Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Dân số và phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.73 KB, 9 trang )

DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM!!!
Bài 8: Tăng dân số và Phát triển Kinh tế
Munir Mahmud - Dịch viên: Lê Thu
Tăng Trưởng đối trọi với Phân Phối Thu Nhập: Cho đến đầu những năm 1970,
phát triển vẫn bị đánh đồng với tăng trưởng. Và cũng có một tranh cãi rằng liệu tăng
trưởng hay việc đạt được một phân phối thu nhập bình đẳng hơn có nên được ưu tiên
hay không. Trong buổi học hôm nay chúng ta sẽ bắt đầu với một thảo luận về vấn đề
này.
Luận cứ truyền thống: Tranh luận cơ bản là "Phân phối thu nhập bất bình đẳng cao
là cần thiết để mang lại mức tiết kiệm thích hợp nhằm đầu tư cho tăng trưởng kinh tế
nhanh".
Luận cứ đối lập: Về cơ bản có 4 nền tảng để luận cứ truyền thống có thể bị bắt bẻ.
Đó là:
1. Luận cứ về Thặng dư tư bản: Như đã được bàn đến khi chúng ta chỉ trích mô hình
Lewis, vì thặng dư tư bản trong nhiều trường hợp không được nghiên cứu mà sử dụng
thay thế trong các hoạt động không có lợi cho nền kinh tế, các chính sách không nên
có thành kiến ủng hộ các thặng dư không có lợi cho người nghèo.
2. Luận cứ sản lượng: Như đã được nhấn mạnh trong cuộc thảo luận của chúng ta về
"việc tạo ra kết quả tích luỹ luân chuyển" và "Vòng luẩn quẩn của Đói nghèo", khi
phân phối thu nhập không có lợi cho người nghèo, đơn giản họ có thể không có các
phương tiện thích hợp để duy trì năng suất hay để làm tăng sản lượng. Kết quả là, khả
năng sản xuất thậm chí có thể chìm xuống nếu các chính sách này dẫn đến tình trạng
quá bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
3. Luận cứ Kích Cầu: Các nước giàu thường dành nhiều thu nhập cho việc nhập khẩu
nguyên liệu. Còn các nước nghèo thì chi tiêu cho việc sản xuất hàng hoá trong nước.
PHẠM THỊ KIỀU NHUNG
1
DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM!!!
Vì thế một phân phối thu nhập phù hợp với người nghèo cũng sẽ làm tăng nhu cầu về
hàng hoá nội điạ, trực tiếp dẫn đến việc sản xuất trong nước nhiều hơn và tăng công
ăn việc làm


4. Luận cứ khích lệ tâm lý: Một phân phối thu nhập công bằng hơn cũng có vai trò như
một khuyến khích về tâm lý, làm cho dân chúng phấn khởi hơn và từ đó dẫn tới tăng
sản lượng.
GNP là một thước đo chủ yếu về Phát triển quốc gia và Phúc lợi xã hội: Chúng ta
dùng các ví dụ cụ thể để chỉ ra tại sao khi GNP như thế được coi là một thước đo của
phúc lợi xã hội, có thể dẫn đến các chính sách dẫn đến một phân phối thu nhập có lợi
cho người giàu. Chúng ta cũng đã bàn đến tầm quan trọng của việc sử dụng Chỉ số
Equal Weight và Poverty Weighted như một thước đo về phúc lợi xã hội. (Các ví dụ
mà chúng ta bàn đến trong tiết học đều lấy ra từ sách, vì thế hãy dành thời gian để tìm
hiểu, trang 166-168)
Các lựa chọn chính sách: Với sự chọn lựa chính sách chúng ta đã bàn đến 4 chính
sách chính có thể đảm bảo một phân phối thu nhập công bằng hơn. Đó là:
1. Thay đổi Phân phối thu nhập theo chức năng thông qua các chính sách để thay đổi
giá tương đối theo lĩnh vực.
2. Thay đổi Phân phối theo quy mô thông qua Tái phân phối luỹ tiến quyền sở hữu tài
sản.
3. Các mức thuế thu nhập tăng dần
4. Chuyển giao trực tiếp
Trường hợp nghiên cứu: Nền kinh tế Ấn Độ và Nam Phi
PHẠM THỊ KIỀU NHUNG
2
DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM!!!
Tôi nhấn mạnh một số điều quan trọng của nền kinh tế Ấn Độ và Nam Phi. Bạn nên
theo các thước đo cơ bản (tôi đã đề cập đến trong lớp học) khi tìm hiểu bất cứ trường
hợp nghiên cứu nào. Vị trí địa lý của đất nước, lịch sử thực dân, bất cứ đặc điểm nào
gắn liền với đất nước, các thành phần dân tộc, sắc tộc, định hướng chính trị, các
nguồn lực cơ bản, các kênh xuất khẩu chính v.v.… là một số điều mà bạn nên cố nhớ
cho bài kiểm tra.
Tăng dân số và Phát triển Kinh tế: Nguyên nhân, Hậu quả và Các tranh cãi:
Theo ước tính dân số thế giới năm 1995 là 5,8 tỷ người. Theo dự đoán của Liên hợp

