Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Đề tài bạo lực gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.48 KB, 20 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bạo lực gia đình là vấn đề mang tính lịch sử toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều
hậu quả nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ. Bước sang thế kỷ XXI, phòng, chống bạo
lực giới đang là một trong những mục tiêu của thiên niên kỷ. Tổng Thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki
Moon đã tuyên bố: "Bạo lực đối với phụ nữ là không bao giờ được chấp nhận, không bao giờ được
khoan dung, tha thứ..." [16]
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều sự quan tâm tới việc phòng, chống
bạo lực gia đình và đã ban hành nhiều đạo luật trực tiếp và gián tiếp liên quan như: Hiến pháp năm
1992; Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Bộ luật Dân sự; Pháp lệnh
Xử lý vi phạm hành chính; Pháp lệnh về Người cao tuổi; Pháp lệnh về Người tàn tật.. và đặc biệt là
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ra đời, sự quan tâm của các học giả tới vấn đề này
thường chỉ dừng ở những nghiên cứu về mặt xã hội, những nghiên cứu về pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình thường lồng trong các nghiên cứu về hôn nhân gia đình.

3. Tính mới của đề tài
Đề tài “Một số vấn đề pháp lý về bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay” không đi vào nghiên cứu một
nội dung cụ thể nào mà chỉ đánh giá chung về các quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình của
Việt Nam, tham khảo quy định của một số nước trên thế giới về vấn đề này.

4. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm hiểu các quy định của pháp luật về bạo lực gia đình hiện nay,
xem xét thực trạng về bạo lực gia đình để tìm ra một số giải pháp pháp lý nhằm ngăn chặn có hiệu quả hành vi
này.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào các quy định của Luật Phòng, chống


bạo lực gia đình năm 2007, có xem xét tới các quy định có liên quan trong các văn bản pháp
luật khác.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn còn gồm 3 chương:


2
Chương I: Khái quát chung về bạo lực gia đình
Chương II: Thực trạng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
Chương III: Thực trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam trong những năm gần đây và một số giải pháp
pháp lý nhằm ngăn chặn có hiệu quả hành vi bạo lực trên thực tế.


3

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm gia đình và thành viên gia đình
Dưới góc độ xã hội học, gia đình được coi là tế bào của xã hội. Không giống bất cứ
nhóm xã hội nào khác, gia đình có sự đan xen các yếu tố sinh học, kinh tế, tâm lý, văn hóa...
Những mối liên hệ cơ bản của gia đình bao gồm vợ chồng, cha mẹ và con, ông bà và cháu,
những mối liên hệ khác: cô, dì, chú, bác với cháu, cha mẹ chồng và con dâu, cha mẹ vợ và con
rể... Mối quan hệ gia đình được thể hiện ở các khía cạnh như: có đời sống tình dục, sinh con và
nuôi dạy con cái, lao động tạo ra của cải vật chất để duy trì đời sống gia đình và đóng góp cho
xã hội. Mối liên hệ này có thể dựa trên những căn cứ pháp lý hoặc có thể dựa trên những căn cứ
thực tế một cách tự nhiên, tự phát.
Dưới góc độ pháp lý, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau hôn nhân, quan
hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau
theo quy định của luật này (Điều 8, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000)

Tuy nhiên, trong thực tế đời sống cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm gia
đình: gia đình là tập hợp những người cùng có tên trong một sổ hộ khẩu; gia đình là tập hợp
những người cùng chung sống với nhau dưới một mái nhà…
Xuất phát từ những quan niệm khác nhau về gia đình dẫn tới những quan niệm khác
nhau về thành viên gia đình.
Thành viên gia đình có thể được hiểu là những người gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn
nhân, huyết thống, nuôi dưỡng; hoặc cũng có quan điểm cho rằng thành viên gia đình là những
người cùng được ghi tên trong một sổ hộ khẩu; hoặc là những người cùng sống trong một gia
đình…
Thành viên gia đình hiểu theo nghĩa truyền thống là tất cả những người trong cùng dòng
họ, trong một đại gia đình từ cụ, kỵ, ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt... (bao gồm
cả con dâu, con rể, cháu dâu, cháu rể...)
những người khác sống cùng như người giúp việc, giữa những người đã từng là con dâu
với cha mẹ chồng, đã từng là con rể với cha mẹ vợ, giữa những người sống chung với nhau như
vợ chồngngười này có một khoảng thời gian sống chung với nhau ổn định, có sự quan tâm chia
sẻ với nhau những công việc của gia đình và xã hội, từ đó hình thành nên mối liên hệ đặc biệt
về tâm lý, tình cảm, tạo nên cách ứng xử giữa họ với nhau.

