Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Hoàn thiện quy định của bộ luật tố tụng hình sự về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.73 KB, 18 trang )

Hoàn thiện quy định của BLTTHS về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
trong tố tụng hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (viết tắt là BLTTHS) đã quy định
thủ tục rút gọn (sau đây viết tắt là TTRG) tại Chương XXXIV gồm
07 điều từ Điều 318 đến Điều 324 bao gồm các vấn đề phạm vi,
điều kiện, thẩm quyền, thời hạn và thủ tục áp dụng. Nhìn chung,
quy định về TTRG trong BLTTHS đã đáp ứng được yêu cầu cải cách
tư pháp cũng như kế thừa các hướng dẫn về TTRG trong các văn
bản pháp luật trước đó. Theo đó, các quy định về TTRG trong
BLTTHS đã đơn giản về thủ tục, rút ngắn về thời gian giúp giải
quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn đảm bảo việc
xác định sự thật khách quan của vụ án, xử lý đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người
tham gia tố tụng mà trực tiếp là quyền của bị can, bị cáo. Tuy
nhiên, thực tế, số lượng các vụ án được giải quyết theo TTRG
không đáng kể so với số vụ án mà các các cơ quan tiến hành tố
tụng giải quyết hàng năm. Vì vậy, để góp phần phát huy ý nghĩa,
vai trò của TTRG trong giải quyết các vụ án hình sự, cần thiết phải
hiểu rõ quy định của BLTTHS về TTRG; những vướng mắc, bất cập
qua thực tiễn áp dụng; những yêu cầu cần phải đảm bảo khi xây
dựng quy định TTRG trong tố tụng hình sự và đề xuất kiến nghị
hoàn thiện thủ tục này. Vậy nguyên nhân của tình trạng này do
đâu em xin được lựa chọn đề bài: “Hoàn thiện quy định của
BLTTHS về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng
hình sự” để làm rõ vấn đề này.
I. Quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 về thủ tục rút
gọn


1. Khái niệm thủ tục rut gọn.
Thủ tục rút gọn là thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự được áp


dụng với những vụ án về tội ít nghiêm trọng, sự việc phạm tội đơn
giảm, chứng cứ rõ ràng’ người thực hiện hành vi bị bắt quả tang,
có căn cước lai lịch rõ rang. Thủ tục này có sự rút ngắn về thời
gian, đơn giản về cách thức tiến hành nhằm giải quyết nhanh
chóng vụ án hình sự, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm
kịp thời, hiệu quả; đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân trong tố tụng hình sự.
2. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn
Theo quy định tại Điều 318 BLTTHS năm 2003 thì, “Thủ tục rút gọn
đối với việc điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm được áp dụng theo
quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của
Bộ luật này nhưng không trái với những quy định của chương này”.
Xuất phát từ mục đích của việc áp dụng TTRG là rút ngắn thời gian
giải quyết vụ án; tăng cường hiệu quả của công cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm, giúp cơ quan tiến hành tố tụng tập trung
giải quyết các vụ án phức tạp; tiết kiệm thời gian, kinh phí của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng; khắc phục án tồn
đọng cho nên phạm vi áp dụng TTRG chỉ áp dụng ở giai đoạn điều
tra, truy tố, xét xử sơ thẩm mà không áp dụng đến giai đoạn xét
xử phúc thẩm, trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Bởi vì, khi vụ án
xét xử ở giai đoạn phúc thẩm, xem xét theo trình tự giám đốc
thẩm, tái thẩm thì vụ án cần được xem xét thận trọng nên cần có
thời gian để nghiên cứu, đánh giá toàn diện các tình tiết của vụ án.
3. Về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn.


