Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Một số giải pháp huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ ở KBNN hà tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.9 KB, 63 trang )

www.luanvan.online
MỤC LỤC

Luanvan.online

Page 1


www.luanvan.online
LỜI NÓI ĐẦU
Huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế là một nhiệm vụ cấp bách
nhằm tăng nhanh tiềm lực tài chính để thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội. Vốn là một yếu tố rất quan trọng có ý nghĩa quyết định tốc độ
phát triển của nền kinh tế, muốn có vốn phải tìm nguồn. Vậy phải huy động
như thế nào - điều đó còn phụ thuộc vào chính sách, cơ chế huy động vốn của
mỗi nước. Đối với nước ta, vốn cho phát triển kinh tế đã trở thành vấn đề thách
thức trong nhiều năm nay.
Trong những năm qua, Chính phủ đã sử dụng đa dạng các hình thức,
công cụ huy động vốn trong cơ chế thị trường có hiệu quả. Góp phần tạo điều
kiện thuận lợi cho Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế có khả
năng lựa chọn các hình thức đầu tư thích hợp; góp phần thúc đẩy công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong thời gian tới, cùng với các hình thức huy động vốn qua kênh Ngân hàng
như: kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng, tiền gửi tiết kiệm để giải quyết nhu cầu
vốn tín dụng. Việc mở rộng các hình thức huy động vốn cho đầu tư phát triển
kinh tế của Chính phủ như: phát hành trái phiếu Chính phủ qua hệ thống kho
bạc Nhà nước (KBNN). Trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp Nhà nước có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược vốn và
tạo tiền đề cho việc phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán ở
nước ta.
Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ trong thời gian


qua đã góp phần đáng kể giải quyết bội chi ngân sách Nhà nước (NSNN) đồng
thời tạo nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển kinh tế, thu hút một lượng tiền
nhàn rỗi trong dân cư, góp phần ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên,
bên cạnh những thuận lợi cũng còn không ít khó khăn cả về cơ chế và chính
sách huy động vốn. Do đó phải tìm ra các giải pháp thích hợp nhất trong công
tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ trong hệ thống
KBNN, làm thế nào để huy động vốn tối đa, có hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân cư. Từ đó tạo một lượng vốn lớn cho NSNN và cho đầu tư phát triển
kinh tế. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong quá trình học tập tại trường
và làm việc tại KBNN Hà Tây, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Một số giải
pháp huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ ở KBNN Hà
Tây” để viết khoá luận tốt nghiệp.
Luanvan.online

Page 2


www.luanvan.online
Khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Sự cần thiết của công tác huy động vốn thông qua phát hành trái
phiếu Chính phủ
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu
Chính phủ ở KBNN Hà Tây trong thời gian qua
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế huy động vốn thông qua
phát hành trái phiếu Chính phủ ở KBNN Hà Tây
1 Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do trình độ năng lực còn hạn chế, chắc
chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của thầy, cô giáo và những người quan tâm.
2
3

4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14

Luanvan.online

Page 3


www.luanvan.online
15 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA CÔNG
TÁC HUY ĐỘNG VỐN THÔNG QUA PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU
CHÍNH PHỦ
NHU CẦU – KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ – XÃ HỘI:

15.1.1Nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2005
Xuất phát từ nhu cầu bức xúc về vốn nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát
triển với tốc độ cao, ổn định và bền vững, trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, việc huy động vốn cần khai thác tối đa nguồn vốn
trong và ngoài nước nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu đầu tư của NSNN và
các thành phần kinh tế.

Mục tiêu tổng quát của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội
giai đoạn 1990 - 2000 là ra khỏi khủng hoảng – ổn định tình hình xã hội,
vượt qua tình trạng của một nước nghèo và kém phát triển. Để đạt được mục
tiêu quan trọng trên, nhiệm vụ của Việt Nam là đẩy mạnh công cuộc đổi
mới toàn diện, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo
tăng trưởng cao và ổn định ở mức 8 – 9% (trong đó công nghiệp tăng
14%/năm). Đến năm 2002 GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi so với
năm 1990 tức là khoảng 400 – 450$/người/năm. Tuy nhiên, do một số khó
khăn khách quan và chủ quan nảy sinh mà chủ yếu nhất phải kể đến là cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ đã làm giảm nhịp độ phát triển của nước ta
trong năm 1999 và 2000. Do đó, tính đến hết năm 2000, GDP bình quân đầu
người của ta chỉ đạt 360$ và đến hết năm 2002 chỉ đạt 400$ tức là khoảng
1,8 lần GDP năm 1990. Theo viện nghiên cứu chiến lược phát triển thì mục
tiêu của Việt Nam là đến năm 2005 phải đạt GDP bình quân đầu người là
600$, gấp 1,5 lần so với con số hiện nay. Đây là một mục tiêu rất khó khăn.
Muốn đạt được điều này Việt Nam cần đạt mức tăng trưởng bình quân năm
là 7,2% trong 5 năm tới (trong khi mức tăng trưởng trung bình của giai đoạn
1996 – 2000 là 6,8%). Để cho mục tiêu này thành hiện thực, Việt Nam cần
phải thực hiện được một lượng vốn đầu tư là 58 tỉ $ trong 5 năm tới, tăng
khoảng 45% so với giai đoạn 1996 – 2000. Trong lượng vốn này thì nguồn
vốn trong nước sẽ chiếm khoảng 60%, còn lại 40% sẽ được huy động từ các
Luanvan.online

Page 4


www.luanvan.online
nguồn vốn nước ngoài. Phấn đấu đạt mức huy động trái phiếu Chính phủ
hàng năm (kể cả công trái xây dựng tổ quốc) tối thiểu 5%/GDP hàng năm
(khoảng 15.000 – 20.000 tỉ đồng/năm)

Trong những năm tới (2001 – 2005), để đáp ứng được nhu cầu vốn cho
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vốn cho các chương trình mục tiêu
thì nhiệm vụ huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ tại
kho bạc vẫn là một trọng trách.
Thực hiện tốt nhiệm vụ huy động vốn nói trên cần quán triệt nguyên tắc:
Vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng. Cần xử lý linh
hoạt mối quan hệ giữa vốn trong nước và vốn ngoài nước nhằm đảm bảo
thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội.
Vai trò quyết định của vốn trong nước thể hiện ở chỗ:
+ Tạo ra các điều kiện cần thiết để hấp thụ và khai thác có hiệu quả
nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
+ Hình thành và tạo lập sức mạnh nội sinh của nền kinh tế, hạn chế
những tiêu cực phát sinh về kinh tế – xã hội do đầu tư nước ngoài gây nên.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là sự nghiệp của toàn
dân, khai thác triệt để tiềm năng vốn trong dân mới mong tạo ra sự phát
triển bền vững của nền kinh tế. Phải coi trọng sức mạnh của vốn đang tiềm
ẩn trong dân cư và các doanh nghiệp, coi đó là kho tài nguyên quý hiếm
phải được khai thác, sử dụng có hiệu quả.
15.1.2Khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội:
15.1.2.1

Huy động các nguồn vốn trong nước

Trong những năm tới, cần tăng nhanh tỉ lệ tiết kiệm dành cho đầu tư, coi
tiết kiệm là quốc sách, có những biện pháp tiết kiệm trong sản xuất và tiêu
dùng ở tất cả các khu vực Nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình để dồn vốn
cho phát triển sản xuất; Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, nhất là
hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ, mở rộng và phát triển các tổ chức
Tài chính trung gian như: hệ thống các Công ty Tài chính, các doanh nghiệp
bảo hiểm. Song song với việc huy động vốn ngắn hạn, cần tăng tỉ trọng huy

