của cá nhân được hình thành trong hoạt động và thể hiện
trong sản phẩm hoạt động của cá nhân.
+ ý thức của cá nhân được hình thành trong mối quan hệ giao tiếp
của cá nhân với người khác, với xã hội. Trong quan hệ giao tiếp con
người đối chiếu mình với người khác, với chuẩn mực đạo đức xã hội để
có ý thức về người khác và ý thức về chính bản thân mình.
+ ý thức của cá nhân được hình thành bằng con đường tiếp thu nền
văn hoá xã hội, ý thức xã hội.
Tự ý thức
ý thức của cá nhân được hình thành bằng con đường tự nhận thức,
tự đánh giá, tự phân tích hành vi của mình. Trong quá trình hoạt động và
giao tiếp trong xã hội cá nhân hình thành ý thức về bản thân mình (tự ý

thức) trên cơ sở đối chiếu mình với người khác, với chuẩn mực.

Như vậy, ở cấp độ ý thức con người nhận thức, tỏ thái độ có chủ
tâm và dự kiến trước được hành vi của mình, làm cho hành vi trở nên có ý
thức. ý thức thể hiện trong ý chí, trong chú ý.
VD: Lao động là hoạt động có ý thức của con người trong việc tạo ra
các của cải, sản phẩm; phục vụ chính nhu cầu của con người.
Tự ý thức là mức độ phát triển cao của ý thức. Tự ý thức bắt
đầu hình thành từ tuổi lên ba. Thông thường tự ý thức biểu hiện ở các mặt
sau :
+ Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội dung
tâm hồn, đến vị thế và các quan hệ xã hội.
+ Có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, tự đánh giá.
+ Tự điều chỉnh, tự điều khiển hành vi theo mục đích tự giác.
+ Có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện mình.
VD: Từ nhận thức, lao động là hoạt động có ý thức của con người
trong việc tạo ra các của cải, sản phẩm; phục vụ chính nhu cầu của con
người. Con người chúng ta sẽ nâng mức lao động đó từ ý thức lên tự ý thức
lao động, đó được hiểu như việc làm cần phải làm và nó đã trở thành thói
quen của con người trong cuộc sống hàng ngày.

Bài học thực tiễn:


Trong mối quan hệ giao tiếp và hoạt động, ý thức của cá nhân sẽ phát
triển dần đến cấp độ ý thức xã hội, ý thức nhóm, ý thức tập thể như ý thức về
gia đình, ý thức về dòng họ, ý thức dân tộc, ý thức nghề nghiệp…
Trong cuộc sống khi con người hành động, hoạt động với ý thức cộng
đồng, ý thức tập thể mỗi con người có thêm sức mạnh tinh thần mới mà con
người đó chưa bao giờ có được khi anh ta chỉ hoạt động với ý thức cá nhân

riêng lẻ.
Do vậy, mỗi chúng ta cần không ngừng rèn luyện ý thưc và tự ý thức,
nhất là trong công việc, góp phần hoàn thiện bản thân và nâng cao hiệu quả
trong các hoạt động.
Câu 7: Tại sao nói: “ Chú ý sau chủ định là loại chú ý có hiệu quả nhất định
đối đối với hoạt động nhận thức của con người”. Phân tích ý nghĩa của các loại
chú ý trong đời sống cá nhân.
Trong các hiện tượng tâm lí, chú ý là một hiện tượng tâm lí độc
đáo, luôn xuất hiện kèm theo các hoạt động, cũng như luôn có mặt trong các
quá trình nhận thức của cá nhân, làm cho chúng diễn ra với những sắc thái
khác nhau. Trong môi truờng xung quanh với vô vàn sự vật và hiện tượng
tác động vào, ý thức con người phải biết lựa chọn, biết tập trung vào một số
sự vật, hiện tượng nào đó của hiện thực hoặc một số thuộc tính của chúng,
nhằm có sự phản ánh rõ ràng những sự vật, hiện tượng hoặc những thuộc
tính của sự vật , hiện tượng đó,còn các sự vật hiện tượng khác ta không để ý
tới, hoặc để ý tới một cách mơ hồ không rõ ràng. Sự tập trung tư tưởng để
nhận thức một số đối tượng hay hiện tượng nào đó gọi là chú ý
Vậy, chú ý là sự tập trung của hoạt động tâm lý vào một hoặc một số
đối tượng nào đó, nhằm phản ánh chúng một cách đầy đủ, rõ ràng nhất.
Có thể khẳng định, chú ý sau chủ định là loại chú ý có hiệu quả nhất
đối với hoạt động nhận thức của con người bởi đây là loại chú ý cao cấp nhất
, bền vững nhất. Chú ý sau chủ định hình thành sau khi đã hình thành chú ý
có chủ định .Ở chú ý sau chủ định, đối tượng mà chú ý hướng tới gây nên
cho cá nhân những hứng thú đặc biệt .
Ví dụ : (*) ông X là nhân viên phòng khám nghiệm tử thi.Khi mới bắt
đầu công việc, phải có sự nỗ lực ý chí để tập trung chú ý vào cơ thể ng đã tử
vong. Trong thời gian đó, do say mê với công việc, bằng bất cứ giá nào cũng
làm được làm cho ông X hoàn toàn bị cuốn hút vào việc nghiên cứu, khám
nghiệm làm cho sự tham gia của chú ý trong việc duy trì chú ý là không cần
thiết nữa.




