Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Thảm sát mỹ lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.09 KB, 15 trang )

Bối cảnh

Thảm sát Mỹ lai

Thảm sát Mỹ Lai hay còn gọi là thảm sát Sơn Mỹ là một
tội ác chiến tranh của Lục quân Hoa Kỳ gây ra tại Việt Nam.
Vào ngày 16 tháng 3 năm 1968 tại khu vực thôn Mỹ Lai
thuộc làng Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, các đơn
vị lính lục quân Hoa Kỳ đã thảm sát hàng loạt 504 dân thường
không có vũ khí, trong đó phần lớn là người già, phụ nữ và trẻ
em.
Trước khi bị sát hại, nhiều người trong số các nạn nhân còn
bị cưỡng bức, tra tấn, đánh đập. Vụ việc bị che giấu cho tới cuối
năm 1969 thì mọi việc đã được đưa ra ánh sáng, gây ra một làn
sóng phẩn nộ của mọi người trên toàn thế giới nói chung và
nhân dân nước Mỹ nói riêng.
Tuy nhiên, ngoại trừ một chỉ huy cấp trung đội tên là
Calley thì không có bất cứ sĩ quan hay binh lính Hoa Kỳ nào bị
kết tội sau vụ thảm sát đẫm máu trên, và người chỉ huy cấp
trung đội này sau đó cũng được thả tự do.
Đại đội Charlie thuộc tiểu đoàn số 1, trung đoàn bộ binh số
20, lữ đoàn bộ binh số 11, sư đoàn bộ binh số 23, lục quân Hoa
Kỳ, tời Việt Nam từ tháng 12 năm 1967.
Nhóm:

Nguyễn văn Hòa

Trong tháng đầu tiên tại Việt Nam họ không có cuộc chạm
Huỳnh Lê Hữu Trương
trán nào với Quân đội giải phóng Việt Nam (còn được gọi là
Nguyễn Vũ Linh


Việt Cộng). Tính cho đến giữa tháng
3 năm 1968, thương vong
Phạm Văn
của đơn vị này là 5 người, 23 người
bịTáthương, trong đó phần
Lâm Minh Thái
lớn binh sĩ thiệt mạng vì mìn và bẫy.
Lớp: 12LT-ĐT

1


Trong thời gian diễn ra sự kiện Tết Mậu Thân (tháng 1
năm 1968), tiểu đoàn 48 của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
nam Việt Nam đã tiến hành một số cuộc tấn công trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi. Tình báo Mỹ cho rằng sau sự kiện Tết Mậu
Thân, tiểu đoàn 48 đã rút lui về ẩn náu tại địa bàn làng Sơn Mỹ
thuộc tỉnh Quảng Ngãi, cụ thể là các thôn Mỹ Lai 1, Mỹ Lai 2,
Mỹ Lai 3 và Mỹ Lai 4.
Lục quân Hoa Kỳ quyết định tổ chức một cuộc tấn công
lớn vào các làng bị nghi ngờ này. Đại tá Oran K.Henderson ra
lệnh cho các sĩ quan cấp dưới “đánh mạnh vào đây, tiến gần kẻ
địch và xóa sạch chúng”. Trung tá Frank A.Barker ra lệnh cho
các chỉ huy của tiểu đoàn 1 đốt các ngôi nhà, giết sạch gia súc,
phá hủy các kho lương thực và làm ô nhiễm các giếng nước.
Vào hôm trước của cuộc tấn công, tại cuộc họp chiến thuật
của đại đội Charlie, đại úy Ernest Medina thông báo cho lính
của mình rằng gần như mọi dân làng sẽ ra chợ vào lúc 7 giờ
sáng, tất cả những ai còn ở lại đều là lính Việt Cộng hoặc người
giúp đỡ Việt Cộng. Một số binh sĩ cuẩ đại đội Charlie sau này