động vốn trung – dài hạn.
Luanvan.online

Page 5


www.luanvan.online
Mục tiêu phấn đấu là phải huy động được trên 60% tổng nhu cầu vốn
đầu tư từ các nguồn trong nước. Cụ thể là:
- Nguồn vốn đầu tư Chính phủ: hàng năm ngân sách Nhà nước dành ra
khoảng 10-15% vốn cho đầu tư phát triển. Dự kiến tổng thu NSNN giai
đoạn 2001-2002 là 20-22% GDP, trong đó thu thuế, phí khoảng 17-18%
GDP. Tổng chi NSNN khoảng 26-28% GDP trong đó chi cho đầu tư
phát triển là 10% GDP và bằng 26% tổng chi NSNN. Bội chi Ngân sách
không vượt quá 5% GDP giải quyết bằng cách khai thác triệt để các
nguồn thu và đẩy mạnh chính sách vay nợ của Chính phủ thông qua phát
hành trái phiếu Chính phủ.
- Nguồn vốn đầu tư từ nguồn khấu hao cơ bản và lợi nhuận để lại từ các
doanh nghiệp: khoảng 15 – 16 tỷ $ trong những năm qua bình quân các
doanh nghiệp đã đầu tư bổ sung từ 100 – 150 triệu $, dự kiến vốn doanh
nghiệp chiếm 28% trong cơ cấu vốn đầu tư trong nước, đây là nguồn vốn
đầu tư quan trọng trong tương lai.
- Nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức Tài chính : đây là nguồn vốn từ các tổ
chức tín dụng, Công ty Tài chính, Ngân hàng và phi Ngân hàng. Nguồn
này được tính khoảng 3- 4 tỉ $.
- Nguồn vốn đầu tư các hộ gia đình: cả nước có trên 10 triệu hộ gia đình,
trong đó có khoảng 2 triệu hộ đủ vốn kinh doanh và tích luỹ hàng năm để
phát triển kinh tế gia đình. Dự kiến mỗi hộ tiết kiệm cho đầu tư phát triển
trung bình từ 1.000 đến 1.500 $/năm, tổng số tích luỹ khoảng 2 – 3 tỉ $
chiếm 33% cơ cấu vốn đầu tư trong nước.

15.1.2.2

Huy động vốn đầu tư nước ngoài:

Trong các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tập trung thu hút vốn đầu tư
trực tiếp (FDI) vì nó không chỉ tạo vốn để phát triển kinh tế mà còn tạo cơ
hội để trực tiếp đưa kỹ thuật, công nghệ từ bên ngoài vào, giải quyết công
ăn việc làm cho lao động trong nước, tạo ra sản phẩm cho tiêu dùng và cho
xuất khẩu. Cần tập trung vào việc khai thác các khoản viện trợ phát triển
chính thức (ODA), nhưng cần hoàn tất sớm các công việc chuẩn bị để tiếp
nhận nhanh nguồn vốn này. Việc phát hành trái phiếu quốc tế cần cân nhắc
kỹ các điều kiện vay và khả năng trả nợ. Không vay thương mại để đầu tư
cho cơ sở hạ tầng và những công trình không mang lại lợi nhuận.
Luanvan.online

Page 6


www.luanvan.online
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài:
Từ khi Quốc hội ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày
29/12/1987 đến hết ngày 31/12/1999, trên địa bàn cả nước đã có 3.398 dự
án đầu tư được cấp giấy phép với tổng số đăng ký đạt 42.341 triệu $ (kể cả
vốn xin tăng thêm của dự án). Trong đó số dự án còn đang hoạt động là
2.895 dự án với số vốn là 36.566 triệu $ và có 503 dự án đã chấm dứt thời
kỳ hoạt động hoặc bị rút giấy phép với tổng số vốn là 5.775 triệu $. Với việc
tiếp tục chính sách kinh tế mở cửa, khuyến khích, hấp dẫn, tạo cơ sở pháp lý
để hướng dẫn các nhà đầu tư Quốc tế có khả năng huy động vốn đầu tư trực
tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam, ước tính năm 2003, vốn thực hiện khoảng
19 – 21 tỉ $, tăng 12,5% - 13% so với năm 2002. Trong đó vốn nước ngoài

15 – 16 tỉ $ trong tổng số vốn thực hiện. Nguồn vốn FDI ước 6 tháng đầu
năm 2002 theo số đăng ký đạt 346 triệu $, giảm 43% so với cùng kỳ, số
thực hiện đạt khoảng 600 triệu $, giảm 7% so với cùng kỳ.
Nguồn vốn ODA, tài trợ đa phương của các tổ chức tài trợ Quốc tế (IMF,
ADB, WB) cũng có vai trò rất quan trọng. Vốn ODA trong thời kỳ 1991 –
1995 có thể đạt 2 – 2,5 tỉ $. Trong năm 1993 – 1994 hội nghị tài trợ phát
triển cho Việt Nam tại Pari, cộng đồng tài chính Quốc tế đã cam kết dành
cho Việt Nam nguồn tài trợ phát triển chính thức tới 3,8 tỉ $. Ta đã vay từ
IMF khoảng 230 triệu $, với WB và ADB số tiền 740 triệu $, ký hiệp định
vay ODA song phương với Nhật trị giá 52,3 tỉ Yên (tháng 1/1994) với Pháp
trị giá 420 triệu Fr (7/1/1994).
Mục tiêu đặt ra: trong vòng 10 năm chúng ta phải đẩy mạnh huy động từ
6 – 8 tỉ $ từ nguồn ODA và nguồn tài trợ đa phương của các tổ chức Quốc
tế. Nguồn vốn ODA 6 tháng đầu năm 2000 được chính thức hoá bằng các
hiệp định ký kết với các nhà tài trợ đạt 1.068,8 triệu $ (gồm 906 triệu $ vốn
vay và 104,8 triệu $ vốn viện trợ không hoàn lại). Số vốn giải ngân ước đạt
785 triệu $, đạt 46,3 % kế hoạch năm (trong đó vốn vay 655 triệu $, vốn
viện trợ không hoàn lại 130 triệu $)
- Nguồn viện trợ nước ngoài: từ năm 1990 viện trợ của các tổ chức Liên
hiệp quốc cho Việt Nam khoảng 50 – 60 triệu $/năm.
- Bên cạnh các nguồn vốn nói trên, cần phát hành trái phiếu Chính phủ ra
thị trường kinh tế để huy động vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.
Luanvan.online

Page 7


www.luanvan.online
Dự kiến trong 5 năm 1998 – 2002 bình quân mỗi năm huy động 300 –
500 triệu $ thì tổng số huy động vốn có thể đạt 2 – 2,5 tỉ $.