Do vây, chú ý được duy trì mà không cần có sự tham gia của ý chí.
Chú ý lúc này bộc lộ ở trạng thái say sưa công việc của con người ( như
trường hợp ông X trong tình huống (*) trên, do say mê công việc đã hoàn
toàn chú ý vào công việc mà không cần có sự nỗ lực của ý chí nữa ). Chính
vì thế, nó không gây nên trạng thái căng thẳng trong tâm lí cá nhân, giảm
căng thẳng thần kinh, giảm được tiêu hao năng lượng, cũng chính vì vậy mà
bền vững nhất.Chú ý là sự tập trung của hoạt động tâm lý vào một hoặc một
số đối tượng nào đó , nhằm phản ánh chúng một cách đầy đủ, rõ ràng nhất
nên chú ý càng bền vững, đối tượng của hoạt động tâm lý càng được phản
ánh sâu sắc, hoạt động nhận thức của con người càng hiệu quả.
* Phân loại, phân tích ý nghĩa của các loại chú ý trong đời sống:
Căn cứ vào tính tích cực của con người trong việc tổ chức chú ý có
thể chia chú ý làm 3 loại sau:

Chú ý không chủ định: Là sự tập trung ý thức lên một đối tượng
nhất định khi có sự tác động kích thích của đối tượng đó.
Đây là loại chú ý không có mục đích tự giác ,chú ý không nhằm mục
đích cụ thể, định trước, không cần những biện pháp và cố gắng căng thẳng,
không cần mất nhiều thời gian.Tuy nhiên loại chú này không bền vững. Chú
ý không chủ định xuất hiện do kích thích có một số đặc điểm như:
Tính chất mới mẻ, sinh động bất thường
Cường độ của kích thích
Độ hấp dẫn của vật kích thích
Sự bắt đầu hoặc kết thúc một kích thích
- Do có liên quan chặt chẽ tới nhu cầu, hứng thú, hiểu biết, kinh
nghiệm, trạng thái của chủ thể.
Nhiều trường hợp, chú ý không chủ định đóng vai trò tích cực trong

công tác, sinh hoạt... nhờ nó, con người có thể phát hiện kịp thời sự xuất hiện
kịp thời của một số sự vật, hiện tượng, từ đó nhanh chóng quyết định biện
pháp hành động cần thiết. Ví dụ: quay đầu về phía có tiếng động lạ, cứu
người khi nghe tiếng kêu cứu...

Chú ý có chủ định: Là sự điều chỉnh một cách có ý thức sự tập
trung lên một đối tượng nào đó nhằm thỏa mãn nh yêu cầu của hoạt động.
Đặc điểm nổi bật của chú ý có chủ định là tính mục đích. Đây là sự
định hướng hoạt động do bản thân chủ thể đặt ra. Do bản thân xác định mục
đích hành động nên chú ý có chủ định phụ thuộc nhiều vào chính mục đích
và nhiệm vụ hành động, chủ thể vẫn tập trung vào đối tượng hoạt động, vẫn
tiến hành hoạt động không phụ thuộc vào các đặc điểm của kích thích. Loại


chú ý này mang tính bền vững cao hơn. Tuy nhiên do cần phải có sự nỗ lực
cố gắng nên nếu kéo dài thì dễ gây căng thẳng, mệt mỏi. Đó cũng chính là
đặc điểm của loại chú ý này. Chú ý có chủ định được hình thành trong quá
trình học tập, lao động, chiến đấu...
Ví dụ: chú ý nghe bài giảng, chú ý quan sát đường phố khi lái xe...

Chú ý sau chủ định: Là sự tập trung ý thức tới một đối tượng
mà đối tượng đó có ý nghĩa nhất định đối với cá nhân.
Chú ý sau chủ định nảy sinh trên cơ sở chú ý có chủ định, nhưng
không giống chú ý có chủ định, không đồng nhất với chú ý không chủ định.
Đây là chú ý lúc đầu do mục đích định trước, về sao do hứng thú với hoạt
động mà chú ý có chủ định đã phát triển đến mức chủ thể không cần nỗ lực ý
chí vẫn tập trung vào đối tượng hoạt động. Loại chú ý này giúp cho hoạt
động của con người giảm được căng thẳng thần kinh, giảm được tiêu hao
năng lượng. Nó bộc lộ ở trạng thái say sưa công việc của con người.
Ví dụ : (*) ông X là nhân viên phòng khám nghiệm tử thi.Khi mới bắt

đầu công việc, phải có sự nỗ lực ý chí để tập trung chú ý vào cơ thể ng đã tử
vong. Trong thời gian đó, do say mê với công việc, bằng bất cứ giá nào cũng
làm được làm cho ông X hoàn toàn bị cuốn hút vào việc nghiên cứu, khám
nghiệm làm cho sự tham gia của chú ý trong việc duy trì chú ý là không cần
thiết nữa.
b) Căn cứ vào đối tượng mà chú ý hướng tới ta có thể phân chia chú ý
thành:
* Chú ý bên ngoài :Là loại chú ý hướng vào các sự vật, hiện tượng của
thế giới khách quan.Loại chú ý này đòi hỏi phải sử dụng các giác quan ( thị
giác, thính giác,..), gồm các kích thích từ bên ngoàithế giới khách quan tác
động lên các giác quan của con người.Có thể kể đến 1 số loiaj kích thích như
kích thích cường độ mạnh , kích thích có sự mới lạ, hay trậ tự sắp xếp, cấu
tạo của kích thích. Ví dụ như âm thanh mạnh, mùi khó chịu luôn gây được
sự chú ý.
* Chú ý bên trong: Là loại chú ý gắn liền với ý thức của cá nhan đối
với hành động của mình, đối với thế giới nội tâm và với ý thức bản ngã của
cá nhân đó. Chính vì vậy, chú ý bên trong chỉ có ở con người, còn động vật
không tồn tại loại chú ý này, do động vật không có ý thức đối với cuộc sống
nội tâm của chúng.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định rằng, chú ý sau chủ định là
loại chú ý có hiệu quả nhất đối với hoạt động nhận thức của con người bởi
đây là loại chú ý cao cấp nhất , bền vững nhất. Chú ý sau chủ định hình


thành sau khi đã hình thành chú ý có chủ định .Ở chú ý sau chủ định, đối
tượng mà chú ý hướng tới gây nên cho cá nhân những hứng thú đặc biệt .
Câu 8: Phân tích các thuộc tính cơ bản của chú ý. Biện pháp để rèn luyện và
pháp triển tốt các thuộc tính chú ý của cá nhân?
Chú ý là sự tập trung của hoạt động tâm lý vào một hoặc một số
đối tượng nào đó, nhằm phản ánh chúng một cách đầy đủ, rõ ràng nhất.