đã khai rằng mệnh lệnh của Medina theo như họ hiều là giết
toàn bộ “du kích”, lính Việt Cộng và những ai “Khả nghi” (bao
gồm cả người già, phụ nữ và trẻ em), đốt trụi làng và đầu độc
giếng nước.
Trung đội 1 được chỉ định là đơn vị xung kích của đại đội
Charlie trong cuộc tấn công. Ngoài Charlie, còn có 2 đại đội
khác có nhiệm vụ bao vây làng Sơn Mỹ.
Sáng ngày 16 tháng 3, sau một đợt công kích dọn chỗ ngắn
bằng pháo và súng máy bắn từ trực thăng, đại đội Charlie đổ bộ
2


vào làng Sơn Mỹ. Các binh sĩ của đơn vị này không tìm thấy bất
cứ lính Việt Cộng nào trong làng, thay vào đó chỉ có những
người dân thường, phần lớn và người già, phụ nữ và trẻ em,
đang cố gắng tìm chỗ ẩn nấp trước cuộc càn quét của quân đội
Mỹ. Trung đội của thiếu úy Wiliam Calley bắt đầu xả súng vào
các địa điểm tình nghi có Việt Cộng, những người dân thường
đầu tiên bị giết chết hoặc bị thương bởi các loạt đạn bừa bãi
này. Sau đó lính Mỹ bắt đầu hủy diệt tất cả những gì chuyển
động, người, gia súc, gia cầm… Tất cả đều bị giết bằng các loạt
súng, bằng lưỡi lê hoặc bằng lựu đạn với mức độ tàn bạo mỗi
lúc một cao.
Vài chục người bị dồn vào một mương nước và bị chúng
xả súng giết chết, một số chỗ khác cũng xảy ra những cảnh thảm
sát như vậy. Một nhóm lớn gồm khoảng 70 đến 80 dân làng
nằm trong vòng vây của trung đội 1 ở trung tâm làng bị Calley
đích thân giết hoặc ra lệnh cho cấp dưới giết. Các binh sĩ của
trung đội 2 đã giết ít nhất từ 60 đến 70 người bao gồm cả đàn
ông, đàn bà và trẻ em trong khi đơn vị này càn qua nửa phía bắc

của thôn Mỹ Lai 4 và Bình Tây.
Sau cuộc càn quét đầu tiên của trung đội 1 và 2, trung đội 3
được lệnh giải quyết bất cứ sự kháng cự còn lại nào. Ngay lập
tức lính Mỹ giết tất cả những người và gia súc còn lại. Ngay cả
những người giơ tay đầu hàng từ chổ ẩn nấp hoặc những tiếng
rên cất lên từ các đống xác người cũng bị những binh lính Mỹ
này “giải quyết”. Trung đội 3 cũng là đơn vị bao vây và giết
một nhóm khoảng từ 7 đến 12 dân thường chỉ gồm phụ nữ và
trẻ em.

3


Vì đại đội Charlie không gặp bất cứ sự kháng cự nào của
“quân địch”, tiểu đoàn 4 thuộc trung đoàn bộ binh số 3 bắt đầu
chuyển hướng càn quét sang các xóm của thôn Mỹ Khê 4 và
giết khoảng 90 dân thường. Có một binh sĩ Mỹ chết và 7 người
khác bị thương vì mìn và bẫy cá nhân. Trong vòng 2 ngày tiếp
theo, các đơn vị lính Mỹ tiếp tục việc đốt phá các làng xóm và
tra tấn những người bị bắt.
Hành động giải cứu
Chuẩn úy Hugh Thompson phi công trực thăng 24 tuổi
thuộc đơn vị trinh sát trên không, ngay khi bay qua làng đã
chứng kiến cảnh tượng khủng khiếp: Vô số xác người chết, tất
cả đều chỉ là trẻ con, phụ nữ và người già, không hề có dấu hiệu
của người thuộc tuổi tòng quân hay vũ khí ở bất cứ đâu. Đội bay
của Thompson tận mắt nhìn thấy đại úy Medina đá và bắn vào
đầu một phụ nữ không có vũ khí (Medina sau này tuyên bố
người phụ nữ có mang một quả lựu đạn).
Sau khi chứng kiến những cảnh kinh hoàng này, đội bay