1.1.2. Khái niệm bạo lực và bạo lực gia đình


4

Trong tiếng Việt, bạo lực được hiểu là "sức mạnh dùng để cưỡng bức, trấn áp hoặc lật
đổ" [12]. Khái niệm này dễ làm người ta liên tưởng tới các hoạt động chính trị, nhưng trên thực
tế bạo lực được coi như một phương thức hành xử trong các quan hệ xã hội nói chung. Các mối
quan hệ xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp nên hành vi bạo lực cũng rất phong phú, được chia
thành nhiều dạng khác nhau tùy theo từng góc độ nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo lực
không nhìn thấy được; bạo lực với phụ nữ, với trẻ em…
Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là “hành vi cố ý của các thành

viên gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại… với các thành viên khác trong gia đình”
(Điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình).
- Bạo lực thể chất: là hành vi ngược đãi, đánh đập thành viên gia đình, làm tổn thương
tới sức khỏe, tính mạng của họ
- Bạo lực về tinh thần: là những lời nói, thái độ, hành vi làm tổn thương tới danh dự,
nhân phẩm, tâm lý của thành viên gia đình
- Bạo lực về kinh tế: là hành vi xâm phạm tới các quyền lợi về kinh tế của thành viên gia
đình (quyền tự do lao động, tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản…)
- Bạo lực về tình dục: là bất kỳ hành vi nào mang tính chất cưỡng ép trong các quan hệ
tình dục giữa các thành viên gia đình, kể cả việc cưỡng ép sinh con.
Mỗi hình thức bạo lực có thể được biểu hiện dưới nhiều hành vi khác nhau. Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình đã quy định các hành vi bạo lực bao gồm:
- Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính
mạng;
- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;
- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu;
giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
- Cưỡng ép quan hệ tình dục;
- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của
thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;
- Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của
họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;
- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.


5

1.2. Một số yếu tố tác động đến bạo lực gia đình

1.2.1. Phong tục, tập quán
Việt Nam là một nước Á Đông với tư tưởng gia trưởng còn nặng nề, điều này có ảnh
hưởng rất lớn tới vấn đề bạo lực gia đình ở nước ta hiện nay. Tính gia trưởng được chấp nhận
trong gia đình và ngoài xã hội đã tạo ra một vị trí đặc biệt cho những người đàn ông trong gia
đình: họ có "quyền" quyết định những vấn đề quan trọng, quyết định thái độ ứng xử với các
thành viên khác, họ có quyền “dạy dỗ” vợ con theo ý mình...

1.2.2. Tâm lý
Khái niệm tâm lý được đề cập ở đây không phải là tâm lý xã hội nói chung mà là tâm lý
của từng thành viên trong gia đình với tư cách là cha, mẹ, con, anh, chị, em…với nhau và với
vấn đề bạo lực gia đình.
Tâm lý của mỗi cặp vợ chồng nói chung vẫn là: “Phu xướng phụ tùy”, đề cao vai trò tự
chủ của đàn ông trong gia đình. Điều này có lúc đã làm mất đi quyền tự vệ của người vợ trước
những hành vi bạo lực của chồng mình. Điều này đã ăn sâu vào suy nghĩ của rất nhiều thế hệ
người Việt Nam: vợ đánh chồng luôn bị coi là hành vi xấu, bị cả xã hội lên án; còn người chồng
đánh vợ thì mặc nhiên được gọi là “biết dạy vợ”; hành vi “đòi hỏi” của người chồng luôn được
coi là chính đáng và người vợ có nghĩa vụ phải phục tùng theo…
Với các thành viên khác trong gia đình, tâm lý “kính già yêu trẻ”, “kính trên nhường
dưới” vẫn được đề cao. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố văn hóa, sự áp đặt của những
thành viên lớn tuổi với các thành viên nhỏ hơn trong gia đình là khá phổ biến và thường xuyên
vì quan niệm “khôn không đến trẻ, khỏe không đến già”. Trong xã hội hiện nay, điều này
thường làm phát sinh tư tưởng chống đối ở giới trẻ khiến các mối quan hệ trong gia đình trở nên
căng thẳng, dễ làm phát sinh bạo lực gia đình.

1.2.3. Điều kiện kinh tế xã hội
Điều Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố văn hóa bên ngoài, xu hướng bạo lực
có chiều hướng gia tăng trong xã hội Việt Nam: mọi người đều dễ dàng tìm đến việc sử dụng
bạo lực để giải quyết các mâu thuẫn phát sinh. Ngoài ra, sự suy giảm các giá trị truyền thống
cũng làm gia tăng những hành vi bạo lực gia đình vốn hiếm gặp trước đây: Vợ đánh chồng, con
cái đánh đập, mắng chửi bố mẹ, bạo lực tình dục trong gia đình, đặc biệt là với trẻ em…


