Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TÁC PHẨM LÃO HẠC CỦA NAM CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.34 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
Khoa Khoa học xã hội
--------   --------

BÀI TIỂU LUẬN
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT
VỀ CON NGƯỜI TRONG TÁC PHẨM
LÃO HẠC CỦA NAM CAO

Giáo viên hướng dẫn: Mai Thị Liên Giang
Sinh viên thực hiện: Dương Đệ Đức
Lớp Đại học Sư phạm Ngữ văn Liên thông K57
MSSV: LCQQB06150003

Quảng Bình, tháng 04/ 2016


Lời cảm ơn!
Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin được gửi đến T.S Mai Thị
Liên Giang - người đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ em
trong suốt quá trình thực hiện bài tiểu luận lời cảm ơn chân thành
nhất!
Cảm ơn quý thầy cô giáo khoa Khoa học xã hội, quý thầy cô giáo
của trường Đại học Quảng Bình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để em
bồi dưỡng tri thức trong những năm qua. Đó không chỉ là nền tảng
cho quá trình nghiên cứu tiểu luận mà còn là hành trang quý báu để
em có thể vững bước, tự tin hơn trên con đường đời đầy chông gai của
mình.
Cảm ơn gia đình - nơi nuôi dưỡng tâm hồn và khát vọng của em.
Cảm ơn bạn bè đã chia sẻ, động viên và giúp đỡ mình trong suốt thời
gian qua.


Kính chúc quý thầy cô và các bạn luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và
thành công trong cuộc sống!
Sinh viên thực hiện

Dương Đệ Đức


MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài.......................................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................................4
4. Đóng góp của đề tài .................................................................................................................4

B. PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................................5
CHƯƠNG I: NAM CAO VÀ TÁC PHẨM LÃO HẠC...............................................................5
1.1. Nhà văn Nam Cao..................................................................................................................5
1.2. Tác phẩm Lão Hạc.................................................................................................................6
CHƯƠNG II: QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TÁC PHẨM LÃO
HẠC CỦA NHÀ VĂN NAM CAO.............................................................................................8
2.1. Khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người.....................................................................8
2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn “Lão Hạc”. ..................................10
2.2.1. Con người cô đơn ........................................................................................................10
2.2.2. Con người chịu nhiều bất hạnh.....................................................................................11
2.2.3. Con người giàu tình yêu thương và đức hi sinh...........................................................13
2.2.4. Con người giàu lòng tự trọng.......................................................................................14
2.2.5. Con người lương thiện..................................................................................................15
2.3. Ý nghĩa nhân văn trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao trong truyện
ngắn “Lão Hạc”..........................................................................................................................16


C. PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................................................17
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................18


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong dòng chảy bất tận của nền Văn học Việt Nam đã từng có một trào lưu
văn học được hình thành và phát triển từ những năm 20 cho đến trước cách mạng
Tháng Tám. Trào lưu văn học này có khuynh hướng miêu tả chân thực đời sống,
lên án thực dân phong kiến đương thời, phơi bày tình cảnh khốn khổ của quần
chúng bị áp bức bóc lột. Ở giai đoạn này, bên cạnh các nhà văn tên tuổi như
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân hay Mạnh Phú
Tư, Nguyễn Ðình Lạp, Bùi Hiển, ... chúng ta biết đến Nam Cao như là một trong
những cây bút xuất sắc nhất về thể loại truyện ngắn. Mặc dù cuộc đời cầm bút
không dài nhưng ông đã không ngừng say sưa sáng tạo để đem đến cho người đọc
bao tác phẩm hay, giàu ý nghĩa. Vốn là nhà văn có trách nhiệm và nhận thức sâu
sắc về nghiệp cầm bút, Nam Cao luôn tâm niệm “Văn chương không cần đến
những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ
dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi,
sáng tạo những gì chưa có”. Đặc biệt, trong dòng văn học hiện thực phê phán, dù
là người đến muộn hơn các nhà văn khác bằng cái tôi đầy ý thức sáng tạo và cái
tâm của người cầm bút đã có những khám phá mới mẻ, tạo nên một tiếng nói riêng
đầy cá tính khó hòa lẫn. Nhất là trong thời buổi xã hội cũ xấu xa luôn tìm đủ mọi
cách dồn ép con người ta đến bước đường cùng thì Nam Cao vẫn luôn có một niềm
tin sắt đá vào nhân cách của con người. Đó cũng là quan niệm nghệ thuật rất riêng
đã được nhà văn thể hiện xuyên suốt trong những tác phẩm của mình. Có người
cho rằng, mọi sự thay đổi trong văn học đều bắt nguồn từ sự thay đổi trong quan
niệm nghệ thuật về con người. Do vậy, đi sâu khám phá quan niệm nghệ thuật về
con người trong văn học của các nhà văn là bước đi ngắn nhất để chúng ta đến gần

