VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ VỚI ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI
1. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Từ khi Việt Nam thi hành chính sách đổi mới toàn diện, báo chí đã thực sự
tham gia vào cuộc đấu tranh chống tiêu cực. Tất nhiên, diện tham gia chống
tiêu cực của báo chí ở Việt Nam không đồng đều và chống tham nhũng là một
cuộc đấu tranh lớn, khó khăn, phức tạp và bản thân sự phát triển đất nước đã
cho thấy cuộc đấu tranh ấy chỉ có thể trở nên mạnh mẽ, đạt kết quả cao khi
toàn xã hội được huy động qua con kênh công khai hàng đầu là báo chí.
Trong những năm gần đây, nhờ báo chí phản ánh mà không ít vụ tham nhũng
lớn được các cơ quan chức năng của Nhà nước xử lý và xử lý tương đối rốt
ráo. Đảng và Nhà nước đã sự công nhận vai trò của báo chí trong chống tham
nhũng – vai trò không thể thay thế được trong việc hình thành và thể hiện dư
luận xã hội, tạo nên sức mạnh trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Và
đến lượt mình, dư luận xã hội lại có tác động rất lớn trong việc điều hòa các
mối quan hệ xã hội, trong việc kiểm soát xã hội cũng như việc uốn nắn các
hành vi xã hội tạo hiệu quả cao cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Làm rõ vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng trong
cuộc đấu tranh chống tiêu cực – nhìn từ góc độ xã hội học truyền thông
đại chúng – là một hướng tiếp cận mới để có thể phân tích cơ chế tác
động, sức mạnh của báo chí và rút ra những bài học kinh nghiệm có ý
nghĩa thực tiễn trong hoạt động báo chí cũng như trong công tác tư tưởng
và trong công cuộc xây dựng và phát triển hôm nay.
1
2.
VAI TRÒ CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG ĐẠI
CHÚNG ĐỐI VỚI VIỆC HÌNH THÀNH VÀ THỂ HIỆN DƯ LUẬN XÃ
HỘI TRONG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG
2.1 PGS. TS Mai Quỳnh Nam, trong một công trình nghiên cứu đã giới
thiệu “cách hiểu phổ biến nhất” về truyền thông: “Đó là hoạt động chuyển tải
và chia sẻ thông tin. Quá trình này diễn ra liên tục, trong đó tri thức, tình cảm
và kỹ năng liên kết với nhau. Đây là một quá trình phức tạp qua nhiều khâu.
Các khâu này chuyển đổi tương đối linh hoạt để hướng tới sự thay đổi nhận
thức và hành vi của các cá nhân và các nhóm”.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự ra đời của phương tiện
truyền thông hiện đại là sự hình thành hệ thống các kênh thông tin đại chúng
như một thiết chế xã hội quan trọng của xã hội hiện đại. Truyền thông đại
chúng (mass media) ngày nay được hiểu như là toàn bộ những kỹ thuật lan
truyền thông tin tới những nhóm xã hội lớn, mà chủ yếu bằng báo in, điện
ảnh, phát thanh, truyền hình, internet hoặc các phương tiện khác như sách, áp
phích…
Vai trò và chức năng của truyền thông đại chúng trong đời sống xã hội
đã được chứng minh từ lâu. Thế nhưng, dưới cái nhìn của xã hội học, cơ chế
tác động qua lại giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội có ý nghĩa
quan trọng, đặc biệt trong việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội.
Dư luận xã hội – theo góc độ xã hội học – là sự thể hiện tâm trạng xã hội,
phản ánh sự đánh giá của các nhóm xã hội lớn, của công chúng nói chung về
các hiện tượng, sự kiện xã hội, đại diện cho lợi ích của các nhóm xã hội mà
những lợi ích này có tính cấp thiết trên cơ sở các quan hệ xã hội đang tồn tại.
2
Dư luận xã hội là cầu nối giữa ý thức xã hội và hành động xã hội. Vì vậy, với
việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội, các phương tiện truyền thông mới
có thể làm tốt chức năng “tổ chức tập thể, cổ động tập thể”, mới góp phần tạo
nên động lực tinh thần, tạo nên sức mạnh cho các hành động xã hội.
2.2 Khác với truyền thông liên cá nhân, với truyền thông đại chúng,
thông tin từ hệ thống này được truyền đến số đông công chúng một cách
nhanh chóng (có khi đồng thời với sự kiện, hiện tượng), đều đặn và gián tiếp.
Hệ thống truyền thông đại chúng vừa phải hướng tới các đối tượng công
chúng nói chung và các nhóm công chúng cụ thể. Hoạt động hệ thống truyền
thông đại chúng luôn chịu sự tác động từ hai phía: Phía thứ nhất: là các thiết
chế xã hội mà phương tiện đó là công cụ (như các tờ báo của các tổ chức
chính trị, xã hội). Và phía thứ hai là công chúng của báo chí.
Với đặc điểm này, việc hình thành hoặc thể hiện dư luận trên hệ thống
truyền thông đại chúng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng cũng gặp
những hệ lụy. Ví dụ: Báo chí chống tiêu cực, tham nhũng sẽ tạo sức ép lên
những cơ quan, đơn vị, cá nhân có hiện tượng tham nhũng, thậm chí đụng đến
những người có chức, có quyền. Rất nhiều trường hợp khi tổ chức, cá nhân có
tiêu cực, tham nhũng bị báo chí phanh phui do sợ dư luận xã hội và sợ pháp
luật “rờ” tới mình nên họ tìm cách để tác động đến các cơ quan quản lý cấp
trên, cá nhân lãnh đạo cấp trên của cơ quan báo chí để tạo sức ép hoặc tác
động theo hướng ngăn cấm báo chí chống tiêu cực, tham nhũng. Nhưng ngược
lại, việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội trong quá trình đấu tranh chống
tham nhũng thường xuất phát từ nhu cầu của công chúng báo chí – truyền
thông. Nếu không có sự phát hiện và “áp lực” từ phía công chúng báo chí thì
những vụ tiêu cực nổi cộm như Epco Minh Phụng, Vũ Xuân Trường, Năm
3
Cam, Thuỷ cung Thăng Long, Lã Thị Kim Oanh… khó được đưa lên công
luận và cũng từ sức mạnh của dư luận nó đã đi đến việc xử lý triệt để.