1.2.4. Định kiến giới
Quan niệm trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt Nam từ hàng ngàn năm
nay và thực sự đã và đang cướp đi nhiều quyền lợi chính đáng của người phụ nữ. Người vợ,


6

người mẹ thường không có được sự tôn trọng xứng đáng trong gia đình, không được hưởng
những quyền lợi về vật chất, về tinh thần và thường xuyên phải chịu những tổn thương: bị đánh
đập, bị xúc phạm danh dự, bị cưỡng ép tình dục… Ngay cả với trẻ em, quan niệm “con gái là
con người ta” cũng khiến nhiều bé gái bị thiệt thòi hơn so với bé trai. Sự bất bình đẳng về giới
này được cả xã hội chấp nhận, thậm chí cả chính những người phụ nữ cũng coi đó là bình
thường.

1.3.2. Ý nghĩa của việc phòng, chống bạo lực gia đình
Với những hậu quả nêu trên, việc phòng, chống bạo lực gia đình có ý nghĩa quan trọng
trong việc đảm bảo quyền con người, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của các thành
viên gia đình; đảm bảo sự phát triển lành mạnh của trẻ em; đảm bảo cho hạnh phúc, bình yên
trong mỗi gia đình cũng như đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Việc phòng, chống bạo lực gia đình trước hết là nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi bạo lực
hoặc nguy cơ gây ra hành vi bạo lực gia đình, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của tất
cả các chủ thể, đặc biệt là nạn nhân của bạo lực gia đình. Với trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia
đình, là thành viên của gia đình có hành vi bạo lực gia đình thì việc phòng, chống bạo lực gia
đình là một cách để đảm bảo quyền trẻ em, bảo đảm cho các em có một môi trường tốt cho sự
phát triển nhân cách. có tác động rất lớn trong giáo dục, răn đe thậm chí là cải tạo làm thay đổi
nhận thức của họ.
Việc phòng, chống bạo lực gia đình sẽ nâng cao ý thức bảo vệ gia đình cho các thành
viên, góp phần đảm bảo cho một gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc, bền vững. Bắt đầu
bằng việc nhận ra hậu quả của hành vi bạo lực, những quyền và nghĩa vụ của mình với hành vi

bạo lực trong gia đình, mỗi thành viên gia đình sẽ có ý thức sâu sắc hơn việc cần phải tôn trọng
lẫn nhau, cần có những sự quan tâm đúng cách tới nhau, cần có những ứng xử hợp lý khi nảy
sinh tranh chấp...
Phòng, chống bạo lực gia đình không phải là trách nhiệm của riêng ai mà là trách nhiệm
của toàn xã hội: các cá nhân, gia đình, các tổ chức xã hội và nhà nước. Việc thực hiện các quy
định về phòng, chống bạo lực gia đình sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân với
cộng đồng, góp phần xóa bỏ quan niệm “đèn nhà ai nhà nấy rạng”, sự thiếu quan tâm tới hành
vi bạo lực gia đình cũng như thái độ thờ ơ với nạn nhân của bạo lực gia đình.

1.4.1. Phạm vi điều chỉnh
Luật mẫu về bạo lực gia đình của Ủy ban về nhân quyền của Liên hợp quốc khuyến
khích các quốc gia xác định phạm vi các mối quan hệ nảy sinh bạo lực gia đình càng rộng càng


7

tốt, vì mục đích của Luật không chỉ là công nhận về mặt pháp lý giữa nạn nhân và thủ phạm mà
là xác định nhóm nạn nhân có thể cần hỗ trợ và bảo vệ xuất phát từ tính chất riêng tư của mối
quan hệ mà từ đó nạn bạo lực nảy sinh. Bên cạnh đó, ở những quốc gia khác nhau thì quy định
về những đối tượng cụ thể của hành vi bạo lực gia đình cũng khác nhau.
Ví dụ: Điều 3 Luật Bảo vệ chống bạo lực gia đình của Bun-ga-ri quy định: “Biện pháp
bảo vệ có thể được áp dụng khi có yêu cầu của người bị bạo lực gia đình do những người sau
đây gây ra:
1. Vợ/chồng hay đã từng là vợ/chồng;
2. Người đang hay đã từng cùng chung sống như vợ chồng;
3. Người có con chung;
4. Ông, bà;
5. Cháu;
6. Anh, chị, em ruột;
7. Người có họ hàng trong phạm vi 3 đời;