Trong thời gian qua chúng ta đã có chính sách, cơ chế huy động vốn
thích hợp, góp phần tạo điều kiện khai thác những nguồn vốn trong nước và
nước ngoài một cách có hiệu quả. Nhờ đó mà chúng ta đã huy động được
một lượng vốn lớn để bù đắp thiếu hụt NSNN và để đầu tư phát triển kinh
tế, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành quả đạt được thì trong thời gian qua, công tác huy động
vốn của ta còn nhiều hạn chế. Để khắc phục những tồn tại và nâng cao hiệu
quả huy động vốn, cần có những chính sách, giải pháp hữu hiệu, hợp lí hơn.
15.1.3 Giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội đến
năm 2003.
Để tăng cường công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển, phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế cần chú trọng một số giải
pháp sau:
15.1.3.1

Huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân:

Hiện nay, tiềm năng vốn trong nước của ta còn rất lớn. Vấn đề đặt ra là
cần tìm giải pháp để biến tiềm năng thành hiện thực, huy động triệt để vốn
trong nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Huy động vốn qua kênh NSNN
sẽ là điều kiện quan trọng để giải quyết nhu cầu thu chi của Nhà nước về
tiêu dùng thường xuyên, chi đầu tư phát triển kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việc huy động qua kênh NSNN phải dựa vào thuế,
phí, lệ phí; phát huy tiềm năng vốn từ các nguồn tài nguyên quốc gia phải từ
vay nợ... trong đó thu thuế và phí vẫn là nguồn thu quan trọng nhất.
- Huy động vốn qua thuế, phí, lệ phí: để tăng cường hơn nữa hiệu quả huy
động vốn qua thuế, phí, lệ phí cần phải mở rộng diện thu thuế, quy định
mức thuế suất ở mức vừa phải, hợp lí, nhăm thúc đẩy doanh nghiệp, dân
cư mở rộng đầu tư; mở rộng diện thu thuế thu nhập cá nhân, đánh thuế

thu nhập với khoản lợi tức thu từ vốn; chuyển hẳn sang cơ chế đối tượng
nộp thuế tự khai và trực tiếp nộp thuế vào KBNN.
Luanvan.online

Page 8


www.luanvan.online
- Mở rộng phát hành trái phiếu Chính phủ để tạo nguồn vốn cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.
Vay nợ dân tạo nguồn vốn cho đầu tư là hiện tượng bình thường của mọi
Nhà nước. Vay nợ dân tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển có hai điểm lợi:
+ Tăng tiết kiệm xã hội, tạo thói quen tiết kiệm, tiêu dùng hợp lí cho
người dân.
+ Nhà nước có được nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế mà không
phải phát hành tiền, tránh được lạm phát.
Muốn tăng hiệu quả vay nợ dân, cần chú trọng vào những vấn đề sau:
+ Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn như: Tín phiếu, trái phiếu,
phát hành loại trái phiếu vô danh có thể chuyển đổi tự do, trái phiếu công trình
có thể chuyển đổi thành cổ phiếu, đảm bảo việc lấy lãi dễ dàng, nhanh gọn.
+ Đa dạng hoá các thời hạn vay vốn qua trái phiếu, chủ yếu tập trung huy
động vốn bằng các loại trái phiếu trung và dài hạn, hạn chế và đi tới chấm dứt
vay ngắn hạn với lãi suất cao để bù đắp bội chi Ngân sách.
- Bộ Tài chính phát hành trái phiếu; Ngân hàng nhà nước đứng ra tổ chức
đấu thầu mua trái phiếu (đấu thầu cả về lãi suất, khối lượng mua và thời
hạn), xác định mức lãi suất vay vốn hợp lý, đảm bảo có lợi cho cả chủ sở
hữu lẫn người vay vốn.
Xúc tiến nhanh việc phát triển thị trường chứng khoán.
Việc hoàn thiện thị trường vốn và đặc biệt là phát triển thị trường chứng
khoán sẽ tạo điều kiện cho các giao dịch về chứng khoán và chuyển đổi từ

chứng khoán sang tiền mặt được nhanh gọn và thuận tiện.
Huy động vốn qua các tổ chức Tài chính – Tín dụng.
Trong những năm trước mắt và cả về lâu dài, các tổ chức Tài chính – Tín
dụng vẫn là trung gian vốn lớn nhất trong nền kinh tế, bởi vậy phải coi trọng
và tăng cường hiệu quả huy động vốn qua các tổ chức này. Các giải pháp đó
là:
- Mở rộng hình thức tiết kiệm qua bưu điện, tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân có thể gửi tiền tiết kiệm bất kỳ lúc nào, ở đâu với số tiền nhiều
hay ít.
Luanvan.online

Page 9


www.luanvan.online
- Mở rộng các hình thức huy động vốn tiết kiệm như: tiết kiệm xây dựng
nhà ở, tiết kiệm tuổi già, tín dụng tiêu dùng.
- Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập các quỹ đầu
tư, các Công ty bảo hiểm, Công ty Tài chính,... để thu hút có hiệu quả
các nguồn vốn, phát triển mạnh mẽ hơn nữa hệ thống các Ngân hàng, các
tổ chức Tài chính, các quỹ tín dụng nhân dân.
- Cho phép phát hành kỳ phiếu thu ngoại tệ; phát hành kỳ phiếu, trái phiếu
để huy động vốn ngắn hạn và trung hạn.
- Có chính sách lãi suất hợp lý, khuyến khích và có biện pháp bắt buộc các
tổ chức tín dụng phải có cơ cấu dư nợ hợp lý giữa dư nợ cho vay ngắn
hạn và dư nợ cho vay dài hạn, trung hạn, nhằm tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp huy động vốn cho đầu tư chiều sâu, mở rộng quá trình kinh
doanh.
Thúc đẩy các doanh nghiệp tự đầu tư,
khai thác triệt để các nguồn vốn trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế

– chính trị – xã hội tự bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất
- Kích thích, khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế – chính
trị – xã hội tự bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất.
+ Khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao khả năng tích tụ và tập trung
vốn, mở rộng vốn từ kết quả sản xuất kinh doanh của mình.
+ Khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng vốn hiện có trong
doanh nghiệp, cho phép các doanh nghiệp sử dụng linh hoạt các nguồn
vốn, các loại quỹ, phục vụ kịp thời yêu cầu sản xuất kinh doanh. Nhà
nước cần xây dựng cơ chế bảo toàn vốn.
- Khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự huy động vốn từ
dân cư, các tổ chức tín dụng, các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để
đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh.
+ Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết, hợp đồng, hợp tác kinh
doanh với các đối tác trong nước và nước ngoài.
+ Từng bước mở rộng cổ phần hoá, đa dạng hoá các hình thức sở hữu đối
với các doanh nghiệp Nhà nước. Cho phép các doanh nghiệp được phát
Luanvan.online

Page 10


www.luanvan.online
hành cổ phiếu, trái phiếu theo quy định của chính phủ để tìm kiếm và
huy động vốn của cá nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Khai thác triệt để tiềm năng vốn trong dân cư
kích thích người dân tự bỏ vốn đầu tư cho Nhà nước, các tổ chức kinh tế
vay để tạo nguồn vốn đầu tư. Thực hành tiết kiệm trong toàn xã hội, khuyến
khích và có chính sách hướng dẫn tiêu dùng hợp lý. Tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi cho người dân bỏ vốn đầu tư.
Huy động vốn ngoài nước

Việc huy động vốn nước ngoài trong những năm trước mắt vẫn được coi
là biện pháp quan trọng và liên quan đến chính sách đối ngoại, quan hệ kinh
tế, chính trị giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế để thu hút
được khoảng 20 – 25 tỉ từ nước ngoài cho đến năm 2003. Chúng ta có thể áp
dụng các hình thức sau:
Thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu
tư nước ngoài.
Về nguyên tắc, để thu hút được đồng vốn đầu tư này, trước hết phải chứng
minh được nền kinh tế nội địa là nơi an toàn cho sự vận động của đồng vốn
và sau nữa là nơi có năng lực sinh lợi cao hơn những nơi khác, đó là điều
kiện cần và đủ để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy cần phải thực hiện
các giải pháp sau:
- Tạo lập môi trường kinh tế – xã hội ổn định và thuận lợi cho sự thâm
nhập và vận động của dòng vốn đầu tư nước ngoài. Để đảm bảo tạo lập
và duy trì môi trường kinh tế ổn định, đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn
đề cả về thể chế chính trị, môi trường pháp luật cũng như cách vận hành
quản lý nền kinh tế, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần phải:
+ Kiềm chế có hiệu quả nạn lạm phát, giữ tỉ lệ lạm phát ở mức hợp lý,
vừa đảm bảo sự ổn định kinh tế vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
+ Nhà nước đảm bảo tạo lập một môi trường kinh doanh thuận lợi, bình
đẳng cho mọi thành phần kinh tế.