Sự tác động của các nhóm công chúng đến các phương tiện truyền
thông đại chúng hết sức khác nhau, do những khác biệt về địa vị xã hội, quyền
lợi giai cấp, về các nhân tố tâm lý và về cường độ giao tiếp với các phương
tiện truyền thông đại chúng. Một người nông dân không thể có cơ hội đọc báo
nhiều như một công chức. Một người dân miền núi sẽ khó có điều kiện bắt
được nhiều kênh truyền hình như một người ở các thành phố trung tâm. Một
học sinh ở nông thôn sẽ khó có cơ hội tiếp cận internet tốt hơn một sinh viên ở
thành phố. Nhu cầu nắm bắt thông tin của các nhóm công chúng, các nhóm xã
hội khác nhau là rất khác nhau. Một vụ tham nhũng ở một công ty cụ thể nào
đó của một tỉnh cụ thể nào đó sẽ thu hút sự quan tâm cao của chính công nhân
của công ty đó, người dân của tỉnh đó hơn là một người dân bình thường ở
tỉnh khác. Và tất nhiên, sự khác biệt ấy xuất phát từ mối quan tâm khác nhau
giũa họ – những nhóm công chúng khác nhau. Tuy nhiên, tham nhũng ảnh
hưởng đến sự tồn vong của đất nước, tham nhũng ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi của người dân và cán bộ, công chức lương thiện, trong sạch. Vì lẽ
đó, có một điểm chung trong đại đa số công chúng thuộc nhiều nhóm xã hội
khác nhau là luôn muốn được thông tin về các vụ tham nhũng và muốn cung
cấp thông tin, nhập cuộc vào đấu tranh chống tham nhũng trên báo chí, góp
phần tạo ra dư luận xã hội.
Mối quan hệ giữa báo chí và công chúng trong quá trình hình thành và
thể hiện dư luận xã hội mang tính chất biện chứng. Một mặt các phương tiện
truyền thông đại chúng nhằm thỏa mãn tối đa những nhu cầu ngày càng tăng
của công chúng. Mặt khác, bản thân công chúng lại đặt ra các yêu cầu mới đối
với hoạt động của hệ thống này. Sự trưởng thành trong mối quan hệ ấy thể
4
hiện tính tích cực chính trị xã hội của bản thân hệ thống báo chí và của công
chúng báo chí.
Không có thực tiễn phong phú, đa dạng; không có đòi hỏi bức thiết của
đời sống, truyền thông đại chúng khó có sự đổi mới, tìm tòi để tăng cường
chất và lượng thông tin. Và ngược lại, từ sự nỗ lực của các phương tiện truyền
thông đại chúng, cường độ dư luận xã hội, sự định hướng dư luận xã hội được
tăng cường và tạo ra những hiệu quả xã hội nhất định.
Quan sát quá trình đấu tranh chống tham nhũng trên báo chí những năm
qua, có thể thấy sự nỗ lực của các phương tiện truyền thông đại chúng trong
việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội. Ví dụ: Trong 10 vụ tham nhũng
điển hình nêu ra sau đây, nếu không có sự lên tiếng của hàng loạt cơ quan báo
chí, nếu không có các diễn đàn để người dân, cán bộ – công chức cùng tham
gia đóng góp ý kiến, khó có thể phanh phui ra được vì tính chất phức tạp của
nó. Công chúng báo chí nước ta dễ dàng nhớ rất rõ 10 vụ tham nhũng đó vì nó
gắn liền với một tâm trạng xã hội chung: coi tham nhũng là một quốc nạn làm
ảnh hưởng đến sự tồn vong của đất nước:
1. Vụ mua bán lòng vòng 4.000 tấn thép đường dây 500 kV, chiếm đoạt
hơn 3 tỷ đồng. Hậu quả là bộ trưởng năng lượng bị phạt 3 năm tù, 1 thứ
trưởng, 2 phó tổng giám đốc, 2 phó chánh giám đốc… vào trại giam.
2. Vụ cố ý làm trái, tham ô tại Công ty dệt Nam Định, gây thiệt hại hàng
chục tỷ đồng. 23 người bị truy tố, trong đó có 2 tổng giám đốc, 1 kế toán trưởng.
3. Vụ cố ý làm trái, tham ô 14 tỷ đồng trong dự án xây dựng khách sạn
Bàn Cờ tại số 86 Nguyễn Thái Học, Hà Nội. Phó chủ tịch UBND quận 3 (TP
HCM) cùng giám đốc Công ty Vật tư quận 3 và kế toán trưởng khách sạn Bàn
5
Cờ… đã lợi dụng sự lỏng lẻo của cơ quan để rút tiền thông qua việc chi tiêu
mua sắm vật tư xây dựng khách sạn Bàn Cờ.
4. Vụ đưa và nhận hối lộ, vi phạm các quy định về quản lý và sử dụng
đất đai, cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả
nghiêm trọng… của Phạm Huy Phước (giám đốc Công ty Tamexco và các đối
tượng liên quan. Tổng số tiền bị thất thoát gần 100 tỷ đồng.
5. Vụ tham ô tài sản nhà nước của một số cán bộ thuộc trạm kiểm soát
liên hợp Đồng Bành, Lạng Sơn, do Lưu Văn Nhịp là trạm trưởng. 24 bị cáo
được đưa ra xét xử, trong đó có cục phó cục thuế Lạng Sơn.
6. Vụ lập quỹ trái phép, tham ô tại Công ty ắc quy Vĩnh Phúc gây thiệt hại gần
17 tỷ đồng.
7. Vụ tham ô, cố ý làm trái do Lã Thị Kim Oanh (giám đốc Công ty
Tiếp thị đầu tư thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) chủ mưu, làm
thất thoát hơn 100 tỷ đồng. Cùng bị phạt tù với Kim Oanh là 2 nguyên thứ
trưởng, 2 nguyên vụ trưởng của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
8. Vụ cố ý làm trái, tham ô tại Xí nghiệp xây dựng công trình giao
thông, thuộc Công ty vật tư vận tải và xây dựng công trình giao thông, Bộ
Giao thông vận tải. Bằng thủ đoạn lập chứng từ thanh quyết toán khống, họ đã
gây thiệt hại 26 tỷ đồng, trong đó tham ô 15 tỷ.