quốc thì đến năm 2025 sẽ là 6,3 tỷ người và cuối năm 2050 sẽ là 8.5 tỷ người. Khoảng
5/6 (83%) số dân này sẽ sống ở các nước đang phát triển. Vì thế, vấn đề là liệu các
nguồn lực của thế giới có đủ đáp ứng cho lượng dân số khổng lồ này hay không.
Chúng ta cũng sẽ cố gắng tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi thậm chí sâu sắc hơn
như: liệu bản thân việc tăng dân số nhanh là một vấn đề hay nó có là một biểu hiện
của các vấn đề cơ bản hơn của sự kém phát triển và việc sử dụng không đồng đều các
nguồn lực toàn cầu giữa nước giàu và nước nghèo hay không.
Chúng ta đã đề cập đến sự khác nhau giữa Tỷ lệ sinh thô, Tỷ lệ khả năng sinh sản và
Tỷ lệ tổng khả năng sinh sản. Chúng ta cũng bàn đến Sự thay đổi về nhân khẩu học
qua Hình 6.5 và 6.6, và Cạm bẫy dân số theo thuyết Man-tuýt và các bình phẩm của
nó qua Hình 6.7 (Cuốn sách này là một thảo luận hay về những điều này. Nên đọc
trang 200 đến 206).
(TQ hiệu đính: như các bạn một lần nữa được thấy, giáo sư không có nói rõ là cái gì
đúng hay sai. Chỉ đưa ra những ý tưởng và các luận cứ khác nhau để sinh viên học.
Còn cái gì đúng hay sai, đó là nhiệm vụ của sinh viên, phải bỏ công suy nghĩ. Và đó,
có thể là đề tài cho 1 bài luận văn, hay 1 luận án cử nhân.).
PHẠM THỊ KIỀU NHUNG
3
DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM!!!
Copyright (c) 2006 by kinhtehoc.com
Http://www8.ttvnol.com/forum/cuocsong/914773.ttvn?v=ynrrcdztysdl95vyint8
Thông thường các nước càng kém phát triển thì dân số càng đông và do đó chất lượng
cuộc sống rất thấp, đời sống bấp bênh, nhiều tệ nạn. Con người trong xã hội đó rơi
vào tình cảnh luẩn quẩn từ thế hệ này sang thế hệ khác, cơ cực bần hàn lại cơ cực bần
hàn.
Con người có lẻ không có thú vui nào ngoài thú vui sinh đẻ, tình dục. Chưa lớn đã lo
dựng vợ gả chồng , rồi lại sinh con đàn cháu đống và cứ thế. Ta không thấy có sự tìm
tòi khám phá, lao động sáng tạo, thay đổi số phận, đó là nguyên nhân sâu xa đưa đến
một xã hội kém phát triển. Việt nam không ngoại lệ, chịu ảnh hưởng nặng nề tư tưởng
phong kiến : Nhiều hủ tục lạc hậu, gia đình trị, vua quan thối nát đã kìm hãm mọi sự