Thompson cố gắng thực hiện các cuộc điện đàm để cứu nhừng
người bị thương.
Chiếc trực thăng của họ hạ cánh xuống một cái mương đầy
xác người, trong đó vẫn còn người cử động. Phi đội trực thăng
trinh sát của Thompson đã cứu được khoảng 12 đến 16 người

4


THẢM SÁT MỸ LAI NĂM 1968
Sự che giấu trong điều tra

Những báo cáo đầu tiên của các đơn vị lính Mỹ đã tuyên
bố rằng "128 Việt Cộng và 22 dân thường !" bị giết tại làng
sau "cuộc đọ súng ác liệt". Theo
báo Stars and Stripes của Lục
quân Hoa Kỳ vào thời điểm đó
đưa tin thì "Bộ binh Hoa Kỳ đã
giết 128 Cộng sản sau một trận
đánh đẫm máu kéo dài 1 ngày" !

Cuộc điều tra đầu tiên về chiến dịch Mỹ Lai được thiếu
tướng George H. Young giao cho đại tá Henderson, sĩ quan chỉ
huy của Lữ đoàn bộ binh nhẹ số 11 phụ trách.
Henderson đã thẩm vấn một số binh lính tham gia vụ thảm
sát, sau đó đưa ra một báo cáo vào cuối tháng 4 ghi nhận rằng
khoảng 22 dân thường đã bị giết hại một “cách không cố
ý” trong chiến dịch.
Quân đội Mỹ lúc này vẫn coi sự kiện Mỹ Lai là một chiến
thắng quân sự khi lính Mỹ đã tiêu diệt được 128 lính đối

phương.
Sáu tháng sau, Tom Glen, một binh sĩ 21 tuổi của Lữ đoàn
11, đã viết một lá thư cho tướng Creighton Abrams, tổng chỉ
huy mới của các lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Trong lá thư Glen buộc tội Sư đoàn Americal, tức Sư đoàn
bộ binh số 23 (và toàn bộ các đơn vị lính Mỹ khác) liên tục sử
5


dụng bạo lực chống lại dân thường Việt Nam, lá thư không trực
tiếp nhắc tới vụ Mỹ Lai vì Glen không biết nhiều về vụ tàn sát.
Một trong các sĩ quan được giao phân tích lá thư là Colin
Powell. Trong báo cáo phân tích, Powell viết: "Điều phản bác
lại những gì miêu tả trong bức thư là sự thật rằng quan hệ giữa
binh sĩ Hoa Kỳ và người dân Việt Nam là tuyệt vời", một vài
nhà quan sát cho rằng cách thức Powell xử lý lá thư đồng nghĩa
với việc rửa sạch sự tàn bạo của quân đội Hoa Kỳ ở Mỹ Lai.
Tháng 5 năm 2004, Powell, khi này đã là Ngoại trưởng
Hoa Kỳ, đã trả lời trong chương trình của Larry King trên
đài CNN: "Ý tôi là, tôi đã ở trong đơn vị chịu trách nhiệm về
vấn đề Mỹ Lai. Tôi ở đó sau khi sự kiện xảy ra. Mà trong chiến
tranh thì những vụ việc kinh khủng như vậy vẫn xảy ra, và
chúng ta vẫn phải ân hận về chúng".

