Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

BIẾN đổi KHÍ hậu và TÌNH HÌNH sức KHỎE của NGƯỜI dân tại một số xã VEN BIỂN TỈNH bến TRE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 9 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ TÌNH HÌNH SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI DÂN
TẠI MỘT SỐ XÃ VEN BIỂN TỈNH BẾN TRE
Đặng Ngọc Chánh*, Lê Ngọc Diệp*, Ngô Khần*

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trong các thập kỷ gần đây, các thiên tai như bão, lụt, xâm nhập mặn... xảy ra thường xuyên
hơn và khó dự đoán. Trong đó, Bến Tre được đánh giá là một trong những tỉnh bị ảnh hưởng nặng và người dân
tại các vùng ven biển sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất. Do đó, nghiên cứu về tác động của biến đổi
khí hậu, cụ thể là tác động lên tình trạng sức khỏe của người dân hiện đang sinh sống trên khu vực ven biển là
một điều hết sức cần thiết để từ đó có thể đưa ra các chính sách chiến lược phù hợp nhằm ứng phó kịp thời với
những thay đổi trên.
Mục tiêu: Đánh giá mức độ biến đổi thời tiết và tình trạng sức khoẻ của người dân tại các huyện ven biển
tỉnh Bến Tre.
Phương pháp nghiên cứu: Phỏng vấn thông qua bảng câu hỏi kết hợp với thu thập số liệu tại trạm khí
tượng thủy văn tỉnh Bến Tre.
Kết quả: Số liệu cung cấp từ trạm khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre cho thấy mức nhiệt trung bình của tỉnh
Bến Tre hiện nay cao hơn 5 năm trước từ 0,2 – 0,5 0C. Mực nước tại 2 khu vực sông Hàm Luông và sông Cổ
Chiên đang có khuynh hướng dâng lên và mức độ nhiễm mặn gia tăng rõ rệt. Tỷ lệ mắc các bệnh có liên quan
hay chịu ảnh hưởng do tình trạng biến đổi khí hậu tại các xã đều chiếm trên 80%, đặc biệt ở một số bệnh như tiêu
chảy, cảm và tai mũi họng.
Kết luận: Kết quả phân tích khí tượng thủy văn cho thấy diễn biến của khí hậu thời tiết có sự thay đổi qua
các năm, tỷ lệ mắc các bệnh có liên quan hay chịu ảnh hưởng do tình trạng biến đổi khí hậu tại các xã ven biển tại
đây khá cao.
Từ khoá: biến đổi khí hậu, tình hình sức khoẻ, vùng ven biển.

ABSTRACT
CLIMATE CHANGE AND HEALTH STATUS OF PEOPLE LIVING IN COASTAL COMMUNES


OF BEN TRE PROVINCE
Dang Ngoc Chanh, Le Ngoc Diep, Ngo Khan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3 - 2012: 408 - 415
Background: In recent decades, natural disasters such as storm, floods, salinization occur more often and
difficult to predict. Ben Tre is one of the provinces which are most affected, and so coastal community is affected
directly and most severely. Therefore, research on the impacts of climate change, particularly effects on health
status of people who living in coastal areas is very necessary. Base on this research, some policies which may be
appropriate for climate change adaptation can be given out.
Objectives: Assess the weather changes and health status of people who live in coastal communes of Ben Tre
province.
Method: Interviewing with designed questionnaires and collecting data from Ben Tre meteorological center.
* Khoa Sức Khỏe Môi Trường, Viện Vệ Sinh Y Tế Công Cộng TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: Ths. Đặng Ngọc Chánh ĐT: 090370453 Email:

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Results: Meteorological data show that the current mean temperature of Ben Tre is 0.2 0C to 0.50C higher
than 5 years ago. Water levels in Ham Luong river and Co Chien river are tending to rise and salinity levels
increased markedly. The incidence of diseases which are related or affected by climate change is more than 80%,
especially in some diseases such as diarrhea, cold, ear, nose and throat diseases.
Conclusion: The analysis shows that meteorological evolution of climate has changed from years. The
incidence of diseases which are related or affected by climate change in coastal communes community is high.
Key words: climate change, health status, coastal area.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Biến đổi khí hậu ngày càng trở thành vấn đề
thách thức to lớn được toàn cầu quan tâm, các
nhà khoa học đã tìm ra mối liên quan chặt chẽ
giữa khí hậu địa phương ảnh hưởng đến sự xuất
hiện hay mức độ nghiêm trọng của một số bệnh
và các mối đe dọa khác đối với sức khỏe con
người. Tổ chức Y Tế Thế Giới ước tính rằng 1/4
gánh nặng bệnh tật của thế giới là do ô nhiễm
không khí, đất, nước và thực phẩm, các khu vực
bị ảnh hưởng nặng nề nhất bao gồm châu Phi,
tiểu lục địa Ấn Độ và tại Đông Nam Á(2). Tại
Việt Nam trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ
trung bình năm đã tăng lên khoảng 0,3-0,5 0C,
mực nước biển đã dâng lên khoảng 20cm(4). Biển
đổi khí hậu đã làm cho các thiên tai, đặc biệt là
bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt. Những yếu tố
đó sẽ làm gia tăng ngập lụt, xâm nhập mặn, lan
tràn chua phèn… và dẫn tới những hệ lụy khác
như làm gia tăng các rủi ro về sức khỏe do các
đợt nắng nóng gay gắt. Một nghiên cứu cho thấy
nếu mực nước biển dâng cao 1m sẽ ảnh hưởng
khoảng 5% diện tích đất của Việt Nam và 11%
dân số cả nước(3). Trong các thập kỷ gần đây, yếu
tố khí tượng thủy văn tại vùng đồng bằng sông
Cửu Long tiếp tục thay đổi theo chiều hướng
xấu. Các thiên tai như bão tố, lụt lội, xâm nhập
mặn... xảy ra thường xuyên hơn và khó dự đoán.
Khảo sát của Viện Khoa học Khí tượng thủy văn
và môi trường cho biết tại Bến Tre mực nước
biển đã dâng lên khoảng 20cm, ô nhiễm mặn đã

tăng lên khoảng 20% so với trước đó 10 năm
(năm 1990) và hiện tượng thời tiết cực đoan xuất
hiện ngày càng nhiều(4). Nghiên cứu về tác động
của biến đổi khí hậu, cụ thể là tác động lên tình
trạng sức khỏe của người dân hiện đang sinh
sống trên khu vực ven biển là một điều hết sức
cần thiết, từ đó có thể đưa ra các chính sách chiến

lược phù hợp để có thể ứng phó kịp thời với
những thay đổi trên.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá mức độ biến đổi thời tiết và tình
trạng sức khoẻ của người dân tại các huyện ven
biển tỉnh Bến Tre.
Mục tiêu cụ thể
Đánh giá mức độ biến đổi thời tiết thay đổi
trong 5 năm từ 2006-2010.
Khảo sát tình trạng sức khoẻ của người dân
tại 4 xã ven biển thuộc huyện Thạnh Phú và Ba
Tri, tỉnh Bến Tre.
Khảo sát tình hình thực hành vệ sinh giúp
phòng ngừa bệnh của người dân tại 4 xã ven biển
thuộc huyện Thạnh Phú và Ba Tri, tỉnh Bến Tre.

ĐỐITƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm nghiên cứu
Huyện Ba Tri: Xã Huyện Thạnh Phú: xã
Thạnh Hải và Thạnh Phong.
Huyện Ba Tri: xã Bảo Thuận và An Thuỷ

Phỏng vấn trực tiếp người dân thuộc 4 xã ven
biển của 2 huyện Ba Tri và Thạnh Phú tỉnh Bến
Tre. Đối tượng phỏng vấn là những người hiện
đang sinh sống tại tỉnh Bến Tre từ 16 tuổi trở lên,
ưu tiên phụ nữ có tuổi nhằm cung cấp đầy đủ
thông tin về tình hình sức khoẻ của các thành
viên trong gia đình.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Tình hình khí tượng thủy văn
Số liệu cung cấp từ trạm khí tượng thủy văn
tỉnh Bến Tre cũng cho thấy tình hình diễn biến
thay đổi của khí hậu thời tiết qua các năm. So
sánh với nhiệt độ tối cao trung bình từ 2001 đến
2005 thì mức nhiệt tối cao trung bình trong
khoảng thời gian từ 2006 đến 2010 đã cao hơn
6,4 0C. Mức nhiệt trung bình của tỉnh Bến Tre
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
cao hơn trước từ 0,2 – 0,5 0C. Đặc biệt vào cuối
mùa khô 2009, nhiệt độ tăng cao đến 36,5 0C.
Đồng thời một diễn biến bất thường khác vào
giữa mùa mưa năm 2010 nhiệt độ cao nhất là
36,2 0C, đây là mức nhiệt cao nhất vào những
tháng mùa mưa trong 5 năm từ 2006 đến 2010.