Theo Điều 319 BLTTHS, việc áp dụng TTRG phải đảm bảo đầy đủ
các điều kiện sau: (1) Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả
tang; (2) Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; (3) Tội
phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng và (4) Người phạm

tội có căn cước, lai lịch rõ ràng. Chỉ khi nào đảm bảo tất cả các
điều này thì TTRG mới được áp dụng. Nếu thiếu 01 trong 04 điều
kiện này thì vụ án phải được giải quyết theo thủ tục chung.
3.1. Về điều kiện “người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả
tang”
Theo Điều 82 BLTTHS, bắt người phạm tội quả tang là trường hợp
người đang thực tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì
bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Trong đó, người đang thực hiện tội
phạm là trường hợp người phạm tội đang thực hiện hành vi được
mô tả trong một cấu thành tội phạm cụ thể thì bị phát hiện; người
bị phát hiện ngay sau khi thực hiện tội phạm là trường hợp vừa
thực hiện tội phạm xong, người phạm tội chưa kịp hoặc đang cất
giấu phương tiện, công cụ phạm tội, đang xoá dấu vết của tội
phạm … thì bị phát hiện và bị bắt giữ; người thực hiện hành vi
phạm tội bị đuổi bắt là trường hợp người đó đang thực hiện hành vi
phạm tội hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên
đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Khi bắt người phạm tội quả tang,
thông thường người phạm tội thừa nhận tội đã thực hiện; chứng cứ
đầy đủ, rõ ràng; những người tham gia tố tụng được xác định đầy
đủ nhất là những người có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp
đến vụ án. Cho nên, việc giải quyết những vụ án mà người phạm
tội bị bắt quả tang sẽ đảm bảo thời hạn giải quyết vụ án.


3.2. Về điều kiện “sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng”.
Sự việc đơn giản được hiểu là những vụ án có những tình tiết
không phải mất nhiều thời gian để thu thập tài liệu, chứng cứ
chứng minh. Việc xác định các tình tiết của vụ án được thực hiện
dễ dàng, nhanh chóng. Chứng cứ rõ ràng là những chứng cứ chứng
minh nhanh chóng, chính xác các vấn đề cần phải chứng minh

trong vụ án hình sự như: hành vi phạm tội xảy ra; thời gian, địa
điểm phạm tội, người thực hiện tội phạm; lỗi của người thực hiện
tội phạm; những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của người phạm tội; tính chất và mức độ thiệt hại do hành
vi phạm tội gây ra. Đồng thời, những chứng cứ này được thu thập
tương đối dễ dàng, đầy đủ ngay từ đầu. Thông thường, chúng có
thể được xác định thông qua biên bản bắt người phạm tội quả
tang, lời khai của những người tham gia tố tụng có mặt tại nơi xảy
ra tội phạm và vật chứng được thu thập tại hiện trường.
Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng phải được thể hiện
trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Nếu trong quá trình
đó, mặc dù đã áp dụng TTRG nhưng khi vụ án có những tình tiết
phức tạp cần phải có thời gian dài để điều tra, xác minh thu thập
tài liệu, chứng cứ thì phải hủy bỏ việc áp dụng TTRG và vụ án phải
được giải quyết theo thủ tục chung.
3.3. Về điều kiện “tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm
trọng”
Theo khoản 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi,
bổ sung năm 2009 (viết tắt là BLHS), tội phạm ít nghiêm trọng là


tội phạm gây nguy hại cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy đến 3 năm tù.
Việc quy định điều kiện này sẽ giới hạn các loại tội phạm có thể áp
dụng TTRG, tránh sự tùy tiện của cơ quan, người tiến hành tố tụng.
Đồng thời, do hậu quả mà loại tội phạm này gây ra cho xã hội là
không lớn, trách nhiệm pháp lý (chủ yếu là trách nhiệm hình sự)
đối với người phạm tội cũng không cao cho nên việc điều tra, truy
tố, xét xử có thể tiến hành nhanh chóng, ít có khả năng xảy ra sai
sót, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia tố tụng, nhất

là người phạm tội.
Khi đánh giá điều kiện này để quyết định áp dụng TTRG đối với
những điều luật vừa quy định tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng thì cơ quan, người tiến hành tố tụng cần phải xem
xét kỹ quy định về cấu thành cơ bản cũng như những tình tiết định
khung cấu thành tăng năng như: tình tiết thuộc về nhân thân, tiền
án, tiền sự, đối tượng tác động của tội phạm… để xác định hành vi
phạm tội thuộc vào khoản nào của Điều luật. Tránh ban hành
quyết định áp dụng TTRG rồi phải hủy bỏ, giải quyết vụ án theo
thủ tục chung do vi phạm điều kiện này.
3.4. Về điều kiện “người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng”.
Đây là điều kiện thuộc về đặc điểm nhân thân của người phạm tội.
Theo khoa học luật hình sự, nhân thân của người phạm tội được
hiểu là tổng thể các đặc điểm có nghĩa về mặt xã hội của người
thực hiện hành vi phạm tội như: giới tính, độ tuổi, thành phần dân
tộc, thành phần xã hội, trình độ học vấn, nghề nghiệp, điều kiện
sinh sống, hoàn cảnh gia đình, quá trình hoạt động chính trị, xã


