1. Nguyễn Thị Thu Hằng
2. Nguyễn Thị Thanh Hương
3. Nông Thị Thùy Linh
4. Nguyễn Phương Loan
5. Soukchay
6.Nguyễn Thị Quỳnh
7.Lê Thị Thúy Vân
CON NGƯỜI là nguồn lực quan trọng quyết định sư
phát triển hay tụt hậu của một quốc gia. Quan tâm
đến vấn đề phát triển con người trước hết là chú
trọng đến vấn đề sinh đẻ, hay cụ thể hơn là: MỨC
SINH
Vậy mức sinh là gì?
I. mức sinh
MỨC SINH :
Khả năng sinh đẻ của người
phụ nữ hay cặp vợ chồng.
Đề cập đến số trẻ em sinh
sống mà người phụ nữ thực có
trong suốt cuộc đời sinh sản.
Trong các số đo về mức sinh như
Tỉ suất sinh thô
Tỉ suất sinh chung
Tỉ suất sinh đặc trưng theo tuổi
Tổng tỉ suất sinh (TFR)
Thì TFR là chỉ số được thế giới thường dùng đánh
giá mức sinh cao hay thấp giữa các nước, các vùng
khác nhau, là số con trung bình mà người phụ nữ
có thể sinh ra trong suốt cuộc đời mình.
so sánh mức sinh của việt nam với các nước châu á 2011
Tên nước / vùng
TFR
Tên nước/
vùng
TFR
Đài Loan
0,9
Triều Tiên
2,0
Hong Kong
1,1
Indonesia
2,3
Macao
1,1
Myanmar
2,3
Singapore
1,2
Malaysia
2,6
Hàn Quốc
1,2
Mông Cổ
2,6
Nhật Bản
1,4
Cambodia
3,0
Trung Quốc
1,5
Philippines
3,2
Thái Lan
1,6
Lào
3,9
Brunei
1,7
Timor-Leste
5,7
Việt Nam
1,99
Ở singapore hầu hết mỗi gia đình chỉ có 1 con
Ở việt nam phổ biến từ 2-3 con.
BIỂU ĐỒ TFR CỦA VIÊT NAM 19992009 ( đơn vi:
con/ phụ nữ)
Thời kì tham chiếu
Thành
thị
Nông
thôn
Toàn
quốc
1/4/199831/3/1999
1,67
2,57
2,33
1/4/200031/3/2001
1,86
2,38
2,25
1/4/200131/3/2002
1,93
2,39
2,28
1/4/200231/3/2003
1,70
2,30
2,12
1/4/200331/3/2004
1,87
2,38
2,23
1/4/200431/3/2005
1,73
2,28
2,11
1/4/200531/3/2006
1,72
2,25
2,09
1/4/200631/3/2007
1,70
2,22
2,07
1/4/200731/3/2008
1,83
2,22
2,08
1/4/200831/3/2009
1,81
2,14
2,09
II. Các nhân tố ảnh hưởng tới mức sinh
Ở nước ta cũng như mọi quốc gia trên thế giới mức sinh chịu tác
động tổng hợp đồng thời của nhiều nhân tố như:
Với mỗi vùng miền địa phương cụ thể, mức độ ảnh hưởng của
những nhân tố khác nhau là khác nhau.
1. TỰ NHIÊN SINH HỌC
Khả năng sinh sản tự nhiên của con người ( nam, nữ)
khi đến độ tuổi nhất định: nữ 15-49; nam trọn đời.
Cơ cấu tuổi: theo nghiên cứu trong độ tuổi từ
2035 tuổi cả nam và nữ đều có khả năng sinh
sản lớn nhất.
Môi trường sống: trong lành hay ô nhiễm, độc
hại hay sạch sẽ đều ảnh hưởng đến mức sinh.
Nòi giống: ở mức độ nào đó, tộc người khác
nhau sẽ có chất lượng trứng, tinh trùng; khả
năng thụ thai khác nhau.
Mức chết cao=> mức sinh cao.
2. PHONG TỤC TẬP QUÁNTÂM LÍ XÃ HỘI
Tư tưởng " lắm con nhiều phúc", " con đàn
cháu đống" ...cổ xúy cho tâm lí thích có nhiều
con tồn tại ở nhiều vùng.
"Nhất nam viết hữu thập nữ viết vô"
muốn có con trai nối dõi. Tâm lí gia
chưởng.
Phong tục kết hôm sớm, tảo hôn còn phổ biết ở
nơi miền núi dân trí thấp.
Tư tưởng sinh bù sinh dự phòng
=> Những tư tưởng lỗi thời trên ảnh
hưởng nhiều đến thay đổi mức sinh mức
sinh.
“CON ĐÀN CHÁU ĐỐNG”
“NHẤT NAM VIẾT HỮU, THẬP NỮ VIẾT
VÔ”
“tảo hôn”
“sinh dự phòng, sinh bù”
3. KINH TẾ KĨ THUẬT
Các Mác đã từng nói: " Số lượng trẻ em sinh ra tỉ lệ
nghịch với qui mô của cải mà người công dân có
được“.Đây là qui luật phổ biến.
Tuy nhiên xét trong thực tế nước ta vẫn còn có ngoại
lệ: kinh tế và mức sinh không tỉ lệ nghịch với nhau
mà cùng chiều hướng phát triển với nhau ( càng giàu
có càng sinh nhiều con)
a)Trình độ phát triển kinh tế:
Thu nhập cao, chất lượng cuộc sống tốt thì
sinh đẻ thấp và ngược lại.
A. Xmit từng nói " Nghèo đói tạo điều kiện và khả
năng cho sinh đẻ".
sinh nhiều mong lao động thoát nghèo, nhưng đã
nghèo lại nghèo thêm tạo thành vòng luẩn quẩn.
Biểu đồ tfr chia theo vùng kinh tế - kĩ thuật 2009
Vùng kinh tế kĩ thuật
Tổng tỉ suất sinh TFR
Trung du và miền núi Bắc bộ
2,24
ĐB sông Hồng
2,11
Bắc Trung bộ và DHMT
2,21
Tây Nguyên
2,65
Đông Nam Bộ
1,69
Đồng bằng sông Cửu Long
1,84
Từ biểu đồ ta thấy:
Tây Nguyên là vùng có TFR cao nhất cả nước (2,65 con/phụ nữ), mỗi phụ nữ Tây
Nguyên sinh gần 3 con trong cuộc đời của mình.
Đứng thứ hai sau Tây Nguyên là Trung du và miền núi phía Bắc (2,24
con/phụ nữ).
Hai vùng có mức sinh thấp nhất và thấp hơn mức trung bình của cả nước là Đông
Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, tương ứng là 1,69 và 1,84 con/phụ nữ.
Bình quân mỗi phụ nữ Tây Nguyên trong suốt cả cuộc đời của mình sinh nhiều
hơn gần 1 con so với phụ nữ Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
Kết luận: Sự chênh lệch về trình độ phát triển, cùng với những khác biệt về đặc
điểm xã hội, tâm lý, tập quán, tôn giáo, nghề nghiệp, cấu trúc dân cư... giữa các
vùng là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về mức sinh nói trên
mức sinh ở tây nguyên
mức sinh ở đông nam bộ, đồng bằng sông hồng
b)Tính chất nền kinh tế
Nền kinh tế tiểu nông tự túc đã tồn tại trên đất
nước ta lâu đời đòi hỏi nhiều nhân công lao
động. Đến nay vẫn còn hiện hữu và phổ biến đặc
biệt ở các vùng xa xôi, biên giới.