Nghiên cứu Y học

vào thời điểm này lên đến 92,8 mm. Các tháng

còn lại trong mùa khô hầu như không có mưa.
Theo số liệu báo cáo của các trạm y tế xã, tại xã
Bảo Thuận của huyện Ba Tri từ năm 2007 đến
2009 đều bị thiệt hại về người do thiên tai. Cụ
thể, trong năm 2006 tại xã có 11 người bị thương,
1 người chết. Năm 2007 là 36 người bị thương và
4 người chết. Năm 2008 có 12 người bị thương
và 1 người chết và trong năm 2009 là 4 người bị
thương và 2 người chết.
Mùa mưa năm 2009 và năm 2010 huyện Ba
Tri có lưu lượng mưa thấp nhất trong 5 năm từ
2006 – 2010 chỉ có 78,5 mm. Trong thời điểm
giữa mùa mưa từ 2006 – 2009 (từ tháng 5 đến
tháng 9 hằng năm), lưu lượng mưa thấp nhất đo
được là 200 mm và cao nhất là 358 mm. Tuy
nhiên trong năm 2010 lượng mưa diễn biến có
phần bất thường hơn, cụ thể là vào thời điểm
giữa mùa mưa, lượng mưa đo được thấp nhất là
78,5 mm và cao nhất 288,2 mm.

Tháng 3 năm 2006 huyện Ba Tri chịu ảnh
hưởng của cơn bão số 9 hoạt động trên biển
Đông gây ra mưa to nên đã làm tăng lượng mưa
Hình 1: Biến thiên nhiệt độ trung bình tháng trong 5 năm từ 2006 – 2010 tại tỉnh Bến Tre
Nguồn: Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre

Huyện Thạnh Phú

Huyện Ba Tri


Hình 2: Biến thiên lượng mưa tại 2 huyện từ 2006 – 2010
Nguồn: Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre
Kết quả thu được tại trạm quan trắc Hàm
Tương tự, tại trạm quan trắc Hàm Luông, từ năm
Luông và Cổ Chiên cho thấy mực nước bình
2006 đến năm 2010 mực nước thấp nhất là đã
quân từ năm 2006 đến 2010 có khuynh hướng
tăng lên đáng kể từ -25cm lên -8cm và mực nước
tăng dần và biên độ dao động trong năm ngày
trung bình cao nhất tăng ít hơn, từ 41cm lên
càng giảm dần. Tại trạm quan trắc Cổ Chiên
43cm. Điều này cho thấy mực nước tại 2 khu vực
(huyện Thạnh Phú), mực nước trung bình thấp
sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên đang có
nhất trong năm 2006 là -23cm và cao nhất là
khuynh hướng dâng lên, gây nguy cơ xâm lấn
36cm; đến năm 2010 mực nước thấp nhất là -10
ảnh hưởng đến đời sống của người dân tại huyện
cm và mực nước cao nhất trong năm là 42 cm.
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Ba Tri nói riêng và người dân tại các vùng ven
lưu vực sông nói chung.

Tại huyện Thạnh Phú, độ mặn cao nhất xảy
ra vào khoảng từ tháng 3 và tháng 4 mỗi năm,
dao động từ 26,1‰ (năm 2009) đến 29,6‰ (năm
2007). Đặc biệt trong năm 2010 mức độ nhiễm

mặn có khuynh hướng tăng vượt trội từ tháng 5
đến tháng 7 trong khi mực nước sông giảm
Huyện Thạnh Phú

Nghiên cứu Y học

không đáng kể so với các năm trước đó. So với
huyện Thanh Phú, tại Ba Tri mức độ nhiễm mặn
tại đây khá cao và cũng tăng dần rõ rệt theo các
năm. Trong đó độ mặn đạt đỉnh cao nhất trong
suốt 5 năm khảo sát là 30‰ vào tháng 3 năm
2010, tăng 6,1‰ so với tháng nhiễm mặn cao
nhất của năm 2006. Với tình hình tiếp diễn như
trên sẽ gây ảnh hưởng khá nghiêm trọng đối với
hệ sinh thái động thực vật, đồng thời bên cạnh đó
sẽ ảnh hưởng đến đời sống kinh tế của người dân
tại đây. Chính vì vậy người dân và các cấp chính
quyền cần có các biện pháp khắc phục phù hợp,
thay đổi cơ cấu sản xuất kinh tế, hệ sinh thái
động thực vật nhằm thích ứng và giảm thiểu tác
hại với tình hình biến đổi như trên.