Luanvan.online

Page 11


www.luanvan.online
+ Đẩy mạnh hơn nữa và thực hiện triệt để công cuộc cải cách về thủ tục
hành chính, cải thiện môi trường pháp lý cho sự vận động của các dòng

vốn nước ngoài.
- Duy trì và tăng cường khả năng sinh lợi lâu bền của nền kinh tế quốc
dân.
- Xem xét các hình thức ưu đãi đầu tư, có quy hoạch cụ thể, chi tiết các
ngành, các lĩnh vực, các dự án ưu tiên đầu tư.
Khai thông, mở rộng và hấp thu triệt để các nguồn vốn đầu tư gián tiếp
từ nước ngoài
- Tìm kiếm, khai thác triệt để các nguồn viện trợ không hoàn lại, viện trợ
nhân đạo, viện trợ phát triển chính thức và vay nợ.
+ Tranh thủ vốn vay ưu đãi theo thể thức ODA vì thời hạn vay tương đối
dài, lãi suất thấp, chủ động lập, thẩm định chặt chẽ các dự án cần gọi vốn
ODA, giải quyết tốt công tác giải ngân nguồn vốn vay đã ký.
+ Khai thác nguồn vay, tài trợ đa phương từ các tổ chức quốc tế (IMF,
WB, ADB), cố gắng thống nhất với các nước, tổ chức quốc tế trong thời
gian sớm nhất các văn bản khung về vay vốn trong giai đoạn 2001 –
2010 để có dự kiến bố trí sử dụng vốn và rút vốn.
+ Bên cạnh việc xúc tiến sử dụng vay nợ, cần đẩy mạnh việc quản lý nợ
quá hạn qua đàm phán giãn nợ, thí điểm và mở rộng diện chuyển đổi,
mua bán nợ.
- Phát hành trái phiếu quốc tế ra nước ngoài để thu hút vốn, phải được tính
toán kỹ lưỡng, vì lãi suất cao và vì những khoản này đòi hỏi đầu tư phải
thu lợi nhuận ngay, hoặc thu lãi cao mới có khả năng trả được nợ.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, cần phải coi trọng cả hai nguồn vốn
trong nước và nước ngoài. Trong đó nguồn vốn trong nước giữ vai trò quan
trọng. Việc huy động vốn trong và ngoài nước phải được nhìn nhận theo
một quy trình khép kín trên cả ba phương diện: huy động, sử dụng và quản
lý. Đồng thời bảo đảm thông suốt trên cả ba giai đoạn: tích luỹ – huy động đầu tư, nhằm đạt tốc độ luân chuyển và hiệu quả cao nhất. Có như vậy nước
ta mới tránh được tình trạng khủng hoảng nợ và đảm bảo cho nền kinh tế –
xã hội phát triển lành mạnh và bền vững.
Luanvan.online


Page 12


www.luanvan.online
SỰ CẦN THIẾT CỦA CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN THÔNG QUA PHÁT
HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ

15.1.4 Khái niệm và đặc điểm của tín dụng Nhà nước.
Tín dụng Nhà nước là hình thức tín dụng do cơ quan Tài chính thực hiện
Trong hình thức này, Nhà nước là người trực tiếp vay vốn ở trong nước,
ngoài nước để giải quyết các nhu cầu chi của NSNN đồng thời Nhà nước
cũng là người cho vay.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng Nhà nước là việc huy động vốn và sử
dụng vốn đã huy động được thường có sự kết hợp giữa các nguyên tắc tín
dụng và chính sách về tài chính. Do vậy tín dụng Nhà nước khác với tín
dụng thương mại và tín dụng Ngân hàng. Cụ thể: Tín dụng Nhà nước là
quan hệ vay mượn giữa một bên là Nhà nước, một bên là các tầng lớp dân
cư, các tầng lớp kinh tế – xã hội trong và ngoài nước..., còn tín dụng
Thương mại là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn giữa các doanh nghiệp với
nhau và tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các
doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư.
- Do Nhà nước là một chủ thể mạnh về chính trị, kinh tế... nên phạm vi
huy động vốn của tín dụng Nhà nước rất rộng, vừa huy động vốn ngoài
nước, vừa huy động vốn trong nước như: phát hành trái phiếu Chính phủ,
huy động tiền nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư và vay nước ngoài hay
các tổ chức quốc tế.
- Đối tượng huy động vốn của tín dụng Nhà nước cũng phong phú đa dạng
hơn các quan hệ tín dụng khác. Nếu như trong tín dụng Thương mại, đối
tượng vay vốn chủ yếu là hàng hoá còn tín dụng Ngân hàng chủ yếu là

tiền thì tín dụng Nhà nước đối tượng huy động vốn bao gồm cả hàng hoá
và tiền tệ.
- Nhà nước là chủ thể mạnh về mọi mặt nên khác với tín dụng Thương
mại và tín dụng Ngân hàng, việc huy động vốn dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, nhưng nhiều khi còn mang tính cưỡng chế, bắt buộc, nhằm đảm
bảo cho Nhà nước tập trung nhanh, đầy đủ nguồn vốn để đảm bảo cho
các nhu cầu chi trả của Nhà nước được kịp thời.

Luanvan.online

Page 13


www.luanvan.online
- Thời hạn huy động vốn và sử dụng vốn trong tín dụng Nhà nước cũng đa
dạng và phong phú hơn gồm: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
15.1.5 Sự cần thiết của công tác huy động vốn thông qua phát hành trái
phiếu Chính phủ
Ở bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, các nguồn thu của NSNN nhiều
khi không đảm bảo thoả mãn nhu cầu chi tiêu để phát triển kinh tế, văn hoá,
y tế, giáo dục, quản lý Nhà nước, giữ vững an ninh, củng cố quốc phòng,...
vì vậy, Nhà nước phải thực hiện vay vốn từ các thành phần kinh tế, các tầng
lớp dân cư trong nước và vay nươc ngoài để bù đắp sự thiếu hụt đó. Đa số
các nước trên thế giới, các nguồn thu mà Tài chính huy động được dưới
hình thức thu NSNN như: thuế, lệ phí không đủ để đầu tư phát triển kinh tế
nên đòi hỏi phải có nguồn Tài chính bổ sung. Một trong những nguồn đó là
khoản Nhà nước vay dân, đây chính là nguồn tiền nhàn rỗi trong các tầng
lớp dân cư thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Nhà nước sử dụng
nguồn vốn này để đầu tư cho nền kinh tế, tạo ra khả năng nguồn thu cho
NSNN.