9. Vụ tham ô trong thi công 8 công trình tại tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An
do Phạm Đức Tạo (phó giám đốc xí nghiệp xây dựng số 2, thuộc Công ty xây
dựng công nghiệp số 1) tổ chức.
6
10. Vụ cán bộ xã Thuận Hưng, huyện Thốt Nốt, Cần Thơ, lập hồ sơ
quyết toán khống công trình điện, làm đường giao thông nông thôn… để tham
ô gần 3 tỷ đồng và 340 chỉ vàng.
Theo thống kê, trong những năm từ 1993-2004, cảnh sát kinh tế điều tra
gần 177.000 vụ tội phạm và vi phạm về kinh tế, trong đó gần 10.000 vụ tham
nhũng, gây thiệt hại hơn 7.500 tỷ đồng. Có gần 30% trong số vụ việc này
được báo chí phanh phui và tạo dư luận yêu cầu xử lý nghiêm túc.
Dư luận xã hội được hình thành dưới sự tác động của các phương tiện truyền
thông đại chúng thông qua các kênh thuộc hệ thống này và bằng con đường
giao tiếp, bằng hoạt động thảo luận trao đổi về nội dung các thông tin mà công
chúng tiếp thu được để hình thành nên dư luận xã hội. Giao tiếp là một dạng
cơ bản của con người, để thực hiện các mối liên hệ xã hội. Các quan hệ xã hội
được hình thành từ đó. Mối liên hệ này càng được củng cố thì dư luận xã hội
càng trở nên chín chắn.
Câu chuyện lòng hồ Trị An (Đồng Nai) được bắt đầu từ những bức xúc
của người dân trong khu vực khi họ bị cán bộ đuổi đi và sau đó giành đất để
san ủi, lấp thêm lòng hồ và biến thành trang trại. Những người dân thấp cổ bé
miệng này không dám lên tiếng ngay, nhưng khi ngày càng có nhiều cán bộ
cấp huyện, cấp tỉnh tiếp tục lấn chiếm đất lòng hồ, họ bắt đầu viết đơn nặc
danh để phản ánh từ năm 1998. Những cán bộ thủy sản, những cán bộ nhà
máy thủy điện Trị An cũng bắt đầu nhận thấy phải chính thức kiến nghị. Và
những bài báo đầu tiên của báo chí địa phương (cụ thể là báo Đồng Nai và Đài
phát thanh – truyền hình Đồng Nai) đã được nhân dân chuyền tay nhau đọc,
chuyền băng nhau xem như một sự đồng tình cao. Tuy nhiên, báo đài Đồng
Nai lại bị chỉ đạo phải ngưng ngay vụ phản ánh về lòng hồ Trị An. Người dân
khi được sự hưởng ứng của báo đài địa phương thì cảm thấy có sức mạnh của
7
công luận, có sức mạnh của dư luận nên quyết tâm đấu tranh. Vụ việc tiếp tục
được Đài Truyền hình Việt Nam, báo điện tử Vietnamnet và nhiều tờ báo ở
thành phố Hồ Chí Minh đã vào cuộc. Cường độ dư luận dâng cao hơn. Người
dân nói chung, độc giả, khán giả nói riêng bình luận cho nhau nghe về hình
thức tham nhũng của các cán bộ Đồng Nai từ tỉnh đến huyện. Trước áp lực
của dư luận, UBND tỉnh Đồng Nai phải thành lập đoàn thanh tra. Tuy nhiên,
kết luận thanh tra không làm vừa lòng những người dân. Và một lần nữa, báo
chí lại vào cuộc. Báo điện tử Vietnamnet và báo Tuổi trẻ online có sáng kiến
“mời độc giả của mình góp ý kiến về việc giải quyết hậu quả vụ lấn chiếm
lòng hồ Trị An”, thế là hàng trăm ý kiến từ các nơi trên thế giới, trong đó có
kiều bào, du học sinh, và những người nước ngoài, góp ý. Lại một lần nữa, vụ
“xẻ thịt lòng hồ Trị An” được dư luận quan tâm bằng sự thể hiện dư luận trên
báo chí với phạm vi rộng hơn, cường độ lớn hơn. Thủ tướng Phan Văn Khải
đã trực tiếp chỉ đạo cho Thanh tra chính phủ vào cuộc. Đến nay, vụ việc dù
chưa giải quyết ổn thoả nhưng Thanh tra đã có kết luận và một số cán bộ đã
phải nhận kỷ luật. Kết luận của Thanh tra Chính phủ: “Lòng hồ Trị An đang
bị lấn chiếm bởi 43 trường hợp xây dựng chuồng trại nuôi lợn với tổng diện
tích 10.576m2. Từ lâu, tất cả chất thải từ các chuồng trại này đều trực tiếp xả
ra hồ mà chưa có trường hợp nào bị chính quyền địa phương xử lý. Hàng loạt
các bờ đập đã được kiên cố hóa tạo thành những ao lớn, nhỏ trong lòng hồ.
Chiều dài các bờ đập từ 30m đến 600m. Có chân đập rộng tới 40m, mặt bờ
đập rộng phổ biến từ 8 – 12m.
Đoàn thanh tra cho biết trong số 234 trường hợp vi phạm hơn 577ha
diện tích mặt nước hồ Trị An có 27 cán bộ, viên chức và 2 tập thể cơ quan nhà
nước vi phạm với diện tích hơn 260ha. Đặc biệt, có 6 cán bộ cấp tỉnh, trong
đó có 3 cán bộ là Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Nai đương nhiệm. Số cán bộ vi
phạm ở cấp thấp hơn bao gồm 11 cán bộ chủ chốt của huyện, xã (chưa kể 6
8
cán bộ đã nghỉ hưu), gồm Bí thư, Phó bí thư Huyện ủy, nguyên Chủ tịch
UBND huyện (nay là Chủ tịch HĐND huyện); Trưởng và Phó trưởng Công an
huyện, Công an kinh tế huyện. Hai cán bộ xã đương nhiệm vi phạm là Chủ
tịch HĐND xã và Chi hội trưởng Hội Chữ thập đỏ xã.