Vụ thảm sát Mỹ Lai có lẽ sẽ tiếp tục bị che giấu nếu không
có bức thư thứ hai của Ron Ridenhour. Ridenhour, một thành
viên cũ của Đại đội Charlie và biết về vụ thảm sát qua lời kể của
đồng đội, vào tháng 3 năm 1969 đã gửi một lá thư trình bày chi
tiết sự kiện Mỹ Lai cho tổng thống Richard M. Nixon, Lầu Năm
Góc, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Bộ Tham mưu Liên quân và một

số thành viên của Quốc hội Hoa Kỳ.
Phần lớn những người được nhận thư đã bỏ qua tầm quan
trọng của nó.
Độc lập với chính phủ, nhà báo Seymour Hersh đã tiến hành
cuộc điều tra về vụ Mỹ Lai thông qua các cuộc nói chuyện với
Calley. Ngày 12 tháng 11 năm 1969 vụ việc Mỹ Lai vỡ lở.

6


Ngày 20 tháng 11, các tạp chí lớn như Time, Life
và Newsweek đồng loạt đăng lên trang bìa vụ thảm sát Mỹ Lai,
đài truyềnhình CBS cũng phát sóng cuộc phỏng vấn với Paul
Meadlo. Tờ PlainDealer ở Cleveland còn mạnh dạn hơn khi
đăng các bức ảnh mô tả những dân thường bị giết trong vụ thảm
sát.
Tháng 11 năm 1969, tướng William R.Peers được chỉ định
điều tra về sự kiện Mỹ Lai và các hành động che giấu của Lục
quân Hoa Kỳ. Bản báo cáo cuối cùng, bản báo cáo Peers (Peers
Report), được công bố tháng 3 năm 1970, đã chỉ trích mạnh mẽ
việc các sĩ quan cấp cao che giấu vụ việc cũng như những hành
động của các sĩ quan thuộc Đại đội Charlie tại làng Mỹ Lai 4.
Theo đó:"Các binh lính (thuộc tiểu đoàn 1) đã giết ít nhất
từ 175 đến 200 đàn ông, phụ nữ và trẻ em Việt Nam. Dù trong
số bị giết có người ủng hộ hoặc thân với Việt Cộng (họ không
mang vũ khí, gồm đàn ông, phụ nữ và trẻ em) nhưng nhiều bằng
chứng đã xác nhận rõ chỉ có 3-4 người đích thực là Việt Cộng
(VC). Một lính của đại đội được ghi nhận đã vô ý bị thương lúc
nạp đạn".


Phát biểu của những sĩ quan Hoa Kỳ trong cuộc thảm sát
Mỹ Lai: "Quang cảnh phía dưới trông như một bể máu! Cái quái
gì đang xảy ra vậy?" Một phi công Mỹ nói ."Có thể nói đa phần
lính trong đơn vị tôi không coi dân Việt Nam là người" . Chuẩn
úy Thompson nói ."Khi rời làng, tôi chẳng còn thấy một ai sống
sót". Binh nhất Robert Maplesn nói.

7


Các phiên tòa quân sự về vụ thảm sát Mỹ Lai ở Việt Nam.
Năm 1968, quân đội Mỹ ở Việt Nam được đánh giá có hai vụ bê
bối lớn
Thứ nhất là vụ binh lính Mỹ thảm sát 500 thường dân vô tội
(đa số là người già, phụ nữ và trẻ em) tại ngôi làng Mỹ Lai
(tỉnh Quảng Ngãi).
Phiên tòa ngày 10
tháng 9 năm 1971:
Ngày 17
3 năm

tháng
1970, Lục

quân Hoa Kỳ đã buộc tội 14 sĩ quan, bao gồm cả thiếu
tướng Samuel W. Koster, sĩ quan chỉ huy Sư đoàn Americal (Sư
đoàn bộ binh số 23), về việc che giấu thông tin liên quan tới sự
kiện Mỹ Lai. Phần lớn các lời buộc tội sau đó đã được hủy bỏ.
Chỉ huy lữ đoàn Henderson là sĩ quan duy nhất phải ra tòa án
binh về tội che giấu thông tin, dù vậy ông này cũng được tuyên