với cái bản chất nội tại của tác phẩm, nắm được sự thay đổi, cách tân và vận động
của cả một giai đoạn, một thời kì văn học… Trong tác phẩm Lão Hạc, Nam Cao
không chỉ tạo niềm tin cho mọi người về cuộc đời mà còn tạo niềm tin cho mọi
1


người về con người với một quan niệm nghệ thuật rất độc đáo. Con người không
thể buông xuôi đầu hàng hoàn cảnh để đánh mất lương tri và nhân phẩm. Triết lí
của lão Hạc là sống nghèo còn hơn sống hèn, thà chết trong còn hơn sống đục, thà
chấp nhận một cuộc đời ngắn ngủi còn hơn sống mà để phiền lụy đến mọi người,
sống mà vô trách nhiệm với bản thân, với cuộc đời, và cả với thế hệ sau. Đó là
những triết lí sống đẹp rất đáng để chúng ta học tập và noi theo.
Cảm phục trước những hành động của các nhân vật cũng như quan niệm nghệ
thuật về con người của nhà văn trong tác phẩm, tôi đã chọn đề tài “Quan niệm
nghệ thuật về con người của Nam Cao qua truyện ngắn Lão Hạc” với mong muốn
có được những hiểu biết sâu sắc hơn về một phương diện thi pháp trong nghệ thuật
viết truyện của Nam Cao để thấy rõ hơn tài năng, phong cách của ông. Từ đó ứng
dụng những kiến thức có được vào trong công việc học tập và giảng dạy sau này
của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ xưa đến nay, quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm văn học
luôn có một vai trò rất quan trọng trong sáng tác đối với các nhà văn, nhà thơ. Vì
thế, mỗi tác phẩm đều chứa đựng trong nó một quan niệm nghệ thuật riêng mang
dấu ấn riêng của tác giả. Là một nhà văn có phong cách độc đáo, những tác phẩm
của Nam Cao luôn được bạn đọc yêu mến và đón nhận rất nồng nhiệt. Do vậy, đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu về Nam Cao và những tác phẩm của ông. Tuy
nhiên, trong phạm vi đề tài “Quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm
Lão Hạc của nhà văn Nam Cao” thì còn khá khiêm tốn.
Theo tài liệu công bố của các tác giả biên soạn cuốn “Nam Cao về tác gia và
tác phẩm” ở phần thư mục có trên 200 công trình lớn nhỏ nghiên cứu về Nam Cao

và sự nghiệp sáng tác của ông. Có thể kể đến lời tựa của Lê Văn Trương cho tập
“Đôi lứa xứng đôi”, do nhà xuất bản “Đời mới” ấn hành 1941 “Ông Nam Cao đã
không hạ mình xuống bắt chước ai, không nói những cái người ta đã nói, không tả
theo cái lối người ta đã tả. Ông đã dám bước chân vào làng văn với những cạnh
2


sắc của riêng mình”. Ý kiến này cho thấy Nam Cao xuất hiện với một phong cách
sáng tác mới, táo bạo và có sắc thái riêng.
Trong “Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945” của Nguyễn Đăng
Mạnh (NXB Giáo dục 2000) đã dành một chương riêng cho Nam Cao đặt bên
cạnh các tác giả lớn của văn học hiện thực phê phán là Nguyễn Công Hoan, Ngô
Tất Tố, Nguyên Hồng... Chương sách có những sự phân tích khá toàn diện và có
những khám phá mới mẻ, sâu sắc đối với sáng tác của Nam Cao. Nguyễn Đăng
Mạnh đề cập đến cách xây dựng nhân vật cùng với tấn bi kịch về cuộc đời các
nhân vật, qua đó thể hiện tư tưởng nhân đạo của Nam Cao: “Miêu tả nhân vật,
Nam Cao chú ý tập trung soi rọi đời sống bên trong, đó là sở trường của tài
năng Nam Cao. Với Nam Cao điều đó trở thành yếu tố hàng đầu”.
Trong các cuốn “Chúng ta mất Nam Cao” (1954), “Người và tác phẩm
Nam Cao” (1956) hay “Những kỉ niệm Nam Cao” (1991) Tô Hoài đã khẳng
định “Nam Cao không che dấu, không màu mè gì hết, nói toạc cái cuộc sống
cùng đường tận lối và nhơ nhớp của những người như anh”. Ông cho rằng nhân
vật trong các tác phẩm của Nam Cao luôn mang một hơi hướng thiên về sự u
sầu, bế tắc trước cuộc sống, bên cạnh đó cũng ca ngợi tài năng của Nam Cao
trong văn đàn văn học Việt Nam tạo được nét riêng trong tác phẩm của mình.
Trong khuôn khổ quan niệm nghệ thuật về con người có khóa luận “Quan
niệm nghệ thuật về con người qua một số tác phẩm của Nguyễn Tuân, Nam Cao,
Nguyễn Minh Châu” của Chu Thị Hảo; “Quan niệm nghệ thuật về con người của
nam cao qua các tác phẩm trước cách mạng tháng tám” của Hồ Thị Nga và nhiều
bài viết liên quan khác …