Chú ý có các thuộc tính cơ bản sau:
+ Thứ nhất là sức tập trung chú ý. Đây là khả năng tập trung vào một
phạm vi hẹp, chỉ chú ý đến một hay một số đối tượng cần thiết cho hoạt
động nhằm phản ánh đối tượng được tốt nhất, số lượng các đối tượng mà chú
ý hướng tới gọi là khối lượng chú ý. Sức chú ý càng cao thì cường độ chú ý
càng lớn và hiệu quả hoạt động cao.
+ Thứ hai là tính bền vững của chú ý. Đây là khả năng duy trì chú ý
trong một thời gian dài đối với một hay một số đối tượng nhất định không
chuyển sang đối tượng khác. Đối lập với tính bền vững là sự phân tán chú ý.
Phân tán chú ý là có chú ý nhưng không tập trung cao độ, lâu bền vào đối
tượng, cũng như không phân phối di chuyển chú ý một cách có tổ chức. Tính
bền vững của chú ý không mâu thuẫn với sức tập trung chú ý và sự di
chuyển của chú ý. Tính bền vững của chú ý có quan hệ mật thiết với các đặc
điểm của cá nhân cũng như điều kiện khách quan của hoạt động.
+ Thứ ba là sự phân phối chú ý. Đây là khả năng cùng một lúc chú ý
đầy đủ đến nhiều đối tượng hay nhiều hoạt động khác nhau một cách có chủ
định. Phân phối chú ý không có nghĩa là chia đều chú ý cho mọi đối tượng
hoạt động mà có sự không đồng đều chú ý ở các đối tượng khác nhau, đối
tượng chính được chú ý nhiều, các đối tượng khác được chú ý ít hơn. Muốn
phân phối chú ý tốt thì phải đưa một số đối tượng hoạt động trở thành quen
thuộc, chỉ có một hay một số hoạt động mới. Sự phân phối chú ý không có
mâu thuẫn gì với sức tập trung chú ý vì trong phân phối chú ý cũng có sự tập
trung chú ý vào hoạt động mới.
+ Thứ tư là sự di chuyển chú ý: Đó là khả năng chuyển chú ý từ đối
tượng này sang đối tượng khác theo yêu cầu của hoạt động. Sự di chuyển
chú ý không mâu thuẫn với độ bền vững của chú ý và cũng không phải phân
tán chú ý vì nó được di chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác một
cách có ý thức và khi chuyển sang đối tượng chú ý mới thì chú ý lại được tập
trung với cường độ cao.


Từ những đặc điểm về khả năng tập trung chú ý, để rèn luyện
khả năng này mỗi cá nhân khi tham gia vào các hoạt động cần có sự tập



trung chú ý, thiết lập tính bên vững của chú ý, biết phân phối chú ý, đồng
thời có sự di chuyển chú ý sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể.
VD: Khi ta tập trung nghe giảng viên giảng bài thì khi đó, mọi sự chú
ý đều hướng tới giảng viên, về lời nói, cử chỉ, thái độ … Biết phân phối chú
ý, di chuyển chú ý sang chủ thể giao tiếp khác trong hoàn cảnh đó, có thể đó
là câu hỏi hoặc câu trả lời của bạn sinh viên nào đó trong lớp. Việc tập trung
đó giúp chúng ta tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng mà không cảm thấy gò
bó.

Chương III:HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC
Câu 1:So sánh đặc điểm của cảm giác và tri giác.Tại sao nói:”Cảm giác và tri
giác có vai trò to lớn trong hoạt động nhận thức của con người”.
Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật và
hiện tượng đang tác động trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.
Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự
vật,hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.


So sánh:
 Giống:-Đều là quá trình tâm lí,có nảy sinh,diễn biến và kết thúc.
-Đều phản ánh thuộc tính bên ngoài của sự vật,hiện tượng.
-Đều phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp(phản ánh sự
vật,hiện tượng tác động tới ta).
 Khác:
Cảm giác

-Chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng
lẻ của sự vật,hiện tượng.Kích thích
gây ra chính là sự vật,hiện tượng
trong hiện thực khách quan và chính
trạng thái tâm lí của ta.
-Phản ánh hiện thực khách quan một
cách trực tiếp tác động vào giác
quan của ta.

Tri giác
-Phản ánh sự vật,hiện tượng một
cách trọn vẹn.Tính trọn vẹn của tri
giác do tính tọn vẹn khách quan của
bản thân sự vật,hiện tượng.
-Tri giác phản sánh sự vật,hiện
tượng
Theo những cấu trúc nhất định.
-Tri giác là quá trình tích cực,gắn
liền với hoạt động của con
người.Nó mang tính tự giác,giải
quyết một nhận thức cụ thể nào
đó,là một hành động tích cực trong


đó có sự kết hợp chặt chẽ của các
→Cảm giác phản ánh tâm lí ở mức yếu tố của cảm giác và vận động.
thấp.
→Tri giác là mức phản ánh cao hơn
cảm giác nhưng vẫn thuộc giai đoạn
nhận thức cảm tính,chỉ phản ánh

những thuộc tính bên ngoài của sự
vật,hiện tượng đang tác động trực
tiếp đến ta.