Câu chuyện xà xẻo lòng hồ Trị An – một hồ nước nhân tạo phục vụ cho
công trình thủy điện được đánh giá là công trình thế kỷ của thập niên 80 trước
đây với sự hy sinh sức người sức của không sao kể xiết và với sự giúp đỡ lớn
lao của Liên Xô – đã chạm vào tình cảm thiêng liêng của người dân cả nước
và trên thế giới. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng xung quanh câu chuyện
này vì thế đã tạo được sự quan tâm của đại đa số công chúng. Không phải
ngẫu nhiên mà hiện trên internet, sốtrang web Việt Nam còn lưu bài viết về vụ
việc này là 942 khi chúng tôi tìm kiếm. Cùng với báo in, phát thanh, truyền
hình từ địa phương đến Trung ương, báo điện tử (hoặc báo trực tuyến) đã góp
một phần khá lớn trong việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội qua một vụ
việc chống tham nhũng tuy chưa phải là điển hình. Nhưng với đặc trưng của
mình, báo điện tử đã vươn dài phạm vi hình thành và thể hiện dư luận, tạo ra
hiệu quả truyền thông lớn! Đây có thể coi là sự kiện báo chí chống tham
nhũng khá tiêu biểu cho việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội và cũng là
sự kiện báo chí “nổi đình đám” vào cuối năm 2004.
Cơ chế hình thành và thể hiện dư luận xã hội thông qua tác động của
các phương tiện truyền thông đại chúng phụ thuộc vào đặc thù của mỗi
phương tiện truyền thông. Bên cạnh yếu tố loại hình báo chí, phạm vi tác động
(vật lý) còn có các yếu tố về dân số – xã hội và địa lý được lấy làm cơ sở cho
hoạt động xuất bản và phát hành báo chí.
Và không chỉ có việc đấu trang chống tham nhũng, các phương tiện
truyền thông đại chúng hướng đến việc hình thành dư luận xã hội về tất cả các
vấn đề trong đời sống xã hội vì những mục đích nhất định. Hình thành dư luận
9
xã hội và thể hiện dư luận xã hội trên các phương tiện truyền thông đại chúng
cũng được hình thành song song, có mối quan hệ hữu cơ lẫn nhau. Để thực
hiện được vai trò đó, hệ thống truyền thông đại chúng cần phải:
- Làm tăng cường và phát triển dân chủ hóa trong các mặt của đời sống
xã hội. Tổ chức và động viên nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý xã hội.
Ví dụ: Trong công cuộc chống tham nhũng, các phương tiện truyền thông có
một biện pháp kép để thực hiện chức năng giám sát. Nó không chỉ đưa tin (và
điều tra) các vụ tham nhũng để hỗ trợ các cơ quan và tổ chức chống tham
nhũng mà còn nâng cao nhận thức của quần chúng về tham nhũng, nguyên
nhân, hậu quả và các giải pháp xử lý tham nhũng.
Lâu nay ở Việt Nam, các phương tiện truyền thông trong hầu hết các trường
hợp, chỉ thông tin về các vụ tham nhũng đã được các ngành chức năng công
bố. Những trường hợp các phương tiện truyền thông phát hiện một cách độc
lập và công khai các vụ tham nhũng cũng có nhưng còn ít, do đó chức năng
giám sát chủ yếu của phương tiện truyền thông là giúp đỡ các cơ quan và tổ
chức chống tham nhũng khác, kể cả thúc đẩy việc điều tra của các tổ chức có
thẩm quyền, tăng cường tính hiệu quả của các cơ quan nhà nước, góp phần
hình thành dư luận về các hoạt động tham nhũng, tạo áp lực thay đổi luật pháp
và các qui định thuận lợi cho tham nhũng… Mặt khác, các công cụ kỹ thuật,
các thể loại báo chí hiện đại ngày nay đã cho phép người dân cùng tham gia
trên diễn đàn báo chí một cách dân chủ nếu Ban biên tập bản lĩnh để tạo ra
môi trường như thế. Ví dụ: các hình thức chính luận phát thanh – truyền hình
(tọa đàm trực tiếp) cho phép người khán, thính giả tham gia chương trình qua
điện thoại bày tỏ ý kiến của mình; các dạng chương trình diễn đàn trên báo
trực tuyến… Các thể loại phỏng vấn dư luận và đăng ý kiến phản hồi của
10
người dân trên báo in v.v… Tất nhiên, đây là những công cụ khó sử dụng đòi
hỏi bản lĩnh chính trị và nghiệp vụ “cao tay” của Ban biên tập.
- Thông tin cho nhân dân về tình trạng của dư luận xã hội trên các vấn
đề đang tạo nên mối quan tâm chung của toàn thể xã hội, nhất là các vấn đề có
tính chất cấp thiết.
Chủ thể của các vụ tham nhũng thường là những người có chức vụ
trong các cơ quan quản lý kinh tế, doanh nghiệp nhà nước, nhưng những năm
gần đây, nhiều người tham nhũng khi đang giữ chức vụ rất cao trong cơ quan
quản lý nhà nước. Đã có những Ủy viên TW Đảng, Bộ trưởng, thứ trưởng,
chủ tịch và phó chủ tịch tỉnh cùng hàng trăm vụ trưởng, tổng giám đốc… đã bị
xử lý hình sự. Hàng trăm cán bộ trung, cao cấp liên quan tham nhũng, buôn
lậu đã bị xử lý hành chính. Tất nhiên, với những vụ việc tham nhũng, những
người dân bình thường khó có cơ hội để biết được nếu không có thông tin từ
các phương tiện truyền thông đại chúng. Vì thế, quá trình thông tin, quá trình
hình thành dư luận và tổ chức dư luận cũng là quá trình tạo ra định hướng dư
luận và tạo ra những tác động tích cực. Bản chất của sự hình thành dư luận có
sự tương tác giữa các nhóm xã hội lớn. Vì thế, thông tin cho nhân dân về tình
trạng của dư luận xã hội trên các vấn đề đang tạo nên mối quan tâm chung của
toàn thể xã hội, đặc biệt là trong những vụ việc tham nhũng cụ thể sẽ tạo nên
hiệu quả rất cao.