8. Người giám hộ hay cha mẹ nuôi tạm thời”
Trong khi đó, Khoản 2, Điều 2 Luật Đặc biệt về trừng phạt hành vi bạo lực trong gia
đình của Hàn Quốc quy định: “Các thành viên trong gia đình” là những người có bất cứ điều
kiện nào sau đây:
- Vợ, chồng (bao gồm cả người có hôn nhân thực tế) hoặc bất cứ người nào có quan hệ
hôn nhân
- Bất cứ người nào đang có quan hệ hoặc đã từng có quan hệ tổ tiên (bao gồm những
người có chung huyết thống hoặc những người được nhận làm con nuôi một cách hợp pháp)
- Bất cứ người nào có quan hệ là con với cha kế hay mẹ kế hoặc là con ngoài giá thú
của người phụ nữ mà người này lại kết hôn hợp pháp với cha của người đó
- Bất cứ người nào có quan hệ họ hàng và chung sống cùng nhau

1.4.2. Phòng ngừa bạo lực gia đình
Một số quốc gia rất quan tâm tới việc phòng ngừa bạo lực gia đình bằng các biện pháp
như: tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức của người dân, nghiên cứu về bạo lực gia đình
(Nhật Bản, Philippin, Malaysia, Đông Timo). Tuy nhiên, cũng có một số nước chủ yếu tập
trung vào các biện pháp can thiệp hỗ trợ nạn nhân khi bạo lực xảy ra (Hàn Quốc, Indonesia)


8

Luật Chống bạo lực gia đình của Đông Timo có cách tiếp cận khá rộng đối với việc
phòng ngừa bạo lực gia đình. Theo đó, để phòng ngừa bạo lực gia đình xảy ra, Nhà nước phải:
- Tạo điều kiện để xây dựng một chương trình giáo dục về quyền con người cho cả
trường tiểu học lẫn trung học;
- Tạo điều kiện để biên soạn một chương trình giáo dục về quyền con người và các hình
thức về bạo lực gia đình cho cảnh sát, công tố viên, thẩm phán, luật sư tham gia giải quyết
những vụ việc bạo lực gia đình;
- Cung cấp thông tin cho quần chúng, những người lãnh đạo theo truyền thống và trong
cộng đồng về quyền con người, về bạo lực gia đình – một sự vi phạm quyền con người;

- Các cơ quan chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng cùng nhau phối hợp nỗ
lực phòng ngừa bạo lực gia đình và giải quyết những yếu tố kinh tế - xã hội làm tăng nguy cơ
bạo lực gia đình.

1.4.4. Về các quyết định bảo vệ nạn nhân
Các quyết định bảo vệ nạn nhân đã trở thành một trong những công cụ phổ biến nhất để
đấu tranh với nạn bạo lực gia đình và bảo vệ nạn nhân.
Ở nhiều nước, người có quyền yêu cầu bảo vệ nạn nhân không chỉ là nạn nhân mà còn
bao gồm cả những người khác. Ví dụ, ở Philippin, việc ban hành quyết định bảo vệ có thể được
những người sau đây yêu cầu: nạn nhân, cha mẹ hoặc người thân của nạn nhân, nhân viên xã
hội, sỹ quan cảnh sát, viên chức chính quyền địa phương, luật sư của nạn nhân, bác sỹ chuyên
khoa hoặc nhân viên chăm sóc sức khỏe hoặc những công dân hữu quan đã chứng kiến hành vi
bạo lực..
Trong quyết định bảo vệ, người có hành vi bạo lực thường bị áp đặt một số hành vi: cấm
thực hiện bất cứ hành vi bạo lực mới nào; cấm tiếp xúc với nạn nhân; yêu cầu người vi phạm
rời khỏi nhà (Malayxia, Nhật Bản, Đài Loan); yêu cầu người vi phạm thực hiện cấp dưỡng tạm
thời (Philippin, Camphichia, Đài Loan); quyết định giao trông nom trẻ (Nhật Bản, Đài Loan,
Camphichia); cho phép bắt giữ không cần lệnh bắt giữ nếu cảnh sát nhận được thông tin rằng
quyết định bảo vệ bị vi phạm (Malayxia, Camphuchia).


9

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
2.1. Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình
Theo quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, nguyên tắc của phòng, chống
bạo lực gia đình bao gồm:
Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng
ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà giải phù hợp

với truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của
pháp luật.
Bên cạnh đó, hành vi bạo lực càng kéo dài thì càng gây ra nhiều tổn thương cho nạn
nhân, tổn hại tới mối quan hệ gia đình. Điều này sẽ được hạn chế rất nhiều nếu hành vi bị phát
hiện và xử lý kịp thời.
Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn
cảnh của họ và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong
phòng, chống bạo lực gia đình. [8, Điều 3]

2.2. Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể của bạo lực gia đình
2.2.1. Quyền, nghĩa vụ của nạn nhân
Quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình được quy định cụ thể tại Điều 5, Luật
Phòng chống bạo lực gia đình, bao gồm:
“1. Nạn nhân bạo lực gia đình có các quyền sau đây:
a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm,
quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình;
b) Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc
theo quy định của Luật này;
c) Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật;
d) Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác theo quy định
của Luật này;


10

đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2. Nạn nhân bạo lực gia đình có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình

cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu.”