hội, tính tình, tác phong, tiền án, tiền sự… Các đặc điểm này cần
được cân nhắc khi giải quyết các vấn đề trong vụ án hình sự như:
trách nhiệm hình sự (cấu thành tội phạm, quyết định hình phạt,
miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, biện pháp tư pháp…);
vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (nghĩa vụ bồi thường)... Cho
nên, trong vụ án hình sự, muốn xử lý nghiêm minh hành vi phạm
tội của người phạm tội cần phải làm rõ căn cước, lai lịch của họ.
Do vụ án được giải quyết theo TTRG rút ngắn về thời gian giải
quyết vụ án nên căn cước, lai lịch của người phạm tội phải dễ dàng
xác định, không có những yếu tố phức tạp để tránh tốn thời gian
điều tra, xác minh làm rõ dẫn đến vi phạm thời hạn giải quyết vụ

án.
4. Về thẩm quyền áp dụng thủ tục rút gọn.
Theo khoản 1 Điều 320 BLTTHS, sau khi khởi tố vụ án, theo đề nghị
của Cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có đủ các điều kiện áp
dụng TTRG thì Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng TTRG.
Với quy định này, cơ quan có thẩm quyền áp dụng TTRG là Viện
kiểm sát cùng cấp với Cơ quan điều tra đã ban hành quyết định
khởi tố vụ án. Đồng thời, Viện kiểm sát có quyền quyết định áp
dụng TTRG trong 02 trường hợp: một là theo đề nghị của Cơ quan
điều tra hoặc hai là tự mình áp dụng TTRG nếu qua hoạt động
kiểm sát thấy rằng vụ án có đủ điều kiện áp dụng TTRG nhưng Cơ
quan điều tra không áp dụng.
Việc quy định thẩm quyền quyết định áp dụng TTRG xuất phát từ
chức năng của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm


sát các hoạt động tư pháp mà ở đây là kiểm sát hoạt động xử lý tin
báo về tội phạm, khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra. Đặc thù của
TTRG là rút ngắn thời gian giải quyết vụ án nên dễ ảnh hưởng đến
quyền lợi của người phạm tội. Cho nên, để đảm bảo khách quan,
hạn chế sự tùy tiện của Cơ quan điều tra, thẩm quyền này được
trao cho Viện kiểm sát.
Theo khoản 2 Điều 320 BLTTHS, quyết định áp dụng TTRG được gửi
cho Cơ quan điều tra để tiến hành các hoạt động tố tụng phục vụ
cho việc điều tra, truy tố. Bên cạnh đó, quyết định này còn phải
được gửi cho bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong
thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng TTRG. Quy định
này nhằm bảo đảm một cách tốt nhất quyền lợi của người phạm
tội. Bởi vì, mục đích của việc áp dụng TTRG nhằm phục vụ cho
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm là chính (chủ yếu là

tránh tồn đọng án, bớt chi phí tiến hành các hoạt động tố tụng),
trong khi đó, các điều kiện áp dụng TTRG, không có điều kiện phải
có sự chấp nhận áp dụng của người phạm tội.
Theo khoản 3 Điều 320 BLTTHS, trong trường hợp không đồng ý với
việc áp dụng TTRG, người phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp
của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng TTRG. Thời hiệu
khiếu nại là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Khiếu nại
được gửi đến Viện kiểm sát đã ra quyết định áp dụng TTRG và phải
được giải quyết trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được
khiếu nại. Quy định này nhằm đảm bảo việc áp dụng TTRG là đúng
đắn, tránh sự tùy tiện khi áp dụng.
5. Về điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn.