- Tác động lên các thiết chế xã hội và đề xuất các phương án hành động.
Bên cạnh việc nêu lên các thông tin liên quan đến các vụ việc tham nhũng
cũng như hình thành và thể hiện dư luận, các cơ quan truyền thông đại chúng
cần phải biết kiến nghị, yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc.
Ví dụ, vụ tiêu cực của trọng tài bóng đá Việt Nam gần đây, nhiều tờ báo đã
11
đưa ra các đề xuất chung quanh việc làm trong sạch bóng đá Việt Nam rất hữu
hiệu.
Một ví dụ khác: Báo chí góp phần đắc lực trong việc vạch trần những
tập thể, cá nhân có hành vi tham nhũng để toàn dân giám sát, đánh giá và lựa
chọn trong các cuộc bầu cử. Hoặc trong các phiên họp của Quốc hội, nhiều đại
biểu đã lấy các bài báo có nội dung chống tiêu cực, tham nhũng để chất vấn
các Bộ trưởng và thành viên của Chính phủ. Riêng năm ngoái, Thủ tướng
Chính phủ đã có 141 bút phê vào các bài báo, Văn phòng Chính phủ đã làm
141 công văn gửi đi và nhận được gần một nửa số lượng văn bản trả lời. Hầu
hết các bài báo đó đều đúng sự thật, giúp Chính phủ có thêm thông tin để chỉ
đạo xử lý. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ thường xuyên nhắc nhở thời hạn mà
các cơ quan có trách nhiệm phải trả lời những vấn đề báo chí đã nêu.
- Hình thành dư luận xã hội về một vấn đề nào đó nhằm thúc đẩy hoặc
hạn chế sự phát triển của thực tế đó.
Trong hội nghị tổng kết thực hiện công tác đấu tranh chống tham nhũng diễn
ra vào cuối năm 2004, báo cáo của Bộ Công an cho thấy, thiệt hại về vật chất
do các vụ tham nhũng gây ra tăng dần. Năm 1993 là gần 320 tỷ đồng, năm
2004 tăng hơn gấp đôi, 712 tỷ đồng. Những năm 1990, thiệt hại trung bình 1
vụ khoảng 0,71 tỷ đồng. Nhưng 10 năm sau con số thiệt hại này là 0,81 tỷ.
Tham nhũng xảy ra phổ biến trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng cơ bản. Phần lớn
các công trình đều xảy ra thất thoát 10-20% tài sản do tham ô, cố ý làm trái.
Hiện tượng này xảy ra ở tất cả các khâu, từ lập và chạy dự án, thiết kế, dự
toán, duyệt kế hoạch cấp vốn, đấu thầu, tư vấn, giám sát, nghiệm thu, quyết
toán công trình. Vì lẽ đó, nhiều dự án chất lượng xây dựng kém, chưa nghiệm
thu đã hư hỏng, xuống cấp. Trong đó có công trình trọng điểm như đường liên
cảng A5, một số hạng mục phục vụ SEA Games 22.
12
Thông qua việc tổ chức thông tin từ các phương tiện truyền thông đại
chúng, người dân đã bắt đầu hình thành dư luận về khả năng xảy ra tham
nhũng ở những ngành “nhạy cảm”. Từ một người nông dân khi tham gia ý
kiến về xây dựng đường giao thông nông thôn đến một công chức trong cơ
quan hành chính sự nghiệp khi đóng góp về việc xây dựng cơ bản ở đơn vị
đều có thể “đề cao cảnh giác” để có cơ chế phản vệ trước khả năng tiêu cực,
tham nhũng có thể xảy ra.
- Xây dựng lòng tin, thế giới quan và ý thức quần chúng.
Đây là yêu cầu có ý nghĩa quan trọng của cơ quan truyền thông đại chúng, bởi
vì hình thành và thể hiện dư luận xã hội không chỉ có những vụ việc tiêu cực
mà phải biết tạo ra dư luận xã hội về sự công minh của pháp luật, sự tồn tại
của cái tốt, cái đẹp, những giá trị nhân văn. Đó là 2 mặt xây và chống trong
chức năng truyền thông.
Ví dụ: Hiện nay, ở nông thôn, tình trạng tham nhũng của cán bộ chính
quyền cơ sở diễn ra phức tạp. Nổi lên là tình trạng vi phạm các quy định về
quản lý đất đai. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao
động. Đây là nguyên nhân dẫn đến khiếu kiện đông người vượt cấp, kéo dài
và lây lan diện rộng. Hoặc một lĩnh vực khác cũng xảy ra tham nhũng là hoạt
động tư pháp. Trong các vụ án được phanh phui, nhiều cán bộ không chỉ ở cấp
cơ sở mà ngay tại các cơ quan trung ương cũng có hành vi nhận hối lộ, thiếu
tinh thần trách nhiệm, cố ý làm trái… với mục đích bảo kê, tiếp tay cho hoạt
động tội phạm. Việc nguyên viện phó VKSND Tối cao Phạm Sĩ Chiến hầu
tòa trong vụ án Năm Cam và đồng bọn là ví dụ. Thế nhưng bên cạnh việc
thông tin về những vụ việc tham nhũng như thế, báo chí cần phải xây dựng
lòng tin cho người dân về những cách giải quyết hợp luật, hợp tình của chính
quyền: kẻ sai trái phải bị trừng trị, người bị oan phải được mình oan, đền bù v.v…
13
- Điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội và làm tăng cường tính
tích cực chính trị của quần chúng.