Huyện Ba Tri

Hình 3: Mực nước bình quân tại 2 huyện từ năm 2006 đến 2010 (Nguồn: Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Bến
Tre)

Huyện Thạnh Phú

Huyện Ba Tri


Hình 4: Diễn biến độ mặn lớn nhất của tháng từ năm 2006-2010 (Nguồn: Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre)

Tình hình bệnh tật
Tiến hành đánh giá chất lượng nguồn nước
ngầm tại xã Thạnh Hải và Thạnh Phong có dấu
hiệu ô nhiễm Arsen. Cụ thể, xã Thạnh Hải có 5
mẫu nước ngầm được người dân sử dụng cho
mục đích sinh hoạt bị nhiễm Arsen với hàm
lượng thấp nhất là 0,086 mg/l, cao nhất là 0,267
mg/l và xã Thạnh Phong có 1 mẫu nước ngầm bị
nhiễm Arsen với hàm lượng là 0,061 mg/l. Trong
khi đó, giới hạn cho phép sự hiện diện của Arsen
trong nước sinh hoạt theo QCVN 02:2009/BYT
là dưới 0,05 mg/l. Bên cạnh đó, nguồn nước

ngầm dùng cho mục đích sinh hoạt có hàm lượng
Nitrit và Nitrat là khá cao, hai chất Nitrat và
Nitrit đều có khả năng tạo hợp chất
Methaemoglobin, tác nhân gây bệnh thiếu máu,
xanh xao. Tại xã Thạnh Phong có 15/20 mẫu
nước ngầm có giá trị CNitrat/GHTĐNitrat +
CNitrit/GHTĐNitrit > 1, trong đó giá trị này thấp nhất
là 1,08 và cao nhất là 9,70. Xã An Thủy là 8/20
mẫu, xã Thạnh Hải 7/20 mẫu và xã Bảo Thuận là
5/20 mẫu.
Tuy nhiên, thói quen trong sử dụng nước
ăn uống của người dân nguồn nước mưa vẫn

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

đóng vai trò chủ yếu, tỷ lệ hộ chỉ sử dụng nước
giếng cho mục đích ăn uống chiếm 8,8% tại
huyện Thạnh Phú và 5,8% tại huyện Ba Tri.

Hình 5: Tình hình sử dụng nước cho mục đích
ăn uống
Đối với tình hình bệnh tật, nhìn chung số
lượng người dân mắc bệnh tại các xã ven biển
của huyện Thạnh Phú cao hơn đáng kể so với
huyện Ba Tri. Cụ thể, tỷ lệ mắc bệnh cảm tại
huyện Thạnh Phú cao gấp 1,6 lần, tai mũi họng
cao gấp 1,8 lần và tiêu chảy gấp 1,9 lần so với Ba
Tri (hình 6). Số người mắc các bệnh về đường hô
hấp như cảm và tai mũi họng chiếm khá lớn trên
mô hình bệnh, các bệnh liên quan đến tim mạch
như cao huyết áp và các chứng bệnh tim khác
cũng chiếm tỷ lệ tương đối lớn trên mô hình bệnh
thu thập được tại đây. Theo các chuyên gia
nghiên cứu, các đợt nắng nóng kéo dài, nhiệt độ
không khí tăng gây nên những tác động tiêu cực
đối với sức khoẻ con người, tạo cơ hội cho chứng
hen suyễn, các bệnh về đường hô hấp tấn công và
bên cạnh đó còn gia tăng một số nguy cơ ảnh
hưởng đến tình trạng của người bệnh tim mạch(1).