Giải thích câu nói:”Cảm giác và tri giác có vai trò to lớn trong hoạt động
nhận thức của con người”.
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, nhận thức được định nghĩa là quá trình
phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người,
có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.
Những đặc điểm của nhận thức cảm tính nói lên rằng nhận thức cảm tính là
giai đọan đầu, sơ đẳng trong toàn bộ nhận thức của con người. Muốn tiến bộ
con người phải nhận thức nhiều hơn, cao hơn, sâu sắc hơn… Tuy nhiên,
nhận thức cảm tính vẫn giữ vai trò rất quan trọng đối với hoạt động nhận
thức của con người:
- Cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của con người nhưng là hình
thức định hướng phổ biến và chủ yếu của con người. Nhờ mắt thấy, tai nghe
mà chúng ta có các hành động chính xác và giữ được an toàn cho cơ thể.
Những người bị khuyết tật, họ bị mất nhiếu khả năng định hướng nên hành
động đơn điệu, đó là những thiệt thòi.
- Cảm giác là nguồn cung cấp nguyên liệu để con người tiến hành những
quá trình nhận thức cao hơn. “Cảm giác là viên gạch xây nên tòa lâu đài
nhận thức”.V.I. Lênin viết: “Tất cả hiểu biết đều bắt nguồn từ kinh nghiệm,
từ cảm giác, tri giác”, “ Nếu không có cảm giác thì chúng ta không thể biết
gì hết về những hình thức của vật chất cũng như về những hình thức của vận
động.”
- Cảm giác là điều kiện quan trọng để đảm bảo trạng thái hoạt động của vỏ
não, có cảm giác hoạt động thần kinh của con người được bình thường.
Nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực này đã cho thấy nếu “đói cảm giác” các

chức năng tâm lý và sinh lý của con người sẽ bị rối loạn.
- Với tư cách là mức độ nhận thức cao hơn cảm giác, tri giác có vai trò quan
trọng đối với con người, nó cung cấp tài liệu cho trí nhớ, tư duy, tưởng
tượng, ngôn ngữ…


- Tri giác là một điều kiện quan trọng cho sự định hướng hành vi và hoạt
động của con người trong môi trường. Nhờ có tri giác mà con người có cách
xử sự thích hợp hơn.
- Đặc biệt sự tri giác cao, tích cực, chủ động và có mục đích là quan sát đã
làm cho tri giác của con người khác xa tri giác của con vật. Cùng với sự phát
triển và phức tạp dần lên của đời sống tâm lý con người, quan sát trở thành
một mặt tương đối độc lập của hoạt động và trở thành một phương pháp
nghiên cứu khoa học tương đối quan trọng.
Câu 2:Phân tích vai trò của cảm giác và tri giác.Qua đó rút ra bài học thực
tiễn.
Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật
và hiện tượng đang tác động trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.
Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của
sự vật,hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.


Phân tích vai trò:
Trong cuộc sống và hoạt động nhận thức của con người thì cảm giác giữ vai
trò quan trọng.
Cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của con người (con vật)
trong hiện thực khách quan.Trong mỗi giây đồng hồ,cơ quan cảm giác đã
nhận,chọn lọc và gửi về não hàng ngàn thông tin về môi trường xung quanh
và của chính cơ thể mình,nhờ đó giúp con người định hướng được trong
không gian dù đây vẫn còn là định hướng đơn giản nhất.

Cảm giác còn là nguồn cung cấp những nguyên liệu cho các hình thức
nhận thức cao hơn.Như từ sự khái quát đã được trừu tượng từ các cảm giác
trong mối liên hệ qua lại giữa các thành phần của cấu trúc của tri giác trong
một khoảng thời gian nhất định(ví dụ như nghe một ngôn ngữ mà hiểu được)
,tạo nên tính kết cấu của tri giác.Không chỉ có tri giác mà cảm giác còn cung
cấp nguyên liệu cho tư duy và tưởng tượng của nhận thức lí tính thông qua
trí nhớ.V.I Leenin đã nói:”Ngoài thông qua cảm giác,chúng ta không thể
nhận thức được bất cứ một hình thức nào của vật chất,cũng như bất cứ hình
thức nào vận động và tiền đề đầu tiên của lí luận về nhận thức chắc chắn nói
rằng cảm giác là nguồn gốc duy nhất của hiểu biết”.
Cảm giác còn là điều kiện quan trọng để đảm bảo trạng thái hoạt động
của vỏ não bộ,nhờ đó đảm bảo hoạt động tinh thần của con người được bình
thường.




Cảm giác là con đường nhận thức hiện thực khách quan đặc biệt quan
trọng của những người khuyết tật.Những người khuyết tật,họ bị khiếm
khuyết một trong số các giác quan (thị giác,xúc giác,vị giác,thính giác,khứu
giác)nhưng các giác quan còn lại rất phát triển.Họ có thể nhận ra đồ
vật,người thân nhờ cảm giác,đặc biệt là xúc giác.
Tri giác là một phần của nhận thức cảm tính.Nó là một điều kiện quan trọng
trong sự định hướng hành vi và hoạt động của con người trong môi trường
xung quanh.Hình tượng-hình ảnh của tri giác thực hiện chức năng điều chỉnh
hành động.Đặc biệt là quan sát-hình thức tri giác cao nhất đã trở thành một
mặt tương hỗ độc lập của hoạt động(chủ yếu là lao động).Trong nghiên cứu
khoa học thì quan sát đã trở thành một phương pháp nghiên cứu quan trọng.
Bài học thực tiễn:
Cảm giác có vai trò quan trọng đối với quá trình thực tiễn cần rèn luyện cảm

giác cho bản thân bằng cách tích cực rèn luyện trong môi trường lao động
của mình để làm cho các giác quan phát triển làm tăng độ nhạy cảm của cảm
giác.