Khi các phương tiện truyền thông phân tích thủ đoạn của kẻ xấu và sự trừng phạt
dành cho họ, ví dụ như một kẻ rải đinh trên đường hay một luật sư lừa đảo, một kẻ
tham nhũng bị ra toà… sẽ làm cho những kẻ khác không còn cơ hội hay phải chùn
tay trước khi làm điều xấu. Trong trường hợp này, người được lợi ích là những
người có thể bị hại nếu điều xấu xảy ra. Đó là ngoại tác tích cực, vì lợi ích này
vượt ra ngoài phạm vi những người trực tiếp mua báo. Khi báo chí phản ánh
những trở ngại không đáng có đối với doanh nghiệp sẽ góp phần làm cho môi
trường kinh doanh trở nên thuận lợi hơn, nền kinh tế phát triển nhanh hơn. Người
lao động, người tiêu dùng, và nhà đầu tư đều có thể được lợi, tuy không phải ai
trong họ cũng tham gia mua báo. Đó là ngoại tác tích cực.
Khi các truyền thông đại chúng biểu dương những nhân tố tích cực, thì sẽ
hình thành dư luận xã hội về những con người, những tấm gương, những hành vi
được biểu dương và điều đó sẽ góp phần làm tăng cường tính tích cực chính trị
của quần chúng.
Việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội trên các phương tiện truyền
thông đại chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hình thành dư luận xã hội
cũng là để thể hiện dư luận xã hội và thể hiện dư luận xã hội nhằm tăng cường
cường độ, phạm vi, định hướng dư luận xã hội. Báo chí nói riêng, các phương tiện
truyền thông đại chúng thời gian qua đã có nhiều cách thể hiện dư luận xã hội hết
sức sáng tạo. Nhưng nhìn chung, các hình thức thể hiện dư luận xã hội chủ yếu
như sau:
1. Phản ánh trực tiếp: Bằng cách cho đăng phát các ý kiến của người
đọc, người nghe, xem hoặc các lời phát biểu của đại diện các tầng lớp công
chúng trên các trang báo hoặc trên sóng phát thanh và truyền hình.
14
Ví dụ: Trong 4 năm thực hiện luật thuế giá trị gia tăng, công an đã phát
hiện 140 vụ với số tiền có dấu hiệu vi phạm hơn 400 tỷ đồng. Hầu hết các vụ
việc đều có sự tiếp tay của cán bộ nhà nước. Thủ đoạn phổ biến là lợi dụng
chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng hóa là nông sản, lâm sản… để lập
chứng từ khống về việc thu mua, chế biến, vận chuyển hàng hóa xuất khẩu,
rồi móc nối với một số cán bộ hải quan lam thủ tục khống để được hoàn thuế
VAT. Khi những vụ việc như thế được phát hiện, các báo có thể lấy ý kiến
của những doanh nhân làm ăn chân chính, những nhà chuyên môn, những cán
bộ ngân hàng uy tín để nêu lên thì hiệu quả dư luận xã hội về vụ việc này
được người dân bình thường đồng cảm rõ nét hơn.
Trong các trường hợp này không cần có lời bình của các ban biên tập.
Các tác giả tham gia vào các trang báo, các chương trình trên không phải là
người trong các tòa sọan, các ban biên tập. Ý kiến khách quan tạo ra hiệu quả
dư luận xã hội tốt hơn. Hình thức thể loại vox-pop (phỏng vấn dư luận) của
báo chí phương Tây hiện đang du nhập vào phát thanh – truyền hình Việt
Nam là một ví dụ. Tất nhiên, nhìn hình thức nó có vẻ khách quan, song việc
chọn lọc các ý kiến, tỷ lệ các ý kiến trái ngược nhau đều có “bàn tay đạo diễn”
phía sau vì mục đích truyền thông nhất định.
2. Cho in trên báo hoặc phát trên sóng phát thanh – truyền hình các bài
phát biểu của các nhà báo cộng tác với đại diện của các tầng lớp nhân dân
hoặc các tổ chức đoàn thể xã hội về một chủ đề nào đó, kèm theo lời bình luận
của các cộng tác viên hoặc ban biên tập.
Ví dụ: hiện nay, theo điều tra, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước đang là vấn đề nhức nhối hiện nay. Từ năm 2002 đến nay, chỉ 77%
15
doanh nghiệp kinh doanh có lãi hoặc hòa vốn. Còn lại là thua lỗ, trong đó một
số đã phá sản. “Căn bệnh” này, theo chẩn đoán của cơ quan chức năng là do
khi thực hiện các hợp đồng kinh tế thường có sự móc nối giữa doanh nghiệp
nhà nước với doanh nghiệp tư nhân để chuyển lợi nhuận vào túi tư nhân, ăn
chia với nhau. Nếu lợi nhuận cao thì tư nhân hưởng, thua thiệt nhà nước gánh.
Do vậy, nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ nhưng giám đốc lại giàu
lên nhanh chóng. Nhiều người đã lợi dụng việc cổ phần hóa để chuyển sở hữu
nhà nước thông qua việc định giá bất hợp lý trong mua bán cổ phần, gây thiệt
hại nghiêm trọng tài sản nhà nước. Thí dụ điển hình cho những tiêu cực trên là
chương trình 1 triệu tấn đường với tổng mức đầu tư 10.500 tỷ đồng, trong quá
trình đầu tư đã vi phạm quy chế đấu thầu, nhập thiết bị cũ, lạc hậu dẫn đến nợ
quá hạn không có khả năng trả 10.000 tỷ đồng. Những vụ tham nhũng điển
hình như thế này cần có những ý kiến bình luận của các chuyên gia, các đại
diện nông dân trồng mía chẳng hạn, các nhà đầu tư v.v… kèm theo các ý kiến
phân tích, bình luận của ban biên tập thì việc thể hiện dư luận xã hội trong đấu
tranh chống tham nhũng về vấn đề đó có sức nặng hơn…
3. Trên cơ sở nghiên cứu, tập hợp, phân tích các ý kiến về một vấn đề
nào đó, các nhà báo viết bài rồi cho in hoặc là phát trên sóng phát thanh truyền
hình.
Ví dụ: Tham nhũng ở lĩnh vực tài chính xảy ra nhiều tại ngân hàng
thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần nhưng đây là vấn đề
mà không phải người bình thường nào cũng có thể hiểu ngay được do tính
chất chuyên môn của nó. Nhà báo (người làm truyền thông) có thể nghiên
cứu, phân tích để thể hiện nó một cách rõ ràng cho đối tượng mình thấy được.