2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình
Người có hành vi bạo lực gia đình là người đã gây ra những tổn hại hoặc có khả năng
gây tổn hại cho thành viên khác trong gia đình. Trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình,
nghĩa vụ của họ được ghi nhận ở Điều 4, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình:
“1. Tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực.
2. Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
3. Kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, trừ trường
hợp nạn nhân từ chối.
4. Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo lực gia đình khi có yêu cầu và theo quy định của pháp
luật.”

2.3. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình và các cơ quan, tổ chức trong phòng, chống
bạo lực gia đình
2.3.1. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình
Điều 32, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định về trách nhiệm gia đình và các
thành viên gia đình trong phòng, chống bạo lực gia đình:
1. Giáo dục, nhắc nhở thành viên gia đình thực hiện quy định của pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống ma túy, mại dâm và các
tệ nạn xã hội khác.
2. Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình; can ngăn người có hành vi
bạo lực gia đình chấm dứt hành vi bạo lực; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình.
3. Phối hợp với cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng, chống bạo lực gia đình.
4. Thực hiện các biện pháp khác về phòng, chống bạo lực gia đình theo quy định của Luật này.
gia đình thì họ phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Cụ thể: một số hành vi
bị pháp luật nghiêm cấm, được quy định tại Điều 8, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình:
1. Các hành vi bạo lực gia đình quy định tại Điều 2 của Luật này.
2. Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi bạo lực gia đình.
3. Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động bạo lực gia đình.



11

4. Trả thù, đe doạ trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình, người phát hiện, báo tin,
ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình.
5. Cản trở việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia đình.
6. Lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi hoặc thực hiện hoạt động trái
pháp luật.
7. Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của pháp luật đối với hành vi
bạo lực gia đình.

2.3.2. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức khác
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã nêu lên trách nhiệm của rất nhiều cơ quan, tổ
chức trong lĩnh vực này, trong đó có thể kể tới Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên, bao gồm:
1. Tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích, động viên hội viên và nhân dân chấp hành pháp luật
về phòng, chống bạo lực gia đình,hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống ma túy,
mại dâmvà các tệ nạn xã hội khác.
2. Kiến nghị những biện pháp cần thiết với cơ quan nhà nước có liên quan để thực hiện pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình,hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống ma
túy, mại dâmvà các tệ nạn xã hội khác; tham gia phòng, chống bạo lực gia đình, chăm sóc, hỗ
trợ và bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình.
3. Tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. (Điều 33)
Bên cạnh đó, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam – một thành viên của Mặt trận cũng được
giao một số trach nhiệm cụ thể:
1. Thực hiện trách nhiệm quy định tại Điều 33 của Luật này.
2. Tổ chức cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia
đình.
3. Tổ chức các hoạt động dạy nghề, tín dụng, tiết kiệm để hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình.

4. Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan để bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình.
(Điều 34)

2.4. Các biện pháp cơ bản ngăn chặn hành vi bạo lực và bảo vệ nạn nhân bạo lực
gia đình
Để ngăn chặn hành vi bạo lực và bảo vệ nạn nhân, có thể áp dụng rất nhiều biện pháp đã
được pháp luật quy định. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập tới một số biện pháp được cho là cơ bản
nhất, bao gồm:


12

2.4.1. Buộc chấm dứt hành vi bạo lực và cấp cứu nạn nhân
Đây là một trong những biện pháp ngăn chặn, bảo vệ được quy định tại Điều 19, Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình với mục đích bảo vệ nạn nhân, chấm dứt hành vi bạo lực gia
đình, giảm thiểu hậu quả do hành vi bạo lực gây ra.
Việc chấm dứt hành vi và đưa nạn nhân đi cấp cứu là nghĩa vụ của người có hành vi bạo
lực gia đình.
Tuy nhiên, nếu chỉ quy định chung chung như vậy thì việc triển khai trên thực tế sẽ gặp
rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, pháp luật đã có những quy định chặt chẽ hơn về vấn đề này.
Cụ thể: Điều 20, Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 10-12-2009 của Chính phủ quy định về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình (sau đây gọi là Nghị
định 110) đã quy định mức xử phạt với hành vi cố ý không ngăn chặn, báo tin và cản trở việc
ngăn chặn, báo tin, xử lý hành vi bạo lực gia đình như sau:
1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với với một trong các
hành vi sau:
a) Biết hành vi bạo lực gia đình, có điều kiện ngăn chặn mà không ngăn chặn dẫn đến hậu quả
nghiêm trọng;
b) Biết hành vi bạo lực gia đình mà không báo tin cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền;
c) Có hành vi cản trở người khác phát hiện, khai báo hành vi bạo lực gia đình.