Câu 3:Phân tích các quy luật cơ bản của cảm giác.Nêu ứng dụng của chúng
trong đời sống và hoạt động của con người.
Cảm giác của con người diễn ra theo những quy luật nhất định.Những quy luật
của cảm giác gồm:
Quy luật ngưỡng cảm giác:Muốn có cảm giác phải có sự kích thích vào các
giác quan và kích thích đó phải đạt tới một giới hạn nhất định.Giới hạn mà ở đó
kích thích gây ra được cảm giác là ngưỡng cảm giác.
Có ngưỡng cảm giác phía trên và ngưỡng cảm giác phía dưới.
Ngưỡng cảm giác phía dưới(ngưỡng tuyệt đối):cường độ kích thích tối thiểu để gây
được cảm giác.
Ngưỡng cảm giác phía trên là kích thích tối đa mà vẫn còn gây được cảm giác.
Phạm vi giữa hai ngưỡng cảm giác là vùng cảm giác được,trong đó có một vùng
phản ánh tốt nhất.
Mỗi giác quan thích ứng với một loại kích thích nhất định và có những ngưỡng xác
định.Ví dụ con người có thể nghe được trong khoảng từ 16Hz đến 20000Hz,nghe
tốt nhất ở mức 100Hz.


Cảm giác còn phản ánh sự khác nhau giữa các kích thích.Nhưng kích thích phải có
tỉ lệ chênh lệch tối thiểu về cường độ hay về tính chất thì ta mới cảm thấy có sự
khác nhau giữa hai kích thích.Mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc về
tính chất của hai kích thích đủ để phân biệt sự khác nhau giữa chúng là ngưỡng sai
biệt.Ngưỡng sai biệt của mỗi cảm giác là một hằng số.Ví dụ đối với thị giác là
1/100,thính giác là 1/10.
Ngưỡng cảm giác phía dưới và ngưỡng sai biệt tỉ lệ nghịch với độ nhạy cảm của
cảm giác và với độ nhạy cảm của sai biệt:Ngưỡng tuyệt đối càng nhỏ thì độ nhạy

cảm của cảm giác càng cao và ngưỡng sai biệt càng nhỏ thì độ nhạy cảm sai biệt
càng cao.Ví dụ ngưỡng sai biệt về thính giác thấp thì cảm thụ âm nhạc tốt như
trường hợp của nhà soạn nhạc Bét-tô-ven hay ngưỡng sai biệt về thị giác thấp thì
có khả năng hội họa tốt như danh họa Picasxo.Những ngưỡng này khác nhau ở mỗi
loại cảm giác và ở mỗi người khác nhau. Ngưỡng chịu đau trên người bình thường
là 96.90±17.43g/s. Còn ở ngưỡng chịu đau ở người bệnh nhồi máu não là
265.6±27.6g/s.
Quy luật thích ứng cảm giác:Để phản ánh tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh.Cảm
giác của người có khả năng thích ứng với kích thích. Thích ứng là khả năng thay
đổi độ nhạy cảm của cảm giác sao cho phù hợp với sự thay đổi của cường độ kích
thích.Cường độ kích thích tỉ lệ nghịch với độ nhạy cảm.
Ví dụ khi ở chỗ sáng vào chỗ tối thì lúc đầu ta không thấy gì sau đó mới nhìn rõ
mọi vật xung quanh(thích ứng).
Quy luật thích ứng có trong tất cả các loại cảm giác,nhưng mức độ kích thích khác
nhau (cảm giác thị giác có khả năng kích thích cao,cảm giác đau hầu như không có
thích ứng)
Quy luật tác động lẫn nhau của cảm giác:Cảm giác không tồn tại độc lập mà
luôn tác động lẫn nhau.Sự tác động qua lại giữa các cảm giác là sự thay đổi tính
nhạy cảm của một cảm giác này dưới ảnh hưởng của cảm giác kia.
Các cảm giác làm thay đổi tính nhạy cảm của nhau theo quy luật:Sự kích thích yếu
lên một cơ quan phân tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích
kia,sự khích thích mạnh lên một cơ quan phân tích này sẽ làm giảm độ nhạy cảm
của một cơ quan phân tích kia.
Ví dụ:Ăn ở nhà hàng,mà được nghe một bài hát hay khiến cho ta cảm thấy ngon
miệng.
Đang ốm thì ăn gì cũng không thấy ngon.





Ứng dụng trong thực tế:Sự thích ứng nghề nghiệp của người lao động.Như
người công nhân luyện kim do rèn luyện trong môi trường làm việc thì có
thể chịu đựng nhiệt độ cao từ 50ᵒC đến 60ᵒC trong hàng giờ đồng hồ.
Quy luật của cảm giác còn được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực nội
thất(trang trí đẹp mắt về màu sắc,ánh sáng),ẩm thực(trình bày món ăn đẹp
mắt) và trong thời trang(phối màu cho trang phục).

Câu 4:Phân tích quy luật cơ bản của tri giác. Nêu ứng dụng của chúng trong
đời sống và hoạt động của con người.
Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự
vật,hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.


Tri giác có những quy luật sau:
Quy luật về tính đối tượng của tri giác:Tính đối tượng của tri giác nói lên sự
phản ánh hiện thực khách quan chân thực của tri giác và nó được hình thành
do sự tác động của sự vật,hiện tượng xung quanh vào giác quan của con
người trong hoạt động những nhiệm vụ thực tiễn.Tính đối tượng của tri giác
có vai trò quan trọng khi nó là cơ sở chức năng định hướng cho hành vi và
hoạt động của con người.
Quy luật về tính lựa chọn của tri giác:Tri giác không thể đồng thời phản ánh
tất cả sự vật hiện tượng đa dạng đang tác động mà chỉ tách đối tượng khỏi
bối cảnh.
Sự lựa chọn tri giác không có tính chất cố định,vai trò của đối tượng và bối
cảnh có thể thay đổi cho nhau,tùy thuộc vào mục đích cá nhân và điều kiện
xung quanh khi tri giác.
Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác:Tri giác ở người gắn với tư duy,với
bản chất sự vật,hiện tượng;nó diễn ra có ý thức,tức là gọi tên được sự
vật,hiện tượng đang tri giác ở trong óc,xếp được chúng vào một nhóm,một
lớp sự vật,hiện tượng nhất định,khái quát từ những xác định.Trong tri

giác,việc tách đối tượng ra khỏi bối cảnh gắn liền với việc hiểu ý nghĩa và
tên gọi của nó.
Quy luật về tính ổn định của tri giác:
Tính ổn định của tri giác là khả năng phản ánh sự vật,hiện tượng không thay
đổi trong khi điều kiện tri giác thay đổi.Ví dụ:trước mặt ta là em bé xa hơn là
ông già.Trên võng mạc của ta có hình ảnh đứa bé lớn hơn hình ảnh ông già
nhưng ta vẫn tri giác ông già lớn hơn đứa bé.