Chẳng hạn hình thức tham nhũng chủ yếu là cán bộ ngân hàng được các
doanh nghiệp móc nối, hối lộ nên đã cho vay trái nguyên tắc, vượt quá khả
16
năng thanh toán của doanh nghiệp. Hoặc người của ngân hàng thông đồng với
người đi vay để nhận hồ sơ thế chấp không hợp lệ, hồ sơ giả… Những việc
làm trên làm thất thoạt cho nhà nước hàng nghìn tỷ đồng v.v… Những thông
điệp này có thể kèm theo nhiều ý kiến đại diện của xu thế dư luận xã hội, đại
diện của các nhóm xã hội v.v…
Việc thể hiện dư luận xã hội trên các phương tiện truyền thông đại
chúng nói chung và thể hiện dư luận xã hội trong công cuộc đấu tranh chống
tham nhũng nói riêng đều dựa trên yêu cầu: Thông tin đưa ra công luận phải
dẫn đến sự tranh luận của quần chúng, nghĩa là các thông tin đó trở thành
điểm khởi đầu cho sự đánh giá của dư luận xã hội đều có các tính chất sau:
- Nó phản ánh được lợi ích của xã hội.
- Nó có tính cấp bách
- Nó tạo nên sự tranh luận
Quá trình hình thành dư luận xã hội có sự đòi hỏi cao ở tính thống nhất
rất phức tạp của các đối tượng công chúng. Các yếu tố quan niệm chung về
định hướng giá trị, bề dày của kinh nghiệm chính trị, tính tích cực chính trị xã
hội, trình độ học vấn của công chúng là các nhân tố quan trọng để tập hợp các
cá nhân vào dòng chảy của các phương tiện truyền thông đại chúng, và qua hệ
thống này thể hiện ý kiến của cá nhân họ và của nhóm xã hội mà bản thân họ
là một thành viên. Sự trùng khớp càng cao giữa ý kiến của nhóm với ý kiến
chung của xã hội là nhân tố quan trọng để tạo nên mối liên kết xã hội nhằm
đảm bảo tính chất bền vững của dư luận xã hội.
Tính chất chân thực của nội dung thông tin được phát trên các phương
tiện truyền thông đại chúng có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành dư
luận xã hội. Uy tín của nguồn tin cũng phụ thuộc nhiều nhất vào tính chân
17
thực của thông tin, vì đây là nhân tố sẽ xác định thái độ của công chúng đối
với chủ đề mà các phương tiện thông tin đại chúng khơi gợi và đề xuất, từ đó
mà tạo nên mối liên hệ xã hội trên cơ sở những lợi ích chung để tiến hành thảo
luận và đánh giá. Mức độ chín muồi trong sự đánh giá của dư luận xã hội về
một chủ đề nào đó sẽ là cơ sở để tạo nên hành động xã hội của các nhóm dân
cư, các tầng lớp xã hội. Điều đó có nghĩa là dư luận xã hội được hình thành và
trở nên bền vững không bởi các tác động của phưong tiện truyền thông đại
chúng sẽ được bộ lộ ra ở cả hai cấp độ: lời nói và việc làm. Hiệu quả của dư
luận xã hội sẽ được đo bằng sự ảnh hưởng trên cả hai cấp độ đó.
Các giai đọan của sự hình thành dư luận xã hội dưới tác động của các
phương tiện truyền thông đại chúng diễn ra quan các bước sau.
- Công chúng làm quen với các vấn đề được các phương tiện truyền
thông gợi ý hoặc đề xuất.
- Kích thích lợi ích xã hội về vấn đề đó. Hoạt động này thường được
làm bằng cách đăng bài của các chuyên gia am hiểu về lĩnh vực đó. Việc trình
bày các quan điểm khác nhau trong cách nhìn nhận, đánh giá sẽ tạo nên cơ sở
cho việc tranh luận.
- Tiến hành tranh luận trên phạm vi đại chúng
Giai đọan làm quen với các vấn đề xã hội đang trở thành mối quan tâm chung
có ý nghĩa như là sự khởi đầu vì dù vấn đề có quan trọng đến đâu thì các
phương tiện thông tin đại chúng cũng không thể hoạt động hiệu quả khi vấn
đề đó không được các cá nhân, các nhóm xã hội quan tâm.
Lợi ích xã hội là những nhân tố chi phối sâu sắc nhất đến sự hình thành
dư luận xã hội. Lợi ích các nhân thường nhạy bén nhất trong sự hình thành ý
kiến cá nhân. Ý kiến nhóm được coi là đơn vị đầu tiên hình thành nên chất của
18
dư luận xã hội. Do đó, con đường vận động từ ý kiến cá nhân qua ý kiến nhóm
để hình thanh dư luận xã hội là một quá trình biện chứng. Sự phát triển các
tầng ý kiến này sẽ quy định cường độ của dư luận xã hội về một hiện tượng xã
hội nào đó.
Từ những cơ sở lý luận xã hội trên đây, có thể lý giải được quá trình
hình thành dư luận xã hội trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng trên báo chí
cũng xuất phát từ cơ chế “kích thích lợi ích xã hội” của nhiều nhóm xã hội.
Đứng trước một vụ tham nhũng, bất cứ người nào cũng cảm thấy tổn thương,
mất mát và cảm thấy bị ảnh hưởng (gián tiếp hay trực tiếp). Bởi tham nhũng là
“góp phần” làm nghèo đất nước, là kéo lùi lịch sử, là nguy cơ của sự tồn vong
cả dân tộc. Tất nhiên, trong những vụ việc cụ thể, tác động hình thành dư luận
xã hội trong từng nhóm xã hội cụ thể có khác nhau. Lại ví dụ về vụ tiêu cực
xà xèo lòng hồ Trị An, người dân địa phương cảm thấy lợi ích trực tiếp của
mình bị thiệt hại do việc nuôi heo, nuôi cá trên hồ ảnh hưởng đến nguồn nước,
hoặc mình bị mất đất mất nhà trong khi cán bộ thì có hàng chục hec-ta đất để
làm giàu, những người từng một thời cống hiến sức thanh xuân trên công trình
thủy điện Trị An thì cảm thấy bị xúc phạm, những người dân phía Nam thì
cảm thấy hậu quả của vụ việc xa hơn như sản lượng điện của Trị An bị giảm.