Tiếp nối những đề tài đã nghiên cứu như trên, tôi xin đi vào tìm hiểu
“Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao” để
hiểu rõ hơn về tài năng của nhà văn này trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.

3


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao qua
truyện ngắn Lão Hạc.
- Phạm vi nghiên cứu: Truyện ngắn Lão Hạc, sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập 1,
NXB Giáo dục, 2004.
4. Đóng góp của đề tài
Từ việc nghiên cứu các cơ sở lý luận cũng như phân tích các vấn đề liên quan
đến đề tài, tôi đã tìm hiểu “Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn
Lão Hạc của nhà văn Nam Cao”. Từ đó, đề tài góp phần củng cố, mở rộng và nâng
cao kiến thức cho người nghiên cứu, là tài liệu tham khảo bổ ích cho sinh viên các
trường Đại học, Cao đẳng khối ngành sư phạm; giáo viên và học sinh khi dạy và
học môn Ngữ văn.

4


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NAM CAO VÀ TÁC PHẨM LÃO HẠC
1.1. Nhà văn Nam Cao
Nam Cao (1917-1951) quê tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam
Sang, phủ Lý Nhân - nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, là một
trong những nhà văn Việt Nam tiêu biểu nhất thế kỷ XX. Sáng tác của ông đã
vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại

càng ngời sáng. Thời gian càng lùi xa, tác phẩm của Nam Cao càng bộc lộ ý
nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu
luyện, độc đáo. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với thể loại truyện ngắn
và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX.
Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu
tiên vì mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một
hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Ông gửi in trên
Tiểu thuyết thứ bảy, trên báo Ích Hữu các truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh
hoa tàn. Có thể nói, các sáng tác “tìm đường” của Nam Cao thời kỳ đầu còn chịu
ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn đương thời.
Sáng tác của Ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời
gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Thời gian càng lùi xa, tác phẩm của Nam
Cao càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp
nghệ thuật điêu luyện, độc đáo. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với thể loại
truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20. Giá trị con người được
đề cao trong truyện của Nam Cao, nhất là trong truyện ngắn nổi danh Chí Phèo mà
trước đây ít người được biết. Truyện ngắn của Nam Cao có nghệ thuật trong kết
cấu và ngôn từ. Nhiều truyện của ông mang tính cách tâm lý đến bây giờ vẫn còn là
những khuôn thước tốt cho người muốn bước vào lĩnh vực truyện ngắn. Năm tháng
trôi qua những truyện ngắn của Nam Cao vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Truyện của
ông là những bộ nhớ ghi lại một cách sống động những sinh hoạt đặc biệt của nông
thôn Việt Nam cách đây nửa thế kỷ. Ta yêu mến dân tộc ta. Ta tha thiết với những
5


gì mà dân tộc ta đã trải qua tất nhiên ta tha thiết và mến yêu những nét chấm phá
trong truyện của Nam Cao. Ở đây có đầy đủ hết, từ anh mõ nghèo nàn nhưng ai
cũng sợ, đến những chức dịch luôn luôn ậm ọc nhưng chỉ biết có những miếng đỉnh
chung tại chốn đình chung, từ một anh tha phương cầu thực vào sống nhờ trong
làng đến một người lính tập có dịp ra khỏi lũy tre làng nên đã mở mắt với đời ...Tất