Ngược lại, những người trực tiếp tham gia phòng, chống bạo lực gia đình sẽ được hưởng
các chế độ quy định tại Điều 5, Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 04/02/2009 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
(sau đây gọi là Nghị định 08) như sau:
1. Người trực tiếp tham gia phòng, chống bạo lực gia đình mà có thành tích thì được khen
thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng;
2. Người có hành vi dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân khi trực tiếp
thực hiện việc ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình, nếu bị chết thì được xem xét để công nhận
là liệt sĩ, nếu bị thương làm suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên thì được xem xét để
được hưởng chính sách như thương binh theo quy định của pháp luật;
3. Người trực tiếp tham gia phòng, chống bạo lực gia đình mà bị thiệt hại về tài sản thì được
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi xảy ra bạo lực gia đình hoàn trả thiệt hại trong trường hợp
người gây thiệt hại không có khả năng bồi thường thiệt hại; kinh phí hoàn trả được lấy từ ngân


13

sách của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh dành cho thực hiện nhiệm vụ phòng, chống bạo lực gia
đình tại địa phương.

2.5. Xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
Điều 42, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định về xử lý người có hành vi vi phạm pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình như sau:
“1. Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân có hành vi bạo lực
gia đình nếu bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định của khoản 1 Điều này thì bị thông báo
cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người đó để giáo dục.
3. Chính phủ quy định cụ thể các hành vi vi phạm hành chính về phòng, chống bạo lực gia

đình, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với người có hành vi vi phạm pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình.”

2.5.2. Xử lý hành chính
Những quy định cụ thể về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo
lực gia đình đã được ghi nhận tại Nghị định 110. Nghị định này quy định rất chi tiết về phạm vi
điều chỉnh, đối tượng áp dụng, thẩm quyền, nguyên tắc, hình thức xử phạt, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ… Theo đó:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình là hành vi bạo lực gia
đình và các hành vi khác do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý vi phạm các
quy định của pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình mà không phải là tội phạm
và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
Người có hành vi bạo lực gia đình có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt và biện pháp
khắc phục hậu quả như sau:
“1. Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình, cá
nhân, tổ chức vi phạm bị áp dụng một trong các hình thức xử phạt chính sau:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền.
Mức phạt tiền cụ thể đối với từng hành vi vi phạm được quy định tại Chương II Nghị
định này.


14

Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình có thể bị phạt
tiền từ 100.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
2. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp
dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau:
a) Tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động, Chứng chỉ hành nghề;
b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.

3. Ngoài các hình thức xử phạt được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, cá nhân, tổ
chức có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình còn có thể bị
áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả sau:
a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra;
b) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do
vi phạm hành chính gây ra;
c) Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi và cây trồng, văn hóa
phẩm độc hại;
d) Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu.
4. Người nước ngoài vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình trên
lãnh thổ Việt Nam còn có thể bị xử phạt trục xuất. Trục xuất được áp dụng là hình thức xử phạt
chính hoặc xử phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể.
2.5.3. Xử lý theo pháp luật dân sự
Điều 4, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia
đình là “Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo lực gia đình khi có yêu cầu và theo quy định
của pháp luật”(Khoản 4). Điều 42 của Luật này cũng ghi nhận: “Người có hành vi vi phạm
pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình... nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật” (Khoản 1). Những quy định này là hoàn toàn phù hợp với quy định của
Điều 604, Bộ luật Dân sự:
“Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài
sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”

2.5.4. Xử lý theo pháp luật hình sự
Hiện nay, Bộ luật Hình sự đã có phần riêng quy định về các tội xâm phạm chế độ hôn
nhân và gia đình (Chương XV), trong đó có những tội liên quan tới bạo lực gia đình gồm:


15


Điều 146. Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ
Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người
khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi,
uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt hành chính về hành
vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù
từ ba tháng đến ba năm.
Cưỡng ép kết hôn là dùng mọi thủ đoạn bắt buộc người khác (bên nam, bên nữ hoặc cả
hai bên) phải kết hôn trái với ý muốn của họ..
Hành vi cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được thực hiện bằng
nhiều thủ đoạn khác nhau như hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc thủ
đoạn khác.
Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT/BTP-BCA-TANDTCVKSNDTC hướng dẫn áp dụng các quy định tại Chương XV “Các tội xâm phạm chế độ hôn
nhân gia đình” của Bộ luật Hình sự năm 1999: chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
này khi người vi phạm đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Nghĩa là trước
đó người này đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê trong Điều 146
này, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính mà lại thực hiện chính hành vi đó hoặc một trong những hành
vi được liệt kê trong điều luật này.