Ở Việt Nam, do tình hình Tài chính – Ngân sách luôn ở trong tình trạng
mất cân đối và không ổn định, đây là nguyên nhân và hậu quả của nền kinh
tế chưa phát triển. Trong khi Nhà nước không đủ vốn cung ứng cho nền
kinh tế, thì trong xã hội vẫn còn đọng vốn và sử dụng vốn lãng phí, kém
hiệu quả. Vốn NSNN cấp ra với tính chất không hoàn lại đã bị trải rộng quá
nhiều, nhu cầu của nền kinh tế luôn thiếu so với nhu cầu ngày càng tăng
mang tính bao cấp, kém hiệu quả kinh tế. Sang nền kinh tế thị trường, nền
kinh tế đòi hỏi một lượng vốn lớn mà nguồn thu của NSNN ta chủ yếu là từ
thuế, chiếm 23% GDP nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu chi tiêu của
ngân sách. Trong khi đó nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư rất lớn. Do vậy,
để khai thác được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư nhất thiết phải
tăng cường phát hành trái phiếu Chính phủ qua hệ thống KBNN. Việc huy
động vốn nhàn rỗi trong nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với đất
nước ta trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể:
- Thứ nhất: huy động vốn trong nước góp phần bù đắp thiếu hụt NSNN.
Đất nước ta bước sang một thời kỳ mới, nền kinh tế chuyển sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhu cầu chi của NSNN ngày càng
Luanvan.online

Page 14


www.luanvan.online
cao, trong khi đó nguồn thu của chúng ta còn hạn chế, chủ yếu là từ thuế,
thiếu hụt ngân sách là tình trạng luôn xảy ra. Trong thời gian qua, nền Tài
chính quốc gia đã có phần cải thiện và bắt đầu đi vào ổn định, tỷ lệ lạm phát
hạ thấp, giá cả ổn định. Song trong điều kiện bội chi ngân sách vẫn còn, lạm
phát luôn là căn bệnh có thể bùng nổ bất kỳ lúc nào, vì vậy việc huy động
vốn nhàn rỗi trong nước có ý nghĩa sống còn đối với nên Tài chính quốc gia.
Khai thác nguồn vốn nhàn rỗi trong nước trước hết nhằm mục đích chi trả

cho NSNN một cách kịp thời, đảm bảo sự ổn định trước mắt của nền Tài
chính quốc gia, hơn nữa còn góp phần hạn chế việc phát hành tiền chi tiêu
cho NSNN vì việc này là một trong những nguyên nhân gây ra sự rối loạn
lưu thông tiền tệ, kích thích tốc độ lạm phát tăng nhanh. Vì vậy, huy động
vốn nhàn rỗi trong nước vừa có tác dụng bù đắp sự thiếu hụt NSNN, vừa
góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Huy
động vốn nhàn rỗi trong nước giúp ngân sách giảm dần sự thiếu hụt bằng
chính sách tăng trưởng kinh tế là một xu hướng đang được áp dụng rộng rãi
trên toàn thế giới.
- Thứ hai: huy động vốn nhàn rỗi trong nước góp phần cho đầu tư phát
triển kinh tế.
Trong điều kiện nước ta cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, lạc hậu,
cơ sở hạ tầng thấp kém, chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế nhất
là việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn chưa đạt được hiệu quả cao. Vì
vậy cần tăng cường huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nước để đầu tư cho
các côngtrình trọng điểm – then chốt, các công trình cơ sở hạ tầng huyết
mạch của nền kinh tế. Nhờ các khoản đầu tư này của Nhà nước mà bộ mặt
nền kinh tế đất nước sẽ thay đổi nhanh chóng, tạo điều kiện tiền đề cho các
doanh nghiệp, cá nhân có vốn đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, tăng
năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật.
- Thứ ba: thông qua huy động vốn nhàn rỗi trong nước, góp phần thúc đẩy
sự phát triển của thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
Việc phát triển thị trường vốn có ý nghĩa rất quan trọng, trước hết nó là
cơ chế giúp cho việc chuyển các nguồn vốn của các tác nhân kinh tế từ nơi
thừa sang nơi thiếu một cách dễ dàng, thuận tiện, thúc đẩy thực hiện chính
sách huy động vốn trong và ngoài nước. Ngược lại, huy động vốn cho phát
triển kinh tế là điều kiện để thúc đẩy nhanh sự phát triển của thị trường
chứng khoán.
Luanvan.online


Page 15


www.luanvan.online
Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu tạo vốn
hàng hoá cho thị trường vốn, thị trường tài chính. Theo nguyên lý thì hàng
hoá chủ yếu trên thị trường chứng khoán phải là cổ phiếu nhưng đối với
chúng ta, trái phiếu Chính phủ đặc biệt là trái phiếu kho bạc lại có tầm quan
trọng với vị trí ngày càng nổi bật. Từ chỗ chưa cho phép chuyển nhượng,
đến nay, trái phiếu Kho bạc đã được đấu thầu ở Ngân hàng Nhà nước và
không chỉ trở thành công cụ vay vốn của Nhà nước mà còn là công cụ của
chính sách Tài chính – Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường, đồng thời là
công cụ đầu tiên của nghiệp vụ kinh doanh thị trường mở của Ngân hàng.
Đây chính là “hàng hoá” chủ yếu khi thị trường vốn, thị trường chứng
khoán hoạt động công khai và mở rộng ở Việt Nam.
Bộ Tài chính cùng với Ngân hàng Nhà nước, các bộ, ngành có liên quan
nghiên cứu chuẩn bị điều kiện, các yếu tố cần thiết cho sự phát triển của thị
trường chứng khoán.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn chưa phát triển, trái phiếu, cổ
phiếu doanh nghiệp chưa phong phú, vì vậy trước mắt trái phiếu Chính phủ
phải đóng vai trò là “hàng hoá” chủ yếu trên thị trường, là những hàng hoá
đầu tiên cho thị trường chứng khoán hoạt động ở Việt Nam. Việc đẩy mạnh
côngtác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ là hết sức
cần thiết. Chúng ta cần tăng cường đa dạng hoá các loại trái phiếu Chính
phủ để bù đắp thiếu hụt NSNN, đầu tư phát triển kinh tế, kiềm chế lạm phát,
điều hoà vốn lưu thông tiền tệ và làm cơ sở cho việc phát triển thị trường
vốn, thị trường chứng khoán ở nước ta.

Luanvan.online


Page 16


www.luanvan.online
16 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN
THÔNG QUA PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ Ở KBNN
HÀ TÂY
KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HÀ TÂY

16.1.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tây
Tỉnh Hà Tây thuộc vùng châu thổ sông Hồng, có diện tích là 2.148 km 2.
Phía Đông giáp với tỉnh Hưng Yên và thành phố Hà Nội. Phía Nam giáp với
tỉnh Hà Nam, phía Tây giáp với tỉnh Hoà Bình và phía Bắc giáp với tỉnh
Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Địa hình khá đa dạng, vùng đồi núi phía Tây có
diện tích 704 km2 và vùng đồng bằng phía Đông có diện tích 1.444 km 2, độ
cao nghiêng dần theo hướng Đông Bắc - Đông Nam. Do đặc điểm địa hình
khác nhau nên hình thành nên các vùng tiểu khí hậu khác nhau và cũng gây
ảnh hưởng không ít đến việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Hà Tây là một tỉnh đông dân cư (đứng thứ 5 toàn quốc). Theo số liệu
điều tra tháng 4/2001, số dân là 2.886.770 người. Mật độ dân số là 1.111
người/km2. Dân tộc Kinh chiếm khoảng 99% dân số, dân tộc Mường chiếm
khoảng 0.8% dân số. Dân tộc Dao chiếm khoảng 0.2% dân số.
Hà Tây có nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ thú được nhiều khách du lịch
tìm đến như: Đồng Mô, suối Hai, Suối Tiên, Ao Vua,...đặc biệt là thắng
cảnh sông suối, hang động ở chùa Hương Tích đã trở thành điểm du lịch thu
hút khách thập phương đến trẩy hội. Nơi đây được coi là “Nam Thiên đệ
nhất động”. Hệ thống đình chùa, miếu mạo như: Chùa Thầy ở Quốc Oai là
nơi tu hành của cao tăng Từ Đạo Hạnh, Chùa Tây Phương ở Thạch Thất với
kiến trúc độc đáo nổi tiếng với Thập bát Vi La Hán đẹp hiếm thấy; tiếp đến

là chùa Đậu, chùa Bối Khê, chùa Trăm Gian, thành cổ Sơn Tây,...
16.1.1.1

Về lĩnh vực kinh tế:

Về tài nguyên đất: Vùng đồng bằng gồm đất phù sa được bồi trên 17.000
ha, đất phù sa không được bồi 5.000 ha, đất phù sa gley 51.500 ha. Vùng
đồi núi có đất vàng trên phù sa cổ 20.600 ha. Nhìn chung đất Hà Tây có độ

Luanvan.online

Page 17


www.luanvan.online
phì cao, có nhiều loại địa hình nên có thể bố trí được nhiều loại cây trồng,
vật nuôi.
Do có vùng đồi gò nên Hà Tây có điều kiện xây dựng các khu công
nghiệp tập trung và các cơ sở hạ tầng khác.
Về tài nguyên khoáng sản: Có đá vôi ở Chương Mỹ, Mỹ Đức; đá granit ốp
lát ở Chương Mỹ; cao lanh ở Ba Vì, Quốc Oai; đồng, pirit, nước khoáng ở
Ba Vì,...
Về tài nguyên rừng: Rừng ở Hà Tây tuy không lớn nhưng rừng tự nhiên,
có rất nhiều chủng loại động thực vật phong phú, đa dạng và quý hiếm.
Về con người: Hà Tây có nguồn nhân lực dồi dào, có kỹ thuật, trình độ văn
hoá,... Cụ thể: có lực lượng lao động trên 1,5 triệu người.
Về cơ sở hạ tầng: Có mạng lưới giao thông thuỷ bộ phát triển khá mạnh,
thuận lợi cho giao lưu trong và ngoài tỉnh.
Trong thời gian qua, nền kinh tế của tỉnh đã vượt qua nhiều khó khăn, có
những chuyển biến tiến bộ. Nhịp độ tăng trưởng GDP là 7,46% so với năm

2001, GDP bình quân đầu người là 3 triệu đồng, đạt 102,4% so với mục
tiêu. Giá trị ngành nông, lâm nghiệp tăng 4,5% so với năm 2001. Sản lượng
cây lương thực quy thóc đạt 1 triệu tấn. Diện tích gieo trồng vụ đông đạt tỉ
lệ 60% (trên đất lúa + màu). Giá trị tổng sản lượng công nghiệp – tiểu thủ
công nghiệp trên địa bàn đạt 104,35% so với kế hoạch, tăng 12% so với
năm 2001. Giá trị thương mại tăng 12%; dịch vụ du lịch tăng 17% so với
năm 2001. Giá trị xuất khẩu trên địa bàn đạt 50 triệu $, tăng 11% so với
năm 2001, trong đó của khu vực Nhà nước đạt 28 triệu $. Tỉ lệ hộ nghèo
giảm 1,5% so với năm 2001 và tiếp tục thực hiện chương trình xoá nhà quá
dột nát trong năm 2003. Giải quyết thêm 2,5 vạn người lao động có việc
làm; 2,1 vạn người lao động được dậy nghề và đi xây dựng nền kinh tế mới.
Tổng thu NSNN 487 tỉ đồng; tổng chi NSĐP 548 tỉ đồng trong đó tăng quỹ
dự trữ tài chính 10 tỉ đồng.
Kết quả huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển đạt khá, riêng vốn
đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn ước đạt 358 tỉ đồng. Nguồn vốn huy
động trên địa bàn năm 2002 là 862 tỉ đồng, tăng 28% so với năm 2001,
trong đó chủ yếu tiền gửi tiết kiệm chiếm 62,87% tổng số vốn huy động;
phát hành trái phiếu 27%
Luanvan.online

Page 18


www.luanvan.online
16.1.1.2

Về lĩnh vực văn hoá - xã hội:

Cùng với những kết quả về phát triển kinh tế, lĩnh vực văn hoá xã hội đã
cơ bản ngăn chặn được sự xuống cấp và có những tiến bộ rõ rệt, đời sống

nhân dân được cải thiện từng bước.
Quy mô giáo dục - đào tạo được mở rộng phát triển, chất lượng giáo dục
tiếp tục được nâng lên, cơ sở vật chất dạy và học được bổ sung thêm. Cụ thể
đến hết năm 2002 có 15% số trường tiểu học được công nhận là trường
chuẩn quốc gia.
Các hoạt động văn hoá, thông tin diễn ra sôi nổi với nhiều hình thức
phong phú, đa dạng. Tổ chức các hoạt động sưu tầm, nghiên cứu về văn hoá
phi vật thể, về nếp sống văn hoá của đồng bào các dân tộc. Hoạt động thể
dục thể thao tiếp tục được mở rộng và mang tính quần chúng rộng rãi. Các
chương trình quốc gia về phòng chống các dịch bệnh xã hội, chăm sóc sức
khoẻ nhân dân được triển khai tích cực, công tác truyền thông dân số, kế
hoạch hoá gia đình được đẩy mạnh. Cụ thể: năm 2002 giảm tỉ lệ sinh 0,6%,
giảm tỉ lệ sinh từ 3 con trở lên, giảm tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh
dưỡng, góp phần giảm tỉ lệ phát triển dân số xuống 1,5%. Năm 2002, 65%
số hộ được công nhận là gia đình văn hoá; 15% số làng, khu phố đạt tiêu
chuẩn làng văn hoá, khu phố văn minh.
Các chương trình giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo được triển
khai đồng bộ và tích cực hơn. Chương trình 120 giải quyết việc làm đã xét
duyệt cho vay được 5.225 hộ, tạo việc làm cho gần 2.000 lao động. Ngân
hàng phục vụ người nghèo đạt doanh số cho vay cả năm là 12 tỉ đồng với
gần 11 nghìn lượt hộ, tỉ lệ hộ đói nghèo giảm xuống còn 8,5%. Các dự án cơ
sở hạ tầng thuộc chương trình 135 của các xã đặc biệt khó khăn được bàn
bạc dân chủ, công khai. Phần lớn các dự án đã được khởi công xây dựng
bằng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước kết hợp với sức dân. Công tác phòng
chống tệ nạn xã hội được tiến hành thường xuyên, liên tục gắn với cuộc vận
động toàn dân xây dựng cuộc sống mới, xây dựng làng văn hoá, gia đình
văn hoá.
Trong năm 2002, bên cạnh những kết quả đã đạt được cũng bộc lộ một
số yếu kém và khuyết điểm, nổi bật là:


Luanvan.online

Page 19


www.luanvan.online
- Về kinh tế: Tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh còn thấp, còn nhiều yếu tố
mất cân đối, chưa ổn định về phát triển. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội
chưa đáp ứng nhu cầu phát triển, máy móc, công nghệ và trình độ quản
lý còn nhiều tồn tại. Kinh tế ở Hà Tây nông nghiệp vẫn là chủ yếu,
nguồn thu cho ngân sách còn nhiều khó khăn. Chất lượng nguồn nhân
lực chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, đầu tư
cho sản xuất kinh doanh còn hạn chế. Đời sống của nhân dân còn nhiều
khó khăn, nhất là ở những vùng núi cao. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế
còn thấp, ngân sách địa phương còn mất cân đối giữa thu và chi. Nguồn
thu chưa ổn định, chưa tạo được nguồn thu lớn từ sản xuất.
- Về xã hội: Tình hình xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc, số lao động chưa
có việc làm ở thị xã, thị trấn và nông thôn còn nhiều. Chưa tạo được
nhiều cơ sở sản xuất để thu hút lao động. Chất lượng giáo dục đào tạo
chưa cao, cơ sở vật chất dạy và học còn thiếu, chất lượng dạy và học còn
hạn chế. Đời sống của một bộ phận dân cư, đặc biệt là vùng cao vẫn còn
nhiều khó khăn.
16.1.2Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn ở KBNN Hà Tây.
Năm 1990, cùng với cả nước, KBNN Hà Sơn Bình được thành lập theo
quyết định số 07 – HĐBT ban hành ngày 4/01/1990 về việc thành lậphệ thống
KBNN. KBNN Hà Tây được chính thức thành lập và đi sâu vào hoạt động từ
tháng 08/1991 trên cơ sở tách từ KBNN Hà Sơn Bình với chức năng quản lý
quỹ NSNN và cho đầu tư phát triển, đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán, chi
trả của NSNN.
Trong những năm qua, KBNN Hà tây đã huy động được một lượng vốn lớn

cho NSNN bằng biện pháp và hình thức khác nhau (huy động qua thuế và
phát hành trái phiếu Chính phủ). Tuy nhiên, việc huy động vốn ở KBNN Hà
Tây cũng gặp không ít khó khăn. Do vậy, để huy động tối đa, có hiệu quả
nhất mọi nguồn vốn cho NSNN qua KBNN Hà Tây đòi hỏi phải xem xét đến
những nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn ở KBNN Hà Tây, đó là:
- Một là: Nhân tố kinh tế: từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị
trường, kinh tế tỉnh Hà Tây đã tăng trưởng rõ rệt, nhất là lĩnh vực phát
triển du lịch, dịch vụ. Tuy nhiên, nền kinh tế của tỉnh vẫn mất cân đối,

Luanvan.online

Page 20


www.luanvan.online
lạc hậu, nguồn thu từ nội bộ còn thấp, ảnh hưởng rất lớn đến việc huy
động vốn qua KBNN Hà Tây.
- Hai là: Nhân tố về thu nhập: thu nhập bình quân đầu người trong tỉnh
thấp, tỷ lệ hộ đói nghèo còn 8,5%. Tích luỹ trong dân cư chưa lớn, chưa
đồng đều mà chỉ tập trung vào một số hộ, một số doanh nghiệp tư nhân.
Trình độ dân trí thấp nên việc phát hành trái phiếu Chính phủ của kho
bạc để thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư chưa đạt hiệu quả cao.
- Ba là: Nhân tố lãi suất: đây là nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới việc huy
động vốn. Người dân mua trái phiếu Chính phủ trước tiên phải xem xét
yếu tố lãi suất vì cho Nhà nước vay cũng là đầu tư gián tiếp, mà đầu tư
phải sinh lợi, ít nhất là sinh lợi đó phải bằng lợi tức bình quân của các
ngành kinh tế đạt được sau khi bảo toàn đồng vốn. Song lãi suất Chính
phủ chưa hấp dẫn được người dân trong khi người dân có thói quen gửi
tiết kiệm vì lãi suất Ngân hàng cao hơn, linh hoạt, dễ rút vốn hơn.
Thực tế ở KBNN Hà Tây có nhiều đợt do lãi suất Ngân hàng cao hơn

nên dân đã rút tiền ra chịu không hưởng lãi để quay sang gửi tiết kiệm Ngân
hàng. Hiện nay, lãi suất trái phiếu Chính phủ đã phần nào hấp dẫn được dân
chúng, do vậy việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu Chính phủ ở
KBNN Hà Tây đã tăng lên đáng kể.
- Bốn là: Nhân tố về lạm phát: do tình hình lạm phát còn lớn, đồng tiền
vẫn bị mất giá, do vậy rủi ro là không tránh khỏi. Dù lãi suất cao nhưng
tiền mất giá thì lãi suất không bù được vốn gốc, người dân mua trái
phiếu kho bạc phải chịu lãi suất âm. Đó là lý do khiến người dân không
dám mạo hiểm bỏ tiền vào mua trái phiếu Chính phủ. Do đó, lạm phát
cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới việc huy động vốn tại KBNN Hà Tây.
- Năm là: Nhân tố thông tin, tuyên truyền: do thông tin tuyên truyền còn
hạn chế, chưa tổ chức được mạng lưới tuyên truyền rộng rãi trên địa bàn
tỉnh, chưa có hoạt động Marketing chuyên sâu nên người dân chưa quen
với trái phiếu Chính phủ, vì vậy họ chưa yên tâm mua trái phiếu Chính
phủ. Tập quán cho Nhà nước vay dài hạn chưa hình thành vững chắc
trong dân cư nên họ chưa tin vào tương lai của việc mua trái phiếu.
- Sáu là: Nhân tố về tổ chức công tác huy động vốn: Hày Tây là tỉnh có
tiềm năng lớn về du lịch, dịch vụ nên việc tổ chức tốt công tác phát hành
Luanvan.online

Page 21


www.luanvan.online
trái phiếu Chính phủ tại các địa bàn như thế nào cũng là yếu tố quan
trọng, có ảnh hưởng lớn đến việc huy động vốn.
Trên đây là sáu nhân tố cơ bản có ảnh hưởng đến công tác huy động vốn
ở KBNN Hà Tây. KBNN Hà Tây đóng một vai trò quan trọng trong việc
huy động vốn, phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế, khắc phục những
nhân tố tiêu cực để huy động tối đa mọi nguồn vốn cho NSNN trong địa bàn

tỉnh. Hoàn thành tốt kế hoạch huy động vốn mà KBNN TƯ giao cho, góp
phần bù đắp thiếu hụt NSNN và để cho đầu tư phát triển kinh tế.
16.1.3Vai trò của KBNN Hà Tây trong công tác huy động vốn thông qua
phát hành trái phiếu Chính phủ:
Để tìm hiểu vai trò của KBNN Hà Tây trong công tác huy động vốn,
trước hết xin sơ qua vài nét về KBNN Hà Tây.
16.1.3.1

Vài nét về KBNN Hà Tây.

Ra đời năm 1991, về nguyên tắc, KBNN Hà Tây là một tổ chức quản lý
quỹ ngân sách của Nhà nước, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng. Về
mặt tổ chức và nghiệp vụ tuân thủ theo sự thống nhất trong toàn hệ thống,
theo sự chỉ đạo của KBNN TƯ. Hà Tây có 13 huyện trực thuộc chị trách
nhiệm quản lý quỹ ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh và các quỹ tài
chính của Tỉnh.
Trong những năm qua, KBNN Hà Tây đã không ngừng củng cố, ổn định
và phát triển về tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ và hoạt động. Trong
bối cảnh nền kinh tế đang có nhiều đổi mới về cơ chế quản lý, tình hình
kinh tế xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các doanh nghiệp đã trải
qua giai đoạn thử nghiệm trong cơ chế thị trường, đã đi sâu vào cơ chế ổn
định và phát triển, hiện đang tiến hành cổ phần hoá. KBNN Hà Tây đã góp
phần không nhỏ trong quá trình quản lý, xây dựng và phát triển nền kinh tế
của tỉnh.