cả đều được Nam Cao thể hiện một cách rất tự nhiên, chân thực và sống động.
Đầu năm 1996, một chương trình mang tên “Tìm lại Nam Cao” được Hiệp hội
Câu lạc bộ UNESSCO Việt Nam tổ chức với quy mô chưa từng có gồm 35 đơn vị
tham gia như Bộ Lao động Thương binh - Xã hội, Hội Nhà văn Việt Nam, Báo
Nhân dân… Điều đặc biệt là trong đó có sự góp mặt của 7 nhà ngoại cảm mà Liên
hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA) đã đứng ra mời họ tham gia
chương trình “Tìm lại Nam Cao”. Kết quả sau gần nửa thế kỷ nằm hiu quạnh trong
nấm mồ vô danh, cuối cùng Nam Cao đã về yên nghỉ vĩnh hằng nơi quê nhà (xã
Hoà Hậu, Lý Nhân, Hà Nam).
1.2. Tác phẩm Lão Hạc
“Lão Hạc” là một truyện ngắn của nhà văn Nam Cao được viết năm
1943. Tác phẩm được đánh giá là một trong những truyện ngắn khá tiêu biểu của
dòng văn học hiện thực, nội dung truyện đã phần nào phản ánh được hiện trạng
xã hội Việt Nam trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám.
Tác phẩm kể về nhân vật Lão Hạc, một người nông dân chất phác, hiền lành.
Lão góa vợ và có một người con trai nhưng vì quá nghèo nên không thể lấy vợ cho
người con trai của mình. Người con trai lão vì thế đã rời bỏ quê hương để đến đồn
điền cao su làm ăn kiếm tiền. Lão luôn trăn trở, suy nghĩ về tương lai của đứa con.
Lão sống bằng nghề làm vườn, mảnh vườn mà vợ lão đã mất bao công sức để mua
về và để lại cho con trai lão. So với những người khác lúc đó, gia cảnh của lão khá
đầy đủ, tuy nhiên do sức không còn nên công việc đồng áng cũng tạm dưng, công
việc do người khác thuê mướn cũng không có.

6


Lão có một con chó tên là Vàng - con chó do con trai lão trước khi đi đồn điền cao
su đã để lại. Lão vừa coi như con vừa coi như một người thân trong gia đình. Tuy
nhiên, vì gia cảnh nghèo khó không nuôi nổi nó nên ông lão đành cắn răng bán con
chó đi. Lão đã rất dằn vặt bản thân mình khi mang một "tội lỗi" là đã nỡ tâm "lừa

một con chó". Lão đã khóc rất nhiều với ông giáo (người hàng xóm thân thiết của
lão). Nhưng cũng kể từ đó, lão sống khép kín, lủi thủi một mình. Rồi một hôm, lão
quyết định tìm đến cái chết để được giải thoát sau bao tháng ngày cùng cực, đau
khổ. Và sau khi trao gửi hết tài sản cũng như nhờ vả chuyện ma chay sau này cho
ông giáo, Lão Hạc đã kết thúc cuộc đời bằng một liều bả chó do xin từ Binh Tư.
Cái chết của lão đau đớn và dữ dội, gây cho người đọc nhiều sự xúc động, xót xa.
Lão chết để bảo toàn lòng tự trọng của mình, không để cho cái đói, cái nghèo dồn
vào con đường tha hóa như Binh Tư.
Câu chuyện này được thể hiện qua lời kể của nhân vật tôi - ông giáo, và dường như
đâu đó trong nhân vật này ta thấy hiện lên giọng kể của nhà văn Nam Cao.

7


CHƯƠNG II: QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TÁC
PHẨM LÃO HẠC CỦA NHÀ VĂN NAM CAO
2.1. Khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người
Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù rất quan trọng, được nhắc
đi nhắc lại nhiều lần trong thi pháp học. Mặc dù hiện nay, khái niệm này chưa được
các nhà nghiên cứu định nghĩa một cách thống nhất và chặt chẽ, nhưng nó đã phần
nào gợi mở cho chúng ta hướng đến đối tượng chủ yếu của văn học. Theo đó, “Văn
học nghệ thuật là một sự ý thức về đời sống, nên nó mang tính chất quan niệm rất
cụ thể” và “Hình tượng nghệ thuật một khi đã hình thành là mang tính chất quan
niệm, ngay cả vô thức cũng là quan niệm về cái vô thức. Nhà văn không thể miêu
tả đối tượng mà không có quan niệm về đối tượng”[1;23]. Có thể khẳng định, quan
niệm chính là một phương tiện thiết yếu của sáng tạo nghệ thuật. Do vậy, tìm hiểu
quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học là một bước đi thiết thực để đến
với chiều sâu của các tác phẩm, của các giai đoạn văn học. Hay nói như Macxim
Gorki thì: “Văn học là nhân học”. Đó là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người.
Do vậy, con người chính là đối tượng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả thần linh,