Và những người dân bình thường yêu nước thì thấy vụ việc làm ảnh hưởng
đến kỷ cương phép nươc cần được nghiêm trị v.v… Khó có thể phân tích hết
các lợi ích của công chúng truyền thông khi được tiếp cận và kích thích bởi
những thông tin liên quan tới vụ việc này, thế nhưng, tất cả có một điểm
chung là đều thấy rõ đó là một sự sai trái, sự vi phạm, sự thách thức pháp luật
và dư luận xã hội nên đồng tình lên án. Quá trình lên án, tranh luận từ truyền
thông liên cá nhân đến truyền thông đại chúng đã góp phần hình thành và thể
hiện dư luận xã hội. Và đến lượt nó, dư luận xã hội về vụ việc này đã tác động
19
đến cơ quan chức năng, đến từng thành viên có liên quan, đến từng đối tượng
truyền thông cụ thể để họ có những hành động cụ thể…
Sự hình thành dư luận xã hội diễn ra liên tục và chứa đầy các yếu tố tự
phát. Nhưng đây là một quá trình có quy luật. Mặc dù sự phát triển của dư
luận xã hội được xác định bởi các quy luật khách quan, song để dư luận xã hội
được hình thành có định hướng thì phải có hoạt động điều khiển.
Trong một xã hội phát triển có định hướng thì quá trình hình thành dư
luận xã hội theo con đường tự phát tất yếu phải chịu tác động bởi sự điều hành
có ý thức của hoạt động quản lý và tổ chức xã hội.
Sự hình thành dư luận xã hội thông qua các phưong tiện thông tin đại
chúng có mối liên hệ ngược (feedback). Nghĩa là các phương tiện này không
chỉ tạo nên dư luận xã hội, mà đến lượt nó, dư luận xã hội cũng có tác động
trở lại đến hoạt động của hệ thống truyền thông đại chúng. Vì trong lĩnh vực
thông tin đại chúng sự phân chia giữa những người tham gia truyền thông
(nguồn tin – chủ thể tác động) và người nhận (khách thể tác động) là rất tương
đối vì cả hai phía của tác động này đều là chủ thể và khách thể của tác động
thông tin một các một chiều.
20
3. KẾT LUẬN:
Với cơ chế hình thành và thể hiện dư luận xã hội, từ chức năng định
hướng dư luận cho tới tính chính xác, tính trung thực trong thông tin được đưa
ra của các cơ quan truyền thông đại chúng trong đấu tranh chống tiêu cực là
những vấn đề hết sức quan trọng. Từ thực tiễn truyền thông đại chúng mà cụ
thể là báo chí ở Việt Nam những năm gần đây, có thể khẳng định rằng, báo
chí đã có những đóng góp hết sức quan trọng vào cuộc đấu tranh chống tham
nhũng, chống tiêu cực. Không có sự tham gia tích cực của báo chí thì kết quả
đã không thể đạt được như hiện nay, đành rằng kết quả ấy còn xa mới đáp ứng
được yêu cầu của Đảng và của nhân dân. Báo chí không chỉ tham gia phát
hiện mà trong nhiều trường hợp còn góp phần thôi thúc các cơ quan phải khẩn
trương giải quyết các vụ việc.
Hiệu quả của việc chống tiêu cực trên báo chí chính nhờ biết khai thác
tốt cơ chế “hình thành và thể hiện dư luận xã hội”.
Để thực hiện tốt vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng
trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng còn đòi hỏi một số vấn đề khác đang
đặt ra như : báo chí phải độc lập về tài chính (sự hỗ trợ tài chính của nhà nước
dẫn đến việc đưa các tin tức thuận lợi về chính phủ đương nhiệm và giảm bớt
vai trò giám sát của phương tiện truyền thông (*); hoặc quyền tiếp cận thông
tin của báo chí cần được luật pháp bảo vệ tốt hơn nữa. (Nhiều sự vụ liên quan
đến các quan chức cao cấp, báo chí tự điều tra nhưng những bài báo không
được đăng, chỉ mang tính tham khảo nội bộ, được chuyển lên lãnh đạo cao
hơn để xem xét và xác minh chứ không công bố rộng rãi trước công luận).
Tuy nhiên, những vấn đề liên quan đến cơ chế sẽ dần được hoàn thiện, bởi
21
Đảng và Nhà nước luôn yêu cầu và tạo điều kiện cho các cơ quan truyền
thông đại chúng phải góp phần tích cực trong việc đấu tranh chống tham
nhũng (**). Vấn đề đặt ra hiện nay là nhiều vụ việc đấu tranh chống tham
nhũng trên các phương tiện truyền thông đại chúng chưa tạo được hiệu quả
cao vì chưa tạo được phạm vi và cường độ dư luận xã hội lớn. Chính vì thế,
việc nghiên cứu xã hội học truyền thông đại chúng, đặc biệt là nghiên cứu dư
luận xã hội làm cơ sở cho công tác truyền thông nói chung và công tác đấu
tranh chống tham nhũng trên báo chí cần được đặt ra nhiều hơn nữa trong thời
gian tới.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tập Bài giảng Lý luận kinh doanh báo chí, TS.Hoàng Hải, 2006
2. Công tác phát hành trong phát triển báo chí thời kì hội nhập quốc tế,
TS. Hoàng Hải, Tạp chí Người làm báo, tháng 8/2007
3. Lê Thanh Bình, Quản lý và phát triển báo chí, Nxb Chính trị quốc
gia Hà Nội, 2004
4. Cơ sở lí luận báo chí truyền thông – tác giả : Dương Xuân Sơn,
Đinh Văn Hường, Trần Quang.
5.
Nghĩ về nghề báo – tác giả : Hữu Thọ .
6.
Làm báo – lí thuyết và thực hành – tác giả : Trần Quang.
7.
Báo chí những vấn đề lí luận và thực tiễn – tác giả : Hà Minh Đức
8.
Công việc của người viết báo – tác giả : Hữu Thọ.
23