5.1. Về thời hạn điều tra, truy tố, xét xử
Theo quy định tại các Điều 321, 323 và 324 BLTTHS, thời hạn tiến
hành các giai đoạn tố tụng điều tra, truy tố, xét xử ngắn hơn theo
thủ tục chung. Theo đó, thời hạn tiến hành tố tụng theo TTRG
không quá 30 ngày. Trong đó, thời hạn điều tra không quá 12 ngày;
thời hạn truy tố không quá 04 ngày và thời hạn xét xử không quá
14 ngày (thời hạn chuẩn bị xét xử là 07 ngày và thời hạn mở phiên
tòa từ khi ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử là 07 ngày).
Việc quy định thời hạn tố tụng của từng giai đoạn tố tụng ngắn
hơn so với thủ tục chung xuất phát từ bản chất của TTRG là rút
ngắn thời gian giải quyết vụ án với các điều kiện áp dụng nhất
định. Cho nên, thời hạn tiến hành tố tụng phải đảm bảo tính nhanh
chóng, kịp thời.
Nhìn chung, thời hạn tố tụng mà BLTTHS quy định đối với TTRG
đảm bảo cho việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội

thuộc loại tội ít nghiêm trọng; điều kiện hoàn cảnh xảy ra tội
phạm; khối lượng công việc của cơ quan, người tiến hành tố tụng;
cơ sở vật chất phục vụ cho việc tiến hành các hoạt động tố tụng;
năng lực của cơ quan thực thi pháp luật.
5.2. Về các hoạt động trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử
* Đối với giai đoạn điều tra:
Theo Điều 321 BLTTHS, việc điều tra theo TTRG chỉ có điểm khác
biệt lớn so với điều tra theo thủ tục chung là khi kết thúc điều tra,


Cơ quan điều tra không phải làm bản kết luận điều tra mà ra quyết
định đề nghị truy tố và không được gia hạn thời hạn điều tra.
Do tính chất của vụ án được giải quyết theo TTRG tương đối đơn
giản, chứng cứ chứng minh các tình tiết của vụ án phần lớn đã
được thu thập khi phát hiện tội phạm và chủ yếu được phản ánh
trong biên bản bắt người phạm tội quả tang nên hoạt động điều
tra được tiến hành tương đối dễ dàng cho nên khi kết thúc điều
tra, Cơ quan điều tra không cần phải làm bản kết luận điều tra mà
chỉ cần ra quyết định đề nghị truy tố đề nghị Viện kiểm sát truy tố.
Nội dung của quyết định đề nghị truy tố theo TTRG tương đối đơn
giản, ngắn gọn so với nội dung của kết luận điều tra.
Tuy nhiên, khó khăn của Cơ quan điều tra tiến hành hoạt động
điều tra theo TTRG là mặc dù, thời gian điều tra rút ngắn nhưng để
thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh các tình tiết của vụ án, Cơ
quan điều tra vẫn tiến hành các hoạt động tố tụng như thủ tục
chung. Cho nên, Cơ quan điều tra, Điều tra viên phải chủ động,
tích cực tiến hành các hoạt động điều tra để hoàn thành hồ sơ,
tránh vi phạm thời hạn điều tra.
* Đối với giai đoạn truy tố:
Không như giai đoạn điều tra, Điều 323 BLTTHS quy định rõ thẩm

quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố. Theo đó, trong
thời hạn truy tố, Viện kiểm sát có quyền ra một trong những quyết
định sau đây: (1) Truy tố bị can trước Tòa án bằng quyết định truy
tố; (2) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; (3) Tạm đình chỉ vụ án hoặc
(4) Đình chỉ vụ án.


Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ
vụ án quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 1 Điều 323 BLTTHS
thì Viện kiểm sát phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định áp dụng
TTRG và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung. Bởi vì, khi đó,
bản chất của vụ án đã trở nên phức tạp, không đảm bảo điều kiện
áp dụng TTRG.
* Đối với giai đoạn xét xử:
Theo Điều 324 BLTTHS, trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán
được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết
định: (1) Đưa vụ án ra xét xử; (2) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; (3)
Tạm đình chỉ vụ án hoặc (4) Đình chỉ vụ án.
Trong trường hợp Tòa án ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử
thì trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định, Toà án phải
mở phiên toà xét xử vụ án.
Việc xét xử sơ thẩm được tiến hành theo thủ tục chung. Cho nên,
thành phần Hội đồng xét xử; trình tư, thủ tục tại phiên tòa; việc
hoãn phiên tòa; sự có mặt của người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng tại phiên tòa… cũng không khác thủ tục chung. Chỉ
khác ở chỗ, bắt đầu phần xét hỏi, Kiểm sát viên đọc quyết định
truy tố theo TTRG thay cho việc đọc cáo trạng.
Cũng như giai đoạn truy tố, trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra
bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án quy định tại điểm b hoặc điểm c
khoản 1 Điều 324 BLTTHS thì Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm

sát và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.


Việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ án đã
xét xử sơ thẩm theo TTRG được tiến hành theo thủ tục chung.
5.3. Về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong thủ tục rút gọn.
* Về tạm giữ, tạm giam để điều tra, truy tố:
Theo quy định tại Điều 322 BLTTHS, các quy định về căn cứ, thẩm
quyền và thủ tục áp dụng tạm giữ, tạm giam được áp dụng theo
thủ tục chung.
Về thời hạn tạm giữ, trong TTRG, thời hạn tạm giữ không được quá
ba ngày, kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Quy định
này giống với thời hạn tạm giữ theo thủ tục chung. Tuy nhiên, điểm
khác nhau giữa việc áp dụng biện pháp tạm giữ theo TTRG với thủ
tục chung là không được gia hạn thời hạn tạm giữ. Quy định này
xuất phát từ đặc thù của TTRG là rút ngắn thời gian giải quyết vụ
án và tài liệu, chứng cứ đã rõ ràng, đơn giản. Trong khoản thời gian
03 ngày, Cơ quan điều tra hoàn toàn có đủ thời gian quyết định
việc có khởi tố bị can hay không.
Đối với biện pháp tạm giam, thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố
không được quá 16 ngày. Do xuất phát từ đặc thù của vụ án được
giải quyết theo TTRG và để nâng cao trách nhiệm của Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát nên việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam cũng rất hạn chế và thời hạn tạm giam cũng ngắn hơn so với
thủ tục chung.
Theo khoản 3 Điều 322 BLTTHS, thời hạn tạm giam để điều tra,
truy tố không được quá mười sáu ngày nên trong trường hợp đã áp


dụng biện pháp tạm giữ rồi mới khởi tố thì khi áp dụng biện pháp

tạm giam, thời hạn tạm giam phải trừ thời gian tạm giữ, cứ 01
ngày tạm giữ được tính bằng 01 ngày tạm giam.
* Về tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm:
Theo khoản 4 Điều 324 BLTTHS, trong trường hợp cần thiết, Tòa án
cấp sơ thẩm quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc xét xử.
Thời hạn tạm giam không được quá mười bốn ngày. Thời hạn này
đúng bằng thời hạn tố tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm theo TTRG.
Tuy nhiên, cũng như giai đoạn điều tra, truy tố, việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam ở giai đoạn xét xử sơ thẩm không nhiều
do các điều kiện áp dụng TTRG đã thu hẹp nhiều đối tượng bị áp
dụng biện pháp tạm giam.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUÂT VỀ ÁP DỤNG
THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.
Để khắc phục các vướng mắc, bất cập về thủ tục rút gọn trong
BLTTHS, trên cơ sở các yêu cầu cần phải tuân thủ khi xây dựng quy
định về TTRG trong thời gian tới, kiến nghị hoàn thiện một số nội
dung sau:
Thứ nhất, bổ sung thêm vào Điều 318 như sau:
“Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và
xét xử phúc thẩm được áp dụng theo quy định của Chương này,
đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với
những quy định của Chương này.”


Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các điều kiện áp dụng TTRG ở giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm tại Điều 319 BLTTHS. Cụ thể như
sau:
“Điều 319. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
TTRG phải được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang, bị bắt khẩn

cấp hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú;
2. Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
Sự việc phạm tội đơn giản là tội phạm xảy ra do một người thực
hiện hoặc vụ án có đồng phạm nhưng dễ dàng đánh giá tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; vụ án không
có tình tiết phạm tội có tổ chức, phạm nhiều tội; vụ án chỉ liên
quan 01 lĩnh vực, xảy ra trên phạm vi nhỏ.
Chứng cứ rõ ràng là chứng cứ đủ để giải quyết các vấn đề phải
chứng minh trong vụ án hình sự được quy định tại Điều 63 BLTTHS
và giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, xử lý vật chứng,
áp dụng biện pháp tư pháp. Đồng thời, các chứng cứ không mâu
thuẫn với nhau và không cần có thêm thời gian để nghiên cứu,
tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc không cần tham
khảo ý kiến của cơ quan chuyên môn.
3. Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng;


4. Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng và được xác định dễ
dàng, nhanh chóng.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về quyết định áp dụng TTRG tại
Điều 320 BLTTHS với các nội dung: thẩm quyền quyết định áp
dụng TTRG, trách nhiệm giải thích quy định về TTRG, quyền nhờ
người khác bào chữa của người phạm tội, việc giải quyết khiếu nại.
Theo đó Điều 320 BLTTHS sẽ có nội dung như sau:
“Điều 320. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn
1. Sau khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can, xét thấy vụ án có đủ các
điều kiện quy định tại Điều 319 của Bộ luật này, CQĐT phải ra
quyết định áp dụng TTRG sau khi Viện kiểm sát phê chuẩn quyết
định khởi tố bị can. Trong trường hợp CQĐT không áp dụng thì Viện

kiểm sát phải ra quyết định áp dụng TTRG.
2. Cơ quan ban hành quyết định áp dụng TTRG phải gửi quyết định
cho bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24
giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng TTRG. Đồng thời, khi gửi quyết
định, cơ quan ban hành quyết định phải giải thích quy định pháp
luật có liên quan đến việc áp dụng TTRG và các quyền khác mà Bộ
luật này quy định cho bị can; hướng dẫn thủ tục thực hiện quyền
bào chữa để bị can, người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Nếu
bị can, người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa
thì cơ quan tiến hành tố tụng phải mời người bào chữa cho người
phạm tội trừ trường hợp bị can, người đại diện hợp pháp của họ từ
chối.


3. Quyết định áp dụng TTRG có thể bị khiếu nại. Bị can hoặc người
đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng
TTRG; thời hiệu khiếu nại là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết
định. Khiếu nại được gửi đến cơ quan đã ra quyết định áp dụng
TTRG và phải được giải quyết trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày
nhận được khiếu nại.
Khi có căn cứ xác định việc khiếu nại áp dụng TTRG là đúng thì cơ
quan đã ra quyết định áp dụng TTRG sẽ hủy bỏ việc áp dụng và vụ
án sẽ được giải quyết theo thủ tục chung. Nếu việc khiếu nại
không có căn cứ thì cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản trả
lời và nêu rõ lý do.
Thời gian giải quyết khiếu nại không tính vào thời hạn điều tra.”
Thứ tư, bổ sung vào khoản 2 Điều 323 và khoản 3 Điều 324
BLTTHS thẩm quyền hủy quyết định áp dụng TTRG khi Viện kiểm
sát, Tòa án đánh giá các căn cứ áp dụng TTRG không đảm bảo.
Theo đó, khoản 2 Điều 323 BLTTHS sẽ có nội dung như sau:

“2. Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ
án quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều này hoặc khi xác định
các căn cứ áp dụng TTRG tại Điều 319 Bộ luật này không đảm bảo
thì Viện kiểm sát phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định áp dụng
TTRG và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.” Và khoản 3
Điều 324 BLTTHS sẽ có nội dung:
“3. Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ
án quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều này hoặc khi xác định
các căn cứ áp dụng TTRG tại Điều 319 Bộ luật này không đảm bảo


thì Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và vụ án được giải
quyết theo thủ tục chung.”
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng thời hạn điều tra, truy
tố, xét xử tại các Điều 312, 323 và 324 BLTTHS. Theo đó, thời hạn
điều tra sẽ tăng từ 12 ngày lên 22 ngày; thời hạn truy số sẽ tăng
từ 04 ngày lên 08 ngày và thời hạn chuẩn bị xét xử sẽ tăng từ
ngày 07 ngày lên 10 ngày. Thời hạn từ khi có quyết định đưa vụ án
ra xét xử đến khi mở phiên tòa giữ nguyên là 07 ngày.
Đồng thời, bổ sung vào các Điều 312, 323 và 324 BLTTHS việc gia
hạn thời hạn điều tra, truy tố, xét xử. Theo đó, trong trường hợp
cần thiết, CQĐT có thể gia hạn thời hạn điều tra 01 lần không quá
05 ngày; Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn truy tố 01 lần
không quá 03 ngày và Tòa án có thể gia hạn thời hạn chuẩn bị xét
xử không quá 04 ngày.
Thứ sáu, bổ sung vào Điều 320 khoản 4 như sau:
“4. Khi có các căn áp dụng TTRG mà trong giai đoạn điều tra, truy
tố, CQĐT, Viện kiểm sát không áp dụng thì khi vụ án được chuyển
sang giai đoạn truy tố, xét xử, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết
định áp dụng TTRG. Trong trường hợp, Viện kiểm sát áp dụng TTRG