bố trắng án ngày 17 tháng 12 năm 1971
Sau phiên tòa 10 tháng, mặc dù đã tuyên bố mình chỉ tuân
theo mệnh lệnh của sĩ quan cấp trên (đại úy Medina), Calley bị
tòa tuyên là có tội ngày 10 tháng 9 năm 1971 với các tội danh
giết người có chủ ý và ra lệnh cho cấp dưới nổ súng. Ban đầu
Calley bị tuyên án chung thân nhưng chỉ 2 ngày sau tổng thống
Nixon đã ra lệnh thả Calley. Sau cùng Calley chỉ phải chịu án 4
8


tháng rưỡi ngồi tù quân sự tại Fort Leavenworth, Kansas, trong
thời gian này anh ta vẫn được bạn gái thăm nuôi không hạn chế.
Trong một phiên tòa khác, Medina phủ nhận việc ra lệnh thảm
sát, và được tuyên trắng án ở tất cả các lời buộc tội. Vài tháng
sau phiên tòa, Medina thừa nhận đã che giấu bằng chứng và nói
dối Henderson về con số dân thường bị giết. Phần lớn các binh
lính có dính líu tới vụ thảm sát Mỹ Lai khi phiên tòa xảy ra đã
giải ngũ, vì vậy họ được miễn truy tố. Trong số 26 người bị
buộc tội, chỉ có duy nhất Calley bị kết án.
Calley cho rằng anh ta nên đặt nhiệm vụ mà Tổ quốc giao cho
lên trên cái tôi của mình. Khi tiến vào Mỹ Lai, tất cả đàn ông ở
đâu? Thôn Mỹ Lai toàn là phụ nữ và trẻ em, không có thanh
niên nào cả. Điều đó có nghĩa là cha chúng xa nhà đi chiến đấu.
Calley tuyên bố những phụ nữ và trẻ em mà anh ta sát hại "chắc
chắn là Việt Cộng". Những người ủng hộ cuộc chiến cho rằng
Calley đang làm nhiệm vụ. Phe chống đối thì cho rằng anh ta
chỉ là người giơ đầu chịu báng. Ngày 19 tháng 8 năm 2009,
trong lúc phát biểu tại Kiwanis Club, Greater Columbus, lần đầu
tiên William L.Calley công khai lên tiếng xin lỗi nạn nhân. Ông
nói: "Không một ngày nào trôi qua mà tôi không cảm thấy hối

hận vì những gì đã xảy ra ngày hôm đó tại Mỹ Lai"

9


Vụ bê bối thứ hai chính là âm mưu cố tình che giấu vụ thảm
sát trên.
Phiên tòa ngày 17 tháng 12 năm 1971: Ngày 17 tháng 3 năm
1970 Lục quân Hoa Kỳ đã buộc tội 14 sĩ quan, bao gồm cả thiếu
tướng Samuel W. Koster, sĩ quan chỉ huy Sư đoàn Americal (Sư
đoàn bộ binh số 23), về việc che giấu thông tin liên quan tới sự
kiện Mỹ Lai. Phần lớn các lời buộc tội sau đó đã được hủy bỏ.
Chỉ huy lữ đoàn Henderson là sĩ quan duy nhất phải ra tòa án
binh về tội che giấu thông tin, dù vậy ông này cũng được tuyên
bố trắng án ngày 17 tháng 12 năm 1971.

Vụ việc Mỹ Lai cuối cùng cũng đến được tai Tổng thống
Richard Nixon, người đã cố gắng tìm cách ém nhẹm bớt đi tính
chất vô nhân đạo của vụ thảm sát. Nixon lo ngại về nguy cơ
phản ứng dữ dội của công luận trong lòng nước Mỹ cũng như
các vấn đề khác trong chính sách đối ngoại. Tuy nhiên, các quân
nhân đã tham gia vào vụ thảm sát hàng loạt dân thường tại Mỹ
Lai cuối cùng cũng phải ra trước tòa án. Quá trình thẩm vấn cả
thảy 398 nhân chứng đã kéo dài trong suốt 4 tháng. Riêng số tài
liệu ghi lời khai của các nhân chứng trên đã dày tới 20 ngàn
trang. Sau 57 phút tranh luận, bồi thẩm đoàn đã phán quyết…
trắng án cho hầu hết những kẻ tham gia vụ thảm sát theo toàn bộ
22 điều khoản buộc tội.