Luanvan.online

Page 22



www.luanvan.online
SƠ ĐỒ CỤ THỂ VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA KBNN HÀ TÂY

Phũng
Vi tính

Ban Lónh đạo

Lónhbộ
đạomáy, không ngừng nâng cao
KBNN Hà Tây đã hoàn thiện cơ cấuBan
tổ
chức
KBNNHà
HàTây
Tây
KBNN
trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm đối với công việc của mỗi cá nhân,
mỗi phòng. Đồng thời giúp cho công tác quản lý quỹ ngân sách được chặt
chẽ hơn, chất lượng hơn, công tác kiểm tra giám sát của lãnh đạo cần cụ thể,
Phũng quan
Phũng
Phũng
Phũng
Phũng
Phũng
Phũng
sâu sát,Phũng
khách
hơn. ViệcPhũng

bố trí như
vậy còn tạo
điều kiện
thuận lợi
cho
Phũng
Phũng
Phũng
Phũng
Phũng
Kếtrong quan
Hànhhệ giaoTổ
Tổ
Thanh
Kế
Đầutưtư
Kho
khách hàng
dịch. Thanh
Kế
Hành
Kế
Đầu
Kho
toỏn
toỏn

chớnh
chớnh


chức
chức

tra
tra

hoạch
hoạch

XDCB
XDCB

quỹ
quỹ

Với bộ máy gồm 321 cán bộ, trong đó có 175 cán bộ đạt trình độ đại học
(chiếm 56%). Qua 12 năm hoạt động đã có những đóng góp tích cực, góp
phần ổn định tình hình kinh tế – xã hội, giữ nhịp độ tăng trưởng khá. Những
thành tựu mà KBNN Hà Tây đã đạt được là: Các đơn vị trong toàn hệ thống
kho bạc của tỉnh đã thực hiện tốt công tác thu NSNN, chi tiền mặt và ngân
Chinhỏnh
nhỏnhKBNN
Chi
phiếu thanh toán trên địa bàn, đồng
thời
thựcKBNN
hiện tốt công tác kiểm soát chi
cỏc
huyện
huyện

NSNN qua KBNN; làm tốt công táccỏc
phát
hành trái phiếu kho bạc và công
trái xây dựng tổ quốc. Góp phần thực hiện tốt chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước trên địa bàn tỉnh, cụ thể:
- Tổng số thu NSNN trên địa bàn năm 2002 là 487 tỉ đồng.
Luanvan.online

Page 23


www.luanvan.online
- Tổng số chi ngân sách trên địa bàn năm 2002 là 548 tỉ đồng.
- Công tác huy động vốn: thông qua phát hành trái phiếu, KBNN Hà Tây
đã huy động trong năm 2002 là: 156 tỉ đồng.
-

KBNN Hà Tây trong những năm qua luôn đạt thành tích cao, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, liên tục được các cấp khen thưởng
như: Chính phủ, Bộ Tài chính, KBNN TƯ, UBND tỉnh, Bộ Văn hoá
Thông tin, Chủ tịch nước.

16.1.3.2

Vai trò của KBNN Hà Tây trong công tác huy động vốn thông

qua phát hành trái phiếu Chính phủ
Cũng như các kho bạc khác, KBNN Hà Tây có chức năng quản lý quỹ
NSNN, tập trung các nguồn thu, cấp phát, chi trả các khoản chi NSNN. Bên
cạnh đó, KBNN Hà Tây còn có vai trò quan trọng trong công tác huy động

vốn để bù đắp thiếu hụt NSNN và để đầu tư phát triển kinh tế. Điều đó thể
hiện ở những điểm sau:
- KBNN Hà Tây nghiên cứu và áp dụng chính sách vay dân có hiệu quả
thông qua việc phát hành tín phiếu, trái phiếu Chính phủ, các chứng chỉ
vay nợ khác của Chính phủ mà KBNN TƯ giao cho.
- KBNN Hà Tây tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ, tập trung vốn
cho NSNN, đồng thời thanh toán trả nợ gốc và lãi đến hạn.
- Tổ chức quản lý và bảo quản trái phiếu Chính phủ mà KBNN Hà Tây
phát hành trên địa bàn
- Công tác huy động vốn ở KBNN Hà Tây gắn liền với việc thực hiện
chính sách Tài chính – Tiền tệ, tổ chức điều hoà tiền mặt, kiểm soát các
hoạt động mua bán tín phiếu và trái phiếu KBNN để góp phần kiềm chế
lạm phát, ổn định lưu thông tiền tệ.
- Tổ chức hạch toán kế toán các khoản vay nợ, trả nợ ở trong tỉnh theo
từng kỳ hạn nợ, từng loại tín phiếu – trái phiếu của từng đối tượng huy
động. Phân tích tác động ảnh hưởng của việc huy động vốn trong tỉnh
đối với cân đối NSNN và điều hoà lưu thông tiền tệ
- Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, cùng với cả nước, nền
kinh tế Hà Tây đã chuyển biến rõ rệt, nhất là trong lĩnh vực Tài chính.
Luanvan.online

Page 24


www.luanvan.online
Do vậy, vai trò của KBNN Hà Tây trong công tác huy động vốn thông
qua phát hành trái phiếu Chính phủ ngày càng nổi bật. KBNN Hà Tây
trong những năm qua đã huy động được một lượng vốn lớn để bù đắp
thiếu hụt ngân sách và cho đầu tư phát triển kinh tế. KBNN Hà Tây đã
khẳng định vai trò quan trọng của mình trong huy động vốn, hoàn thành

nhiệm vụ mà KBNN TƯ giao cho.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN THÔNG QUA PHÁT HÀNH
TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ CỦA KBNN HÀ TÂY

16.1.4Cơ chế phát hành và thanh toán trái phiếu Chính phủ.
Ngày 26/7/1994, Chính phủ ban hành nghị định số 72/CP về quy chế
phát hành các loại trái phiếu Chính phủ. Trong nghị định này nêu rõ: trái
phiếu Chính phủ là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ do Bộ Tài Chính phát
hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi
- Trái phiếu Chính phủ bao gồm: tín phiếu, trái phiếu, công trái xây dựng
tổ quốc, các loại ký danh và vô danh được phát hành dưới các hình thức
sau:
+ Tín phiếu kho bạc là loại tín phiếu ngắn hạn (dưới một năm)
+ Trái phiếu kho bạc là loại trái phiếu có thời hạn từ một năm trở lên
+ Trái phiếu công trình là loại trái phiếu có thời từ một năm trở lên, vay
vốn cho từng công trình cụ thể, theo kế hoạch đầu tư của Nhà nước,
Các hình thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ bao
gồm:
- Tín phiếu ngắn hạn: là loại tín phiếu có thời hạn ba tháng, sáu tháng,
được phát hành thường xuyên từng đợt để tạo ra nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi phục vụ cho chi NSNN.
- Tín phiếu kho bạc phát hành và thanh toán bằng ngoại tệ: là loại tín
phiếu kho bạc được ghi thu, ghi chi trực tiếp bằng ngoại tệ với thời hạn 1
năm, 2 năm và trả lãi hàng năm.
- Trái phiếu KBNN trung hạn: là loại trái phiếu kho bạc có thời hạn 1
năm, 2 năm, 3 năm, huy động vốn nhằm bù đắp thiếu hụt NSNN và cho
đầu tư phát triển kinh tế trong kế hoạch NSNN được duyệt.
Luanvan.online

Page 25



×