Tính ổn định của tri giác được hình thành trong hoạt động đối tượng là một
điều kiện cần thiết để định hướng trong đời sống và trong hoạt động của con
người giữa thế giới đa dạng và biến đổi vô tận.
Quy luật tổng giác
Ngoài vật kích thích bên ngoài,tri giác còn bị quy định bởi một loại nhân tố
nằm trong bản thân chủ thể tri giác(nhu cầu,hứng thú,sở thích,mục đích,động
cơ..) như câu thơ của nhà thơ Nguyễn Du:”Người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ”
Sự phụ thuộc của tri giác vào nội dung đời sống tâm lí con người,vào đặc
điểm nhân cách của họ được gọi là hiện tượng tổng giác chứng tỏ ta có thể
điều khiển được tri giác.
Ảo ảnh:tri giác không đúng,bị sai lệch.
• Ứng dụng:Những quy luật của tri giác được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực
của đời sống.
Người ta ứng dụng quy luật về tính đối tượng của tri giác để phân biệt hàng
thật,hàng giả.
Quy luật về tính lựa chọn của tri giác được ứng dụng nhiều trong thực tế như
kiến trúc,trang trí,ngụy trang(quân sự) và trong dạy học như khi trình bày
chữ viết lên bảng,cần dùng màu mực khác hay gạch chân dưới những chữ
quan trọng.
Quy luật tổng giác được ứng dụng trong dạy học và giáo dục :cần phải tính

đến kinh nghiệm,hiểu biết của học sinh và hứng thú của họ...đồng thời việc
cung cấp tri thức,kinh nghiệm,giáo dục niềm tin nhu cầu...cho học sinh để
làm cho sự tri giác hiện thực của h/sinh tinh tế,súc tích hơn.
Người ta lợi dụng ảo ảnh vào trong kiến trúc,hội họa,trang trí và thời
trang...để phục vụ cho cuộc sống con người.
Câu 5:Phân tích các đặc điểm của tư duy và đưa ra các biện pháp phát triển
tư duy của bản thân.
Tư duy là một quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất,những mối liên
hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật,hiện tượng trong hiện
thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.
• Đặc điểm của tư duy
Là một mức độ mới của nhận thức lí tính,tư duy có những đặc điểm cơ bản
sau đây:
Tính “có vấn đề” của tư duy:Muốn kích thích được tư duy phải đồng thời có
hai điều kiện:
+Gặp tình huống(hoàn cảnh)có vấn đề tức là tình huống chứa đựng một mục
đích mới,một vấn đề mới ,một cách thức giải quyết mới mà những phương


tiện,phương pháp hoạt động cũ,mặc dù vẫn còn cần thiết nhưng vẫn đủ sức
để giải quyết vấn đề mới đó,đạt được mục đích mới thì phải tìm ra cách giải
quyết mới,tức là phải tư duy.
+Hoàn cảnh có vấn đề đó phải được cá nhân nhận thức đầy đủ,được chuyển
thành nhiệm vụ của cá nhân,tức là cá nhân phải xác định được dữ kiện đã
biết đã biết và cái gì còn chư biết,phải tìm đồng thời phải có nhu cầu(động
cơ)tìm kiếm nó.Những dữ kiện quen thuộc hoặc nằm ngoài tầm hiểu biết của
cá nhân thì tư duy không xuất hiện nữa.
Ví dụ: một bài toán nhân sẽ là vấn đề đối với một học sinh lớp hai nhưng
không phải là vấn đề đối với một sinh viên đại học.
Tính gián tiếp của tư duy:Tư duy phát hiện ra bản chất của sự vật,hiện tượng

và quy luật giữa chúng nhờ sử dụng công cụ,phương tiện(máy móc,đồng
hồ,...) và kết quả nhận thức(như quy tắc,công thức,quy luật,các phát minh...)
của loài người và kinh nghiệm của mối cá nhân.Tính gián tiếp của tư duy
còn được thể hiện trong ngôn ngữ.Con người luôn dùng ngôn ngữ để tư
duy.Nhờ đặc điểm gián tiếp này tư duy đã mở rộng không giới hạn những
khả năng nhận thức của con người.
Tình trừu tượng và khái niệm của tư duy:Tư duy phản ánh cái bản chất
nhất,chung cho nhiều sự vật,hiện tượng hợp thành một nhóm.một loại,một
phạm trù đồng thời trừu tượng xuất khỏi những sự vật những cái cụ thể,cá
biệt.Nói cách khác tư duy mang tính trừu tượng và khái quát.Thí dụ tư duy
để phân biệt “cái bàn” với những cái bàn khác là muốn nói tới cái bàn nói
chung,gồm tất cả cá bàn chứ không chỉ một cái bàn cụ thể nào.
Nhờ có tính trừu tượng và khái quát tư duy không chỉ giải quyết những
nhiệm vụ hiện tại mà còn giải quyết được những nhiệm vụ sau này của con
người.Nhờ có tính khái quát tư duy trong khi giải quyết một nhiệm vụ cụ thể
vẫn được xếp vào một phạm trù,một nhóm,vẫn nêu thành quy tắc,phương
pháp được sử dụng trong những trường hợp tương tự.Ví dụ nếu ta giải được
một bài toán thì ta vẫn có thể dùng phương pháp giải của bài toán đó cho
những bài toán khác tương tự.
Tư duy liện hệ chặt chẽ với ngôn ngữ:Tư duy trừu tượng,trực tiếp,khái quát
dùng ngôn ngữ làm phương tiện cho mình.Nếu không có ngôn ngữ thì bản
thân quá trình tư duy không diễn ra được và đồng thời sản phẩm của tư duy
cũng không được chủ thể và người khác tiếp nhận.Ngôn ngữ có định lại các
kết quả của tư duy nhờ đó làm khác quan chúng cho người khác và cho bản
thân chủ thể tư duy.Như để trả lời một câu hỏi trong bài thi ta sử dụng ngôn
ngữ viết hoặc nói (cụ thể bằng số liệu,lí lẽ dẫn chứng ) với mục đích là giải
quyết vấn đề của câu hỏi để trình bày bài làm vào tờ giấy thi trong giờ thi