ma quỉ, đồ vật, hoặc đơn giản là miêu tả các nhân vật, văn học đều nhằm mục đích
miêu tả và thể hiện vào con người. Thực tế cho thấy, không có một tác phẩm, một
tác giả hay một nền văn học nào lại chỉ đơn thuần nói về thiên nhiên mà không liên
quan đến con người. Nói cách khác, mục đích miêu tả của nhà văn là nhằm hướng
đến thể hiện con người.Ở đây, quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm cơ
bản nhằm thể hiện khả năng khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện
con người của nhà văn. Có thể nói, nó giống như là một chiếc chìa khóa vàng góp
phần gợi mở cho chúng ta tất cả những gì bí ẩn trong sáng tạo nghệ thuật của mỗi
người nghệ sĩ nói chung và từng thời đại nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, song khái niệm quan niệm nghệ
thuật về con người vẫn còn nhiều cách định nghĩa và diễn đạt khác nhau.

8


Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: "Quan niệm nghệ thuật về con người là một
cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm
của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình”[2;15]. Tức,
quan niệm nghệ thuật về con người sẽ đi vào phân tích, mổ xẻ đối tượng con người
đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người
trong văn học của tác giả, từ đó, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình
tượng nhân vật trong đó”. Vì vậy, chúng ta sẽ thấy được giá trị của hình tượng nghệ
thuật trong các tác phẩm.
Giáo sư Huỳnh Như Phương cũng góp tiếng nói của mình bằng một cách nhìn
khá bao quát: “Quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện tầm nhìn của nhà văn
và chiều sâu triết lí của tác phẩm”.
Cũng với vấn đề về quan niệm nghệ thuật về con người, Từ điển Thuật ngữ
văn học định nghĩa như sau: “Quan niệm nghệ thuật về con người là hình thức bên
trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác phẩm. Nó gắn với các phạm trù
khác như phương pháp sáng tác, phong cách của nhà văn, làm thành thước đo của

hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ thuật.”
Nhìn chung, tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng những khái niệm trên đều
nói lên được cái cốt lõi của vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người. Từ đó,
chúng ta có thể đi đến khái quát cách hiểu quan niệm nghệ thuật về con người như
sau:
Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu là cách nhìn, cách cảm, cách
nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà văn. Đó là quan niệm mà nhà văn
thể hiện trong từng tác phẩm. Quan niệm ấy bao giờ cũng gắn liền với cách cảm
thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con người
giống hay không giống so với đối tượng.
Như vậy, vì trung tâm của văn học là con người nên con người cũng chính là
đối tượng thẫm mĩ thể hiện quan niệm của tác giả về cuộc sống. Người sáng tác sẽ
là người vận động, suy nghĩ về con người, cho con người, nêu ra những tư tưởng
9


mới để hiểu về con người. Bởi người ta không thể miêu tả và tạo nên chiều sâu,
tính độc đáo của hình tượng con người trong văn học nếu không hiểu biết, cảm
nhận và có các phương tiện, biện pháp nhất định.Thông qua quan niệm nghệ thuật
về con người của nhà văn, ta có thể hình dung đầy đủ tư tưởng nghệ thuật cũng như
dấu ấn sáng tạo của nhà văn ấy. Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người là
con đường dẫn ta khám phá giá trị tác phẩm, khám phá cá tính sáng tạo, khẳng định
phong cách của nhà văn. Cho nên, tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người là
điều hết sức quan trọng. Đây được xem là cơ sở lí luận để chúng ta bắt tay vào tìm
hiểu Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam nói chung và tác
phẩm Lão Hạc của Nam Cao nói riêng.
2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn “Lão Hạc”.
Trong sự nghiệp văn chương của Nam Cao, “Lão Hạc” được xem là truyện
ngắn xuất sắc viết về người nông dân trong xã hội cũ. Không chỉ có giá trị về tư
tưởng, tác phẩm còn ghi dấu sự độc đáo, mới mẻ trong nghệ thuật thể hiện. Bên

cạnh kết cấu mới mẻ, cốt truyện hấp dẫn, ngôn ngữ sống động,...truyện ngắn này
cũng thể hiện sự hiện đại, sáng tạo trong quan niệm nghệ thuật về con người của
tác giả qua hình tượng các nhân vật trong tác phẩm mà tập trung vào nhân vật Lão
Hạc . Với quan niệm về con người tràn đầy tính nhân văn: đó là những con người
cô đơn, bất hạnh nhưng luôn tràn đầy tình yêu thương, giàu lòng tự trọng… Nam
Cao xứng đáng là nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng Tháng Tám.
2.2.1. Con người cô đơn
Có thể nói cuộc đời lão Hạc là cả một tấn bi kịch, tuy nhiên xuyên suốt