Kết quả khí tượng thủy văn thu được ở trên cũng
cho thấy rằng qua các năm nhiệt độ đang tăng lên
rõ rệt, tổng lượng mưa trong những năm từ 2006
đến 2008 đã tăng cao và giảm xuống đột ngột
trong năm 2009 và 2010. Như vậy, với diễn biến
thời tiết năng nóng gia tăng kết hợp với sự thay
đổi về lượng mưa tăng vào mùa mưa và giảm vào
mùa khô sẽ tác động đến sức khỏe của con
người. Nhất là tại các khu vực ven biển, tác động
của biến đổi khí hậu sẽ gây ảnh hưởng lớn hơn
nữa đến các đối tượng này, đặc biệt là hạn chế về
mặt dinh dưỡng và điều trị ở các đối tượng có
điều kiện kinh tế thấp.

Hình 6: Tình hình mắc bệnh của của người dân
tại huyện Thạnh Phú và Ba Tri
Tuy nhiên tỷ lệ mắc tiêu chảy trong vòng 1
năm trước thời điểm khảo sát ở cả 2 huyện tương
đối thấp (chiếm 2,27% tại Thạnh Phú và 3,67%
tại Ba Tri), điều này một phần do tình hình sử
dụng nước dùng cho mục đích ăn uống đều là
nước mưa hoặc nước giếng đã qua đun nấu.
Thêm vào đó, các thói quen xử trí thức ăn thừa
hằng ngày của người dân (hình 7) cho thấy rằng
đa số đều tuân thủ khá tốt, phần lớn thức ăn thừa
được hâm nóng trước khi ăn hoặc không để thức
ăn thừa vào các ngày kế tiếp, riêng chỉ có 2 hộ tại
mỗi xã Thạnh Phong, Bảo Thuận và An Thuỷ
chưa đảm bảo được vấn đề trên.


Hình 7: Thói quen xử trí thức ăn thừa hằng ngày
của người dân
Từ bảng 1 cho thấy trên ¾ số người dân sống
tại các xã ven biển trên 2 huyện chọn lựa đến
khám chữa bệnh là trạm y tế, mặc dù là nơi được
trang bị máy móc thiết bị nhiều hơn nhưng tỷ lệ
đến khám tại trung tâm y tế huyện và bệnh viện
lại khá thấp. Nguyên nhân do đây là các xã ven
biển cách xa trung tâm huyện cũng như thị xã,
đối với người dân tại huyện Thạnh Phú để có thể
đến bệnh viện hay trung tâm y tế huyện khám
chữa bệnh phải di chuyển qua phà gây khó khăn
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

43


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

trong việc đi lại. Việc người dân tập trung đến
khám tại trạm y tế bên cạnh việc giúp quản lý
được tình hình bệnh tật của địa phương, giảm
được hiện tượng quá tải cho các cơ sở tuyến trên
nhưng mặt khác đặt ra yêu cầu cần phải nâng cao
năng lực chuyên môn tại tuyến xã để có thể tầm
soát chuẩn đoán bệnh kịp thời.
Bảng 1: Tình hình chọn lựa loại hình khám chữa
bệnh của người dân


Tại huyện Thạnh Phú, đa số các hộ đều có
ít nhất một thành viên trong gia đình mắc bệnh
và khoảng 1/6 trên tổng số hộ khảo sát tại cả 2
xã có ít nhất 2 người trong cùng một nhà mắc
bệnh trong năm. Đối với huyện Ba Tri, nhìn
chung tình trạng sức khỏe của người dân tại
đây khá tốt, có khoảng 60% hộ chỉ có 1 thành
viên trong gia đình mắc bệnh và khoảng 1115% hộ có từ 2 thành viên trong nhà mắc bệnh.
Thạnh Phú
Ba Tri
Tình hình bệnh tật tại các xã của huyện Thạnh
Loại hình khám
Tần
số
Tần
số
Tỷ
lệ
Phú cao gấp 1,3 lần so với tại Ba Tri, trong đó
chữa bệnh
Tỷ lệ (%)
(%)
(n= 600)
(n= 600)
tỷ lệ mắc các bệnh có liên quan hay chịu ảnh
Bệnh viện
32
5,33
92

15,33
hưởng do tình trạng biến đổi khí hậu chiếm
Trung tâm y tế
44
7,33
35
5,83
trên 80%, chưa kể đến số lần mắc của cùng một
huyện
loại bệnh đã xảy ra trong năm. Như vậy từ đây
Trạm y tế xã
513
85,5
76,5
459
có thể phần nào thấy được nguy cơ cũng như
Phòng khám tư
29
4,83
72
12
ảnh hưởng của tình trạng biến đổi khí hậu lên
Khác
1
0,17
5
0,83
sức khỏe của người dân tại đây.
Bảng 2: Tình hình bệnh tật của hộ gia đình tại các xã ven biển của 2 huyện Thạnh Phú, Ba Tri
Xã Thạnh Hải