viết hay trình bày trước thầy cô trong buổi thi vấn đáp.Như vậy ngôn ngữ là
phương tiện của tư duy.
Tư duy có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính:Tư duy phải dựa trên
những tài liệu cảm tính,trên kinh nghiệm,trên cơ sở trực quan.Nhận thức cảm
tính là một khâu của mối liên hệ giữa tư duy với hiện thực,là cơ sở của
những khái quát kinh nghiệm dưới dạng các khái niệm quy luật.Ngược lại tư
duy và sản phẩm của nó cũng ảnh hưởng tới quá trình nhận thức cảm
tính.Như Ph Awngghen nói:”Nhập vào với con mắt của chúng ta chẳng
những có cảm giác khác,mà còn có cả hoạt động tư duy của ta nữa”.
Biện pháp phát triển tư duy cho bản thân:
-Luôn đặt mình trong hoàn cảnh có vấn đề cụ thể và đặt ra cho bản thân các
câu hỏi như “tại sao”,”tại sao nó thế này mà không phải là thế khác”,...để
kích thích tư duy giải quyết vấn đề.
-Trau dồi vốn ngôn ngữ và nâng cao khả năng vận dụng kiến thức bằng cách
tích cực tham gia các hoạt động nhóm trong học tập giải quyết cùng một vấn
đề.
-Rèn luyện khả năng quan sát,cảm giác,tri giác và trí nhớ bằng cách thu thập
thông tin ngẫu hứng,ghi nhớ những điều cơ bản nhất của vấn đề ,đưa ra
những câu hỏi lật ngược vấn đề để kích thích tư duy.

Câu 6:Phân tích các thao tác của tư duy và mối liên hệ giữa các thao tác
đó.Rút ra bài học thực tiễn.
Tư duy là một quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất,những mối liên
hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật,hiện tượng trong hiện thực
khách quan mà trước đó ta chưa biết.
Về bản chất thì tư duy là quá trình cá nhân sử dụng các thao tác trí tuệ nhất định để
giải quyết vấn đề hay nhiệm vụ được đặt ra.Các thao tác của tư duy gồm có:
Phân tích,tổng hợp:
Phân tích:quá trình dùng trí óc để phân chia đối tượng nhận thức thành các bộ

phận,các thành phần khác nhau.Ví dụ cây xanh gồm có:rễ,thân,cành,lá,hoa,quả.
Tổng hợp là quá trình dùng trí óc để hợp nhất các thành phần đã được tách rời nhờ
sự phân tích một các chỉnh thể. Ví dụ khi làm một bài văn mà ta đã phân tích các ý
ở phần thân bài thì phần kết bài là phần tổng kết lại nội dung của toàn bài.


Mối quan hệ giữa phân tích và tổng hợp là có mối quan hệ chặt chẽ,thống
nhất,không tách rời:Sự phân tích được tiến hành theo hướng tổng hợp,còn sự tổng
hợp được thực hiện theo kết quả của phân tích.
So sánh:quá trình dùng trí óc để xác định sự giống nhau và khác nhau,sự đồng nhất
hay không đồng nhất,sự bằng nhau hay không bằng nhau giữa các đối tượng nhận
thức.Ví dụ khi ta muốn so sánh giữa cảm giác và tri giác thì ta sẽ so sánh sự giống
và khác nhau giữa chúng.
So sánh có liên quan chặt chẽ tới phân tích-tổng hợp,vì mỗi sự vật đều có nhiều
thuộc tính,nhiều khía cạnh,nhiều bộ phận.Do đó muốn so sánh ta cần phải có phân
tích,tổng hợp.
Nhờ so sánh ta biết được cái giống và cái khác,cái chung và cái riêng.Bằng so sánh
ta có thể tiếp thu được tính đa dạng,độc đáo của tài liệu học tập.
Trừu tượng hóa và khái quát hóa:
Trừu tượng hóa:là quá trình dùng trí óc để gạt bỏ những thuộc tính,những
mặt,những liên hệ thứ yếu,không cần thiết mà chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết
cho tư duy.Ví dụ :sắt,nhôm,đồng ,...được gạt bỏ những thuộc tính riêng lẻ như khối
lượng,độ bền,độ cứng thì được tư duy giữ lại cái bản chất nhất là chúng đều là kim
loại dẫn điện,dẫn nhiệt tốt.
Khái quát hóa là quá trình dùng trí óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác nhau thành
một nhóm,một loại theo những thuộc tính,những liên hệ chung nhất định.Những
thuộc tính chung này gồm có những thuộc tính chung giống nhau và những thuộc
tính chung bản chất.Ví dụ:kim khâu,kim tiêm,kim châm cứu,...đều là vật được làm
từ kim loại,nhỏ ,có đầu nhọn để đâm thủng bề mặt...nên đều gọi là kim.
Muốn vạch ra được những dấu hiệu bản chất thì cần có sự phân tích,tổng hợp sâu

sắc sự vật hiện tượng định khái quát.Trừu tượng hóa và khái quát hóa có mối quan
hệ qua lại với nhau nhưng ở mức độ cao hơn.