10



Trong đó hình phạt đáng kể nhất chỉ là giáng cấp quân
hàm. Kẻ duy nhất trong vụ thảm sát Mỹ Lai phải nhận một bản
án đáng kể là viên trung úy William Calley, kẻ đã liên tục xả
súng vào dân làng, ra lệnh cho cấp dưới nã đạn vào phụ nữ và
trẻ em đang ẩn nấp trong các rãnh thoát nước, còn bản thân tự
bắt một cậu bé và bắn thẳng vào đầu nạn nhân. Sau 13 ngày bàn
bạc trong phiên tòa dài nhất của lịch sử tòa án quân sự Mỹ, bồi
thẩm đoàn đã phán quyết Calley phạm tội sát nhân với bản án tù
chung thân.
Kết quả thăm dò công luận sau đó đã cho thấy, phần lớn
người dân Mỹ đều phản đối bản án quá nhẹ đối với những tên
tội phạm chiến tranh thực sự trong vụ Mỹ Lai. Sau một thời
gian theo chỉ thị của Nixon, Calley được thả khỏi tù về sống ở
nhà trong chế độ quản thúc. Tổng thống Mỹ tuyên bố sẽ xem
xét lại phán quyết tòa án và Calley được thả vào tháng 11-1974.

Hậu quả

Do hoàn cảnh hỗn loạn khi vụ thảm sát xảy ra và việc Lục
quân Hoa Kỳ không thực hiện thống kê chính xác số nạn nhân,
người ta không biết được hoàn toàn chính xác số dân thường bị
lính Mỹ giết hại tại Mỹ Lai. Con số ghi lại tại Khu chứng tích
Sơn Mỹ là 504 dân thường từ 1 tuổi đến 82 tuổi. Con số do phía
Mỹ đưa ra thấp hơn, 347 nạn nhân.

11



Che giấu và điều tra
Những báo cáo đầu tiên
của các đơn vị lính Mỹ đã
tuyên bố rằng "128 Việt
Cộng và 22 dân thường" bị
giết tại làng sau"cuộc đọ
súng
ác
liệt".
Theo
báo Stars and Stripes của
Lục quân Hoa Kỳ vào thời điểm đó đưa tin thì "Bộ binh Hoa Kỳ
đã giết 128 Cộng sản sau một trận đánh đẫm máu kéo dài 1
ngày". Những báo cáo sau này của phía Việt Nam thì tuyên bố
rằng "toàn bộ số người dân bị lính Mỹ giết tại Mỹ Lai đều là
dân thường".
Cuộc điều tra đầu tiên về chiến dịch Mỹ Lai được thiếu
tướng George H. Young giao cho đại tá Henderson, sĩ quan chỉ
huy của Lữ đoàn bộ binh nhẹ số 11 phụ trách. Henderson đã
thẩm vấn một số binh lính tham gia vụ thảm sát, sau đó đưa ra
một báo cáo vào cuối tháng 4 ghi nhận rằng khoảng 22 dân
thường đã bị giết hại một cách không cố ý trong chiến dịch.
Quân đội Mỹ lúc này vẫn coi sự kiện ở Mỹ Lai là một chiến
thắng quân sự khi lính Mỹ đã tiêu diệt được 128 lính đối
phương.
Sáu tháng sau, Tom Glen, một binh sĩ 21 tuổi của Lữ đoàn
11, đã viết một lá thư cho tướng Creighton Abrams, tổng chỉ
huy mới của các lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong lá thư
Glen buộc tội Sư đoàn Americal, tức Sư đoàn bộ binh số 23 (và
toàn bộ các đơn vị lính Mỹ khác) liên tục sử dụng bạo lực chống