16

CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN
ĐÂY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁP LÝ NHẰM NGĂN CHẶN CÓ HIỆU QUẢ
HÀNH VI BẠO LỰC TRÊN THỰC TẾ
3.1. Thực trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam những năm gần đây

3.1.1. Thực trạng bạo lực giữa các thành viên trong gia đình
a) Bạo lực giữa vợ và chồng

Bạo lực của người chồng đối với người vợ trong gia đình: đây là hình thức bạo lực được
coi là phổ biến nhất trong gia đình. Không cần nhiều số liệu chứng minh chúng ta cũng có thể
khẳng định bạo lực do người chồng gây ra chủ yếu và lớn nhất là bạo lực về thể chất – hình
thức bạo lực dễ nhận thấy nhất và bị lên án mạnh mẽ nhất.

b. Bạo lực giữa cha mẹ và con cái
Với những phân tích trên về tâm lý, truyền thống, thói quen của người Việt, bạo lực gia
đình giữa cha mẹ với con cái là khá phổ biến và được xã hội chấp nhận. Đó thường là những
hành động “dạy bảo” con cái, xuất phát từ quan niệm “yêu cho roi cho vọt” và giáo dục cần
phải nghiêm khắc. Rất nhiều ông bố bà mẹ coi việc đánh đập, chửi mắng con cái khi chúng mắc
lỗi là cần thiết để chúng nhận ra sai lầm và sửa chữa; hay coi việc mạt sát, trách móc là động
lực để chúng phấn đấu. Trên thực tế, cách làm này phần nào phù hợp với tâm lý người Việt và
đạt được những kết quả nhất định.
Báo Pháp luật Việt Nam số 62, ngày 03/03/2011 có đưa tin về một vụ án đã gây xôn xao
dư luận ở tỉnh Kiên Giang: vì tiền, đứa con bất hiếu đã bóp cổ mẹ, treo ngược bố lên cành mít
để tra hỏi. Cụ thể: đã nhiều năm, tại ấp Sơn Thành, xã Nam Hoài Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh
Kiên Giang quen với cảnh tên Đỗ Văn Hiếu (Sn 1992, con ruột bà Lê Thị Nga và ông Đỗ Văn
Ái) luôn say xỉn, thường xuyên chửi bới, đánh đập cha mẹ. Nghiêm trọng nhất là chiều ngày
25/12/2010, khi Hiếu đi uống rượu về, thấy mẹ đang ngủ đã dùng dao dí vào cổ bà Nga đòi phải
đưa xe máy và 22 triệu. Trong hoàn cảnh bị chính cậu quý tử đe dọa, bà Nga chỉ còn biết khóc
lóc van xin. này. [19]
c) Bạo lực giữa các thành viên khác trong gia đình
Bạo lực giữa các thành viên khác trong gia đình với nhau cũng đã tồn tại từ lâu nhưng
chiếm tỷ lệ không lớn, vì mức độ phụ thuộc giữa các thành viên này là không cao như giữa vợ
chồng hay cha mẹ với con. Nạn nhân của loại bạo lực này vẫn chủ yếu là phụ nữ và trẻ em khi
mà các thành viên này muốn tham gia vào việc “giáo dục” những người làm dâu, làm con trong
gia đình. Ngoài ra, những mâu thuẫn trong gia đình không tìm được cách giải quyết cũng dẫn


17


tới nạn bạo lực giữa những thành viên khác: anh em, chú cháu đánh nhau vì xích mích trong
cuộc sống, vì tranh chấp tài sản; chị em mắng chửi, nói xấu nhau…

3.1.2.Thực trạng áp dụng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình trong thời gian
qua
Báo Pháp luật Việt Nam số 88 (4514) ra ngày 29/3/2011 đưa tin: Luật sư Nguyễn Văn
Tú, Văn phòng Luật sư Khánh Hưng được mời bảo vệ cho quyền lợi của nạn nhân Lại Thị Mai
(Phủ Lý, Hà Nam) bị chết vì hành vi bạo lực gia đình do chồng gây ra. Trong quá trình tiếp cận
hồ sơ vụ án, các cơ quan thực thi pháp luật tại địa phương đều không hề biết đến Luật
PCBLGĐ, nên Luật sư Tú phải photo cuốn Luật PCBLGĐ để “tặng” các cán bộ [22]
Điều này cho thấy một thực tế đáng buồn là dù Luật PCBLGĐ đã có hiệu lực thi hành
một thời gian nhưng khi được hỏi đến, rất nhiều người, thậm chí có cả những cơ quan chủ chốt
thực thi Luật vẫn không biết về Luật này.
Kết quả Nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình do Chính phủ Việt Nam và Liên Hợp
quốc công bố ngày 25/11/2010 cho thấy; có khoảng 60% phụ nữ từng bị bạo lực về thể xác và
tình dục do chồng gây ra cho biết họ có nghe về Luật Phòng, chống bạo lực gia đình nhưng
không nắm được chi tiết Luật [22]..
Mặt khác, cũng do khâu tuyên truyền còn hạn chế nên quan niệm, nhìn nhận của nhiều
người về hành vi bạo lực gia đình còn nhiều điểm chưa đúng. Bằng chứng là không ít người vẫn
còn quan niệm chỉ khi dẫn đến hậu quả nặng nề về mặt thể chất thì mới xem đó là hành vi bạo
lực. Một số hành vi như gây tổn hại về tinh thần, cô lập, xua đuổi, cưỡng ép tình dục… chưa
được nhận biết rõ.