Xã Thạnh
Phong

Huyện Thạnh
Xã Bảo Thuận Xã An Thuỷ Huyện Ba Tri
Phú

Tổng số người mắc bệnh trong
360
374
734
266
291
557
năm
Tổng số người các mắc bệnh có
liên quan/ảnh hưởng do biến đổi 309 (85,83%) 320 (85,56%) 629 (85,69%) 215 (80,83%) 240 (82,47%) 455 (81,69%)
khí hậu
Bệnh
Không
Xét mối liên quan giữa tình trạng mắc các
bệnh
p
PR KTC 95%
bệnh có liên quan đến tình trạng biến đổi khí hậu
Tần số (%) Tần số (%)
(cảm, tai mũi họng và các bệnh khác như tiêu
Tuổi
chảy, da liễu và viêm xoang), so với nhóm dưới

Từ 16 – 40
177
313
1
40 tuổi, tỷ lệ mắc bệnh ở nhóm trên 40 đến 60
tuổi
(36,12%) (63,88%)

tuổi cao gấp 1,16 lần và tỷ lệ mắc bệnh ở nhóm
trên 60 tuổi cao gấp 1,85 lần nhưng sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê. Có sự khác biệt
giữa tình trạng kinh tế gia đình và tình hình mắc
bệnh, ở nhóm cận nghèo có tỷ lệ mắc bệnh cao
gấp 1,84 lần và nhóm hộ nghèo có tỷ lệ mắc bệnh
cao gấp 1,16 lần so với nhóm có điều kiện kinh tế
từ trung bình trở lên. Điều này có thể do những
người thuộc nhóm cận nghèo ít được hỗ trợ về
mặt chăm sóc sức khoẻ hơn so với các nhóm còn
lại. Tuy nhiên những sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê (p > 0,05).
Bảng 3: Các yếu tố liên quan với tình trạng các
mắc bệnh có liên quan đến tình trạng biến đổi
khí hậu

Từ 41 – 60
183
tuổi
(37,20%)

309

(62,80%)

0,26

1,16 0,89-1,52

Trên 60 tuổi

76
142
0,16 1,85 0,79-4,32
(34,86%) (65,14%)
Tình trạng kinh tế gia đình
Từ trung
299
553
1
bình trở lên (35,09%) (64,91%)
Cận nghèo
11
11
0,156 1,84 0,79-4,32
(50%)
(50%)
Nghèo
126
200
0,256 1,16 0,89-1,52
(38,65%) (61,35%)
Tình hình thực hành vệ sinh

Tốt
207
354
(35,84%) (63,10%)
Chưa tốt
229
410
0,7 1,024 0,90-1,16
(36,90%) (64,16%)

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
KẾT LUẬN
Mức nhiệt trung bình của tỉnh Bến Tre hiện
nay cao hơn 5 năm trước từ 0,2 – 0,5 0C. Có
những diễn biến bất thường vào cuối mùa khô
2009 và giữa mùa mưa năm 2010.
Từ năm 2006 đến năm 2008, lượng mưa của
huyện Thạnh Phú và huyện Ba Tri năm sau đều
nhiều hơn năm trước. Tại huyện Thạnh Phú,
lượng mưa năm 2009 nhiều hơn so với năm 2010
tuy nhiên tại huyện Ba Tri thì lượng mưa diễn
biến ngược lại.
Mực nước tại 2 khu vực sông Hàm Luông và
sông Cổ Chiên đang có khuynh hướng dâng lên,
mức độ dao động giữa mực nước bình quân của
tháng cao nhất và tháng thấp nhất giảm dần qua
các năm khảo sát.