lại dân thường Việt Nam, lá thư không trực tiếp nhắc tới vụ Mỹ
Lai vì Glen không biết nhiều về vụ tàn sát. Một trong các sĩ
quan được giao phân tích lá thư là Colin Powell. Trong báo cáo
phân tích, Powell viết: "Điều phản bác lại những gì miêu tả
trong bức thư là sự thật rằng quan hệ giữa binh sĩ Hoa Kỳ và
12


người dân Việt Nam là tuyệt vời", một vài nhà quan sát cho rằng
cách thức Powell xử lý lá thư đồng nghĩa với việc rửa sạch sự
tàn bạo của quân đội Hoa Kỳ ở Mỹ Lai. Tháng 5 năm 2004,
Powell, khi này đã là Ngoại trưởng Hoa Kỳ, đã trả lời trong
chương trình của Larry King trên đài CNN: "Ý tôi là, tôi đã ở
trong đơn vị chịu trách nhiệm về vấn đề Mỹ Lai. Tôi ở đó sau
khi sự kiện xảy ra. Mà trong chiến tranh thì những vụ việc kinh
khủng như vậy vẫn xảy ra, và chúng ta vẫn phải ân hận về
chúng".
Vụ thảm sát Mỹ Lai có lẽ sẽ tiếp tục bị che giấu nếu không
có bức thư thứ hai của Ron Ridenhour. Ridenhour, một thành
viên cũ của Đại đội Charlie và biết về vụ thảm sát qua lời kể của
đồng đội, vào tháng 3 năm 1969 đã gửi một lá thư trình bày chi
tiết sự kiện Mỹ Lai cho tổng thống Richard M. Nixon, Lầu Năm
Góc, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Bộ Tham mưu Liên quânvà một
số thành viên của Quốc hội Hoa Kỳ. Phần lớn những người
được nhận thư đã bỏ qua tầm quan trọng của nó.
Độc lập với chính phủ, nhà báo Seymour Hersh đã tiến
hành cuộc điều tra về vụ Mỹ Lai thông qua các cuộc nói chuyện
với Calley. Ngày 12 tháng 11 năm 1969 vụ việc Mỹ Lai vỡ lở.
Ngày 20
tháng

11,
các
tạp
chí
lớn
như Time, Life và Newsweekđồng loạt đăng lên trang bìa vụ
thảm sát Mỹ Lai, đài truyền hình CBS cũng phát sóng cuộc
phỏng vấn với Paul Meadlo. TờPlain Dealer ở Cleveland còn
mạnh dạn hơn khi đăng các bức ảnh mô tả những dân thường bị
giết trong vụ thảm sát. Tháng 11 năm 1969, tướng William R.
Peers được chỉ định điều tra về sự kiện Mỹ Lai và các hành
động che giấu của Lục quân Hoa Kỳ. Bản báo cáo cuối cùng,
bản báo cáo Peers (Peers Report), được công bố tháng 3
năm 1970, đã chỉ trích mạnh mẽ việc các sĩ quan cấp cao che
giấu vụ việc cũng như những hành động của các sĩ quan thuộc
Đại đội Charlie tại làng Mỹ Lai 4. Theo đó:

13


Các binh lính [tiểu đoàn 1] đã giết ít nhất từ 175 đến 200
đàn ông, phụ nữ và trẻ em Việt Nam. Dù trong số bị giết có
người ủng hộ hoặc thân với Việt Cộng (họ không mang vũ khí,
gồm đàn ông, phụ nữ và trẻ em) nhưng nhiều bằng chứng đã xác
nhận rõ chỉ có 3-4 người đích thực là Việt Cộng (VC). Một lính
của đại đội được ghi nhận đã vô ý bị thương lúc nạp đạn.
Các phiên tòa
Trung úy Calley, trên bìa tạp chí là dòng chữ "Lời thú tội
(hay tuyên bố) của trung úy Calley"
Ngày 17 tháng 3 năm 1970, Lục quân Hoa Kỳ đã buộc tội