3.2. Một số giải pháp pháp lý nhằm ngăn chặn có hiệu quả hành vi bạo lực trên
thực tế
3.2.1. Làm rõ một số khái niệm quan trọng trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
Để công tác phòng, chống bạo lực gia đình đạt hiệu quả như mong đợi, theo chúng tôi
trước hết cần xác định rõ khái niệm “bạo lực gia đình” đang được nói tới. Ở Việt Nam, quan
niệm về bạo lực gia đình của người dân còn khá mơ hồ, và dường như chỉ có bạo lực về thể

chất là được lưu ý tới.

3.2.2. Hoàn thiện một số quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
a) Quy định về biện pháp cấm tiếp xúc


18

Việc quy định về việc cấm tiếp xúc trong một thời gian giữa nạn nhân và người có hành vi
bạo lực là cần thiết để đảm bảo sự an toàn cho nạn nhân, để hai bên có thời gian cân nhắc về
hành động của mình và cũng là để giáo dục người có hành vi bạo hành về tội lỗi của họ. Tuy
nhiên, việc áp dụng biện pháp này yêu cầu có sự đồng ý của nạn nhân hoặc người giám hộ
(thường là một thành viên khác trong gia đình), điều này có phần chưa khả thi.
b) Quy định về hình thức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng,
chống bạo lực gia đình
Nghị định 110 đã đưa ra những chế tài cần thiết đối với người thực hiện hành vi bạo lực
gia đình. Tuy nhiên, quy định về hình thức phạt tiền của Nghị định này còn chưa thực sự hợp
lý, bởi mức xử phạt nhìn chung là thấp, trong một số trường hợp là rất bất hợp lý như với hành
vi thường xuyên theo dõi thành viên gia đình vì lý do ghen tuông gây tổn hại đến danh dự, uy
tín, nhân phẩm của thành viên đó hoặc hành vi cưỡng ép người khác kết hôn, ly hôn, tảo hôn
bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần hoặc bằng thủ đoạn khác thì mức phạt chỉ từ
100.000 đồng đến 300.000 đồng. Mức phạt như vậy là quá thấp, không tương xứng với tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi.

KẾT LUẬN
Gia đình là tế bào của xã hội, bạo lực gia đình có tác động tiêu cực tới sự phát
triển của xã hội. Mặc dù vẫn diễn ra hàng ngày, hàng giờ và để lại nhiều hậu quả nghiêm
trọng nhưng vấn đề này vẫn chưa nhận được sự quan tâm thích đáng của cộng đồng xã
hội. Luận văn "Một số vấn đề pháp lý về bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay" đã tìm
hiểu về các khái niệm gia đình, thành viên gia đình, bạo lực và bạo lực gia đình; nghiên

cứu về một số yếu tố tác động và hậu quả của bạo lực gia đình, ý nghĩa của việc phòng,
chống bạo lực gia đình cũng như tìm hiểu pháp luật một số quốc gia về vấn đề này. Bên


19

cạnh đó, từ những nghiên cứu về thực trạng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình,
thực trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam những năm gần đây và thực trạng áp dụng pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình thời gian qua, tác giả đã đưa ra một số kiến nghị
nhằm ngăn chặn có hiệu quả hành vi bạo lực trên thực tế. Cụ thể
- Cần làm rõ một số khái niệm quan trọng trong Luật Phòng, chống bạo lựcgia
đình: khái niệm thành viên gia đình, các hành vi cụ thể của từng loại bạo lực trong gia
đình. Đây là những khái niệm cơ bản cần phải làm rõ để phục vụ quá trình áp dụng cũng
như tuyên truyền pháp luật đạt hiệu quả.
- Hoàn thiện một số quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình: cần quy
định chặt chẽ và cụ thể hơn về biện pháp cấm tiếp xúc; xem xét các quy định về phạt tiền
trong xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình và đưa
ra những điều chỉnh hợp lý; nâng cao vai trò của các cơ quan chức năng trong phòng,
chống bạo lực gia đình.


20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hoàng Yên (2011), “Thân tàn ma dại vì nín nhịn”, Báo Pháp luật Việt
1.

/>
2.


/>
3.

/>


×