Mức độ nhiễm mặn thu được tại trạm quan
trắc Hàm Luông và Cổ Chiên khá cao và tăng
dần rõ rệt theo các năm.
Phần lớn nguồn nước sử dụng cho mục đích
ăn uống tại các xã đều là nước mưa hoặc nước
giếng. Tỷ lệ uống nước đun sôi tại các xã khá cao
(chiếm trên 90%).
Loại hình khám chữa bệnh thường được đa
số người dân lựa chọn là trạm y tế xã.
Tình hình bệnh tật:
Tỷ lệ mắc các bệnh có liên quan hay chịu ảnh
hưởng do tình trạng biến đổi khí hậu tại các xã
đều chiếm trên 80%. Số lượng người dân mắc
bệnh tại các xã ven biển của huyện Thạnh Phú
cao đáng kể so với huyện Ba Tri (gấp 1,3 lần).
Đặc biệt ở một số bệnh như tiêu chảy, cảm và tai
mũi họng.
Không có sự liên quan có ý nghĩa thống kê
giữa tình hình mắc bệnh với các yếu tố như nhóm
tuổi, tình trạng kinh tế gia đình và tình hình thực
hành vệ sinh.
ĐỀ XUẤT – KIẾN NGHỊ
Các ban ngày chức năng cần bám sát vào sự
chỉ đạo của Trung ương, hoàn chỉnh cơ cấu tổ
chức ứng phó BĐKH của tỉnh.
Tăng cường đầu tư các mô hình điểm ứng
phó BĐKH; lồng ghép thích ứng và giảm nhẹ
BĐKH vào các chương trình, dự án phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tăng cường nâng cao năng lực ứng phó

BĐKH cho các cấp, ngành và đơn vị đoàn thể;

Nghiên cứu Y học

tuyên truyền, tập huấn các kiến thức cơ bản về
BĐKH cho cộng đồng dân cư.
Xây dựng chính sách hỗ trợ và phổ biến rộng
khắp đến các hộ gia đình có điều kiện kinh tế khó
khăn trong việc tiếp cận với các dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ tại địa phương nhằm giảm bớt gánh
nặng bệnh tật cũng như tránh tình trạng lây lan
trong cộng đồng.
Cần có các kế hoạch chính sách đưa nước
máy vào sử dụng tại các hộ gia đình, khuyến
khích tăng tỷ lệ sử dụng sạch trong ăn uống và
sinh hoạt trong dân.
Mở các lớp đào tạo ngắn hạn cho nhân viên
tuyến xã nhằm nâng cao năng lực chuyên môn,
một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho người dân
khám chữa bệnh tại địa phương giúp giảm tải cho
các tuyến trên, mặt khác giúp chẩn đoán và tầm
soát bệnh kịp thời chuyển lên các tuyến trên khi
cần thiết.
Tăng cường hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu
về tình hình mắc bệnh tại địa phương nhằm
cung cấp thông tin ban đầu cho việc ứng phó
với tình hình thay đổi mô hình bệnh tật trong
tương lai.
Tăng cường truyền thông giáo dục sức khỏe,
lồng ghép vào các buổi sinh hoạt nhóm như họp

tổ của ấp, tổ nhân dân tự quản nhằm nâng cao
nhận thức của người dân, phòng tránh và ứng
phó với khả năng phát sinh các dịch bệnh trong
tương lai. Cần chú ý đến các nội dung như:
Tạo thói quen sử dụng các nguồn nước sạch,
tăng tỷ lệ sử dụng nước máy kể cả trong ăn uống
sinh hoạt, tránh tình trạng người dân sử dụng
nước máy trong sinh hoạt và nước mưa trong ăn
uống như hiện nay.
Sử dụng nước hiệu quả và tiết kiệm nhằm
ứng phó với tình trạng khan hiếm nước do hoạt
động nóng lên của trái đất trong tương lai.
Tuyên truyền thực hành phòng chống bệnh
sốt rét và sốt xuất huyết, loại bỏ các vật chứa
nước quanh nhà, khai thông cống rãnh và ngủ
mùng kể cả ban đêm lẫn ban ngày.
Tích cực chủ động tuyên truyền phòng
tránh các dịch bệnh có nguy cơ bùng phát tại
địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

CDC
(2009),
Health
effects,
/>
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
2.
3.

Climate
Institute
(2010),
Human
health,
22/09/2011.
Greet RP (2007), Climate change and human development in Viet
Nam: Case Study for the Human Development Report 2007/2008.

4.

Nghiên cứu Y học

Phạm Khôi Nguyên (2009), Kịch bản về biến đổi khí hậu, nước
biển dâng cho Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Hà Nội.

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

9

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học




×