phát triển. Vì thế đã không theo kịp sự phát triển của thế giới dẩn đến lạc hậu yếu kém
là cơ sở cho ngoại bang thôn tính. Đất nước ta trãi qua liên tục nhiều cuộc chiến tranh
khốc liệt. Hòa bình rồi mà tư tưởng suy nghĩ của nhiều người vẫn lạc hậu, đất nước
vẫn còn bao đau khổ.
Chúng ta không được có thái độ ích kỷ, thỏa mãn với những gì đã có. Thỏa mãn nghĩa
là tụt hậu ! Hãy nhìn ra thế giới xung quanh mà học hỏi những cái hay cái tốt. Không
được mang danh nghĩa là người Việt nam mà ưa làm gì thì làm. Không được có thái
độ phân biệt dân tộc, mọi người dù ở đâu nếu họ tốt thì đáng để ta làm bạn tri kỷ và
dù có là đồng nghiệp, người thân nếu không tốt thì phải có biện pháp nghiêm trị. Như
vậy, đạo đức là không có biên giới !
Chúng ta chỉ có thể sống yên ổn hạnh phúc khi chúng ta sống tốt và có quan hệ tốt
đẹp với mọi người trên thế giới này.
PHẠM THỊ KIỀU NHUNG
4
DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM!!!
Mối quan hệ giữa dân số và nghèo đói
Quỹ Tiền tệ quốc tế trong báo cáo thường niên năm 2003 đã nêu: "Quản lý kinh tế vĩ
mô thông minh đã tạo ra một môi trường tích cực cho việc tăng trưởng, đồng thời việc
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và tăng cường hội nhập vào nền kinh tế toàn
cầu là một yếu tố then chốt cho quá trình xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam". Thật vậy,
quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam trong những năm qua đã gắn liền sự phát
triển xã hội, thể hiện rõ ở các chương trình mục tiêu của quốc gia, như Chiến lược dân
số Việt Nam 2001 - 2010, Chiến lược gia đình Việt Nam, Chiến lược toàn diện về
tăng trưởng và giảm nghèo, Chương trình quốc gia xóa đói, giảm nghèo và việc làm
giai đoạn 2001 - 2005, Chương trình 135... Công cuộc đổi mới của Việt Nam trong 20
năm qua đã khẳng định đường lối đúng đắn của Ðảng, đem lại những thành tựu lớn
trong tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị, an ninh xã hội. Tuy nhiên, để có thể tiếp
tục phát huy những thành tựu đó, Việt Nam cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ
trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội. Trong đó, vấn đề dân số là một nhân tố quan
trọng và là cơ bản đối với vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở nước ta hiện nay. Chính vì

vậy, ngày 22-3-2005, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 47-NQ/T.Ư về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Trong bài này sẽ tập
trung phân tích mối quan hệ giữa phát triển dân số và nghèo đói ở Việt Nam hiện nay.
Mối quan hệ giữa dân số và tăng trưởng kinh tế
Nhiều nhà nhân khẩu học kinh tế đã xây dựng mô hình và đưa ra học thuyết đã được
nhiều nước ứng dụng (các nhà nhân khẩu học Ấn Ðộ đã đưa vào giáo trình giảng dạy
chính thức về dân số học). Theo học thuyết này, giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc
độ phát triển dân số có mối tương quan chặt chẽ tỷ lệ nghịch, "Ðể bảo đảm ổn định
kinh tế - xã hội như hiện tại, nếu tốc độ phát triển dân số là 1% thì tốc độ tăng trưởng
PHẠM THỊ KIỀU NHUNG
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×