14 sĩ quan, bao gồm cả thiếu tướng Samuel W. Koster, sĩ quan
chỉ huy Sư đoàn Americal (Sư đoàn bộ binh số 23), về việc che
giấu thông tin liên quan tới sự kiện Mỹ Lai. Phần lớn các lời
buộc tội sau đó đã được hủy bỏ. Chỉ huy lữ đoàn Henderson là
sĩ quan duy nhất phải ra tòa án binh về tội che giấu thông tin, dù
vậy ông này cũng được tuyên bố trắng án ngày 17 tháng 12
năm 1971
Sau phiên tòa 10 tháng, mặc dù đã tuyên bố mình chỉ tuân
theo mệnh lệnh của sĩ quan cấp trên (đại úy Medina), Calley bị
tòa tuyên là có tội ngày 10 tháng 9 năm 1971 với các tội danh
giết người có chủ ý và ra lệnh cho cấp dưới nổ súng. Ban đầu
Calley bị tuyên án chung thân nhưng chỉ 2 ngày sau tổng thống
Nixon đã ra lệnh thả Calley. Sau cùng Calley chỉ phải chịu án 4
tháng rưỡi ngồi tù quân sự tại Fort Leavenworth,Kansas, trong
thời gian này anh ta vẫn được bạn gái thăm nuôi không hạn chế.
Trong một phiên tòa khác, Medina phủ nhận việc ra lệnh thảm
sát, và được tuyên trắng án ở tất cả các lời buộc tội. Vài tháng
sau phiên tòa, Medina thừa nhận đã che giấu bằng chứng và nói
dối Henderson về con số dân thường bị giết. Phần lớn các binh
lính có dính líu tới vụ thảm sát Mỹ Lai khi phiên tòa xảy ra đã
giải ngũ, vì vậy họ được miễn truy tố. Trong số 26 người bị
buộc tội, chỉ có duy nhất Calley bị kết án.
14


Calley cho rằng anh ta nên đặt nhiệm vụ mà Tổ quốc giao
cho lên trên cái tôi của mình. Khi tiến vào Mỹ Lai, tất cả đàn
ông ở đâu? Thôn Mỹ Lai toàn là phụ nữ và trẻ em, không
có thanh niên nào cả. Điều đó có nghĩa là cha chúng xa nhà đi
chiến đấu. Calley tuyên bố những phụ nữ và trẻ em mà anh ta

sát hại "chắc chắn là Việt Cộng".
Những người ủng hộ cuộc chiến cho rằng Calley đang làm
nhiệm vụ. Phe chống đối thì cho rằng anh ta chỉ là người giơ
đầu chịu báng.
Ngày 19 tháng 8 năm 2009, trong lúc phát biểu tại Kiwanis
Club, Greater Columbus, lần đầu tiên William L.Calley công
khai lên tiếng xin lỗi nạn nhân. Ông nói: "Không một ngày nào
trôi qua mà tôi không cảm thấy hối hận vì những gì đã xảy ra
ngày hôm đó tại Mỹ Lai"
Những người sống sót
Trong vụ thảm sát ở Mỹ Lai, có một số người sống sót nhờ
được xác của những người thân che chắn khỏi những làn đạn
của lính Mỹ, một trong số đó là Đỗ Ba (Đỗ Hòa), người đã được
phi đội Thompson cứu khỏi cái mương đầy xác chết. Những
người sống sót sau đó đã tái định cư tại khu lán trại nằm ở thôn
Mỹ Lai 2. Khu định cư này gần như đã bị phá hủy sau cuộc
pháo kích và không kích của Quân lực Việt Nam Cộng hòa mùa
xuân năm 1972. Vụ phá hủy đầu tiên được đổ cho Việt Cộng
nhưng sự thật sau đó đã được các nhân viên Quaker làm việc ở
Quảng Ngãi công bố. Vụ việc này sau đó đã được đăng trên
tờ New York Times tháng 6 năm 1972.

15



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×