trong giai đoạn truy tố thì giai đoạn xét xử cũng áp dụng TTRG.”
Thứ bảy, đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định về tạm giữ, tạm giam
tại các khoản 2, 3 Điều 322 BLTTHS với các nội dung: việc gia hạn
thời hạn tạm giữ; trừ thời hạn tạm giữa vào thời hạn tạm giam;
thời hạn phê chuẩn lệnh tạm giam của CQĐT; tách việc áp dụng


biện pháp tạm giam giữa CQĐT với Viện kiểm sát. Theo đó, các
khoản 2, 3 Điều 322 BLTTHS sẽ có nội dung như sau:
“2. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ ngày CQĐT
nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, CQĐT có thể gia hạn
tạm giữ một lần. Việc thực hiện thủ tục gia hạn tạm giữ được thực
hiện như thủ tục chung.
3. Thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố không được vượt quá thời
hạn điều tra, truy tố. Trong trường hợp, CQĐT có áp dụng biện
pháp tạm giữ thì thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam.
Viện kiểm sát xem xét phê chuẩn việc gian hạn tạm giữ, lệnh tạm
giam của CQĐT trong hạn 24 giờ kể từ ngày nhận được văn bản đề
nghị phê chuẩn của CQĐT.”
Thứ tám, bổ sung vào Điều 321 BLTTHS khoản 3 quy định về tạm
đình chỉ điều tra với nội dung như sau:
“3. Khi có căn cứ tạm đình chỉ điều tra theo Điều 160 Bộ luật này
thì CQĐT quyết định hủy bỏ việc áp dụng TTRG và phải báo cho
Viện kiểm sát cùng cấp biết. Khi đó, vụ án sẽ được giải quyết theo
thủ tục chung.”
Ngoài ra, cần sửa đổi, bổ sung 02 nguyên tắc của BLTTHS tại Điều
15 về thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia và Điều 17 về
việc Toà án xét xử tập thể cho phù hợp với quy định tại khoản 1 và
khoản 4 Điều 103 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, việc áp dụng 02
nguyên tác này sẽ không áp dụng trong trường hợp vụ án được xét

xử theo TTRG.


C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Tóm lại, việc giải quyết vụ án theo TTRG là định hướng lớn đã được
Đảng, Nhà nước ta đề ra từ khi đất nước mới giành độc lập. Trong
tố tụng hình sự, chế định này đã được cụ thể hóa trong nhiều văn
bản của Chính phủ, các cơ quan tư pháp trung ương trước khi được
quy định chi tiết trong BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, do bị gián
đoạn trong thời gian dài, từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1986
có hiệu lực đến khi BLTTHS có hiệu lực, nên các quy định về TTRG
trong BLTTHS chưa được hoàn chỉnh, việc nhận thức, vận dụng các
quy định này trong thực tiễn còn hạn chế nhất định. Chính vì vậy,
qua thực tiễn áp dụng, đòi hỏi phải có sự tổng kết để sửa đổi, bổ
sung quy định về TTRG, góp phần phát huy ý nghĩa, vai trò của
TTRG, đấu tranh phòng chống tội phạm ngày càng hiệu quả hơn và
bảo vệ tốt quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự.
Với các vướng mắc, bất cập và đề xuất kiến nghị hoàn thiện mà
bài viết này nêu lên, hy vọng sẽ góp phần hoàn thiện quy định về
TTRG trong BLTTHS, đặc biệt trong thời điểm Viện kiểm sát nhân
dân tối cao đang tổng hợp ý kiến để hoàn thành dự thảo BLTTHS
sửa đổi



×