Bài học thực tiễn:quá trình tư duy là quá trình thực hiện những thao tác tư
duy để giải quyết một vấn đề nào đó.Các thao tác tư duy đều có mối quan hệ
mặt thiết với nhau nhưng không phải quá trình tư duy nào cũng diễn ra tất cả
các thao tác tư duy mà tùy thuộc vào nhiệm vụ cụ thể nó diễn ra theo thứ tự
khác nhau,đan chéo nhau.Để tránh tình trạng:”Thấy cây mà không thấy
rừng,thấy rừng mà không thấy cây”.Cho nên cần phải nắm được đặc điểm
này vì nhờ nó mà con người có thể nhìn xa vào tương lai,không chỉ giải


quyết được vấn đề hiện tại mà còn giải quyết được vấn đề mai sau.Như do
nắm bắt được quy luật đàn hồi của kim loại,người kĩ sư đã thiết kế đường
ray với những khoảng cách nhỏ giữa các đoạn đường ray .
Câu 7:Phân tích các giai đoạn của quá trình tư duy.Liên hệ phát triển khả
năng tư duy bản thân.
Tư duy là một quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất,những mối liên
hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật,hiện tượng trong hiện thực
khách quan mà trước đó ta chưa biết.
Tư duy là một hành động.Mỗi hành động tư duy là một quá trình giải quyết nhiệm
vụ nào đó nảy sinh ra trong quá trình nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn quá
trình tư duy bao gồm nhiều giai đoạn từ khi gặp phải tình huống có vần đề,nhận
thức được vấn đề cho đến khi vấn đề được giải quyết.

Sơ đồ tóm tắt một quá trình tư duy:
Nhận
ư
duy

là một
thức
quá đề
vấn
trình
tâm lí
phản

Xuất
hiện các
liên
tưởng

Sàng lọc
liên
tưởng và
hành
động giả
thuyết

Kiểm
tra giả
thuyết

Chính xác hóa

Khẳng định

Phủ định


Giải quyết vấn đề

Hành động tư
duy mới

Xác định vấn đề và biểu đạt vấn đề:Hoàn cảnh có vấn đề là điều kiện quan trọng
của tư duy.Tư duy chỉ nảy sinh khi con người nhận thức được hoàn cảnh có vấn đề
và biểu đạt của nó.
Hoàn cảnh có vấn đề chứa đựng các mâu thuẫn khác nhau(chứa cái đã biết và cái
chưa biết).Con người càng có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực nào đó thì càng dễ
dàng nhìn ra đầy đủ những mâu thuẫn đó,tức là họ nhận ra lĩnh vực cần giải quyết.
Ví dụ: Nhà quản lý có kiến thức cao, từng làm việc nhiều năm có nhiều kinh
nghiệm và có nhu cầu giải quyết vấn đề cao thì sẽ nhìn nhận vấn đề sâu sắc và toàn


diện hơn nhà quản lý có kiến thức thấp mới đi làm và không có mong muốn giải
quyết vấn đề.
Chính những vấn đề cần giải quyết này quyết định toàn bộ cải biến sau đó những
dữ kiện ban đầu thành nhiệm vụ và việc biểu đạt vấn đề dưới dạng nhiệm vụ sẽ
quyết định toàn bộ các khâu sau đó của quá trình tư duy,quyết định chiến lược tư
duy.Đây là giai đoạn đầu tiên và quan trọng nhất của quá trình tư duy.
Huy động các tri thức,kinh nghiệm:Khâu này xuất hiện ở trong đầu những tri
thức,kinh nghiệm,những liên tưởng nhất định có liên quan nhất định có liên quan
đến vấn đề đã được xác định và biểu đạt.Việc xuất hiện những tri thức,kinh nghiệm
liên tưởng này hoàn toàn phụ thuộc vào nhiệm vụ đã xác định.
Sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết:Các tri thức và liên tưởng ban đầu
còn xuất hiện bao trùm,rộng rãi,chưa khu biệt nên cần được sàng lọc cho phù hợp
với nhiệm vụ được ra.Trên cơ sở sàng lọc tri thức thì xuất hiện giả thuyết,tức là
cách giải quyết có thể có với nhiệm vụ tư duy.
Ví dụ: sau khi thu thập thông tin về một vấn đề tâm lý nào đó thông qua những tờ

trắc nghiệm người ta không dùng thông tin của tất cả các phiếu mà chỉ dùng những
phiếu có nội dung chân thực đễ sử dụng.
Chính sự đa dạng và độ biến động rộng của các giả thuyết cho phép xem xét cùng
một sự vật,hiện tượng từ nhiều hướng khac nhau trong các hệ thống liên hệ,quan hệ
khác nhau để tìm ra cách giải quyết đứng đắn nhất và tiết kiệm nhất.
Kiểm tra giả thuyết:
Việc kiểm tra xem giả thuyết nào tương ứng với các điều kiện và vấn đề đặt ra.Việc
kiểm tra diễn ra trong đầu hoặc trong thực tiễn.Kết quả kiểm tra dẫn đến khẳng
định,phủ định hay chính xác hóa giả thuyết đã nêu.
•Phương án được khẳng định thì sẽ đi đến giải quyết vấn đề bằng phương án đó.
• Phương án bị phủ dịnh thì hình thành một quá trình tư duy mới tìm ra phương án
mới phù hợp hơn đễ giải quyết vấn đề.
Trong giai đoạn này sau khi kểm tra các phương án đôi khi chủ thể tư duy sẽ phát
hiện ra một số nhiệm vụ mới cần giải quyết,do đó lại bắt đầu một quá trình tư duy
mới.
Giải quyết nhiệm vụ:Đây là khâu cuối cùng của quá trình tư duy.Khi kết quả được
kiểm định thì nó sẽ được thực hiện,tức là đi tìm câu trả lời cho vấn đề được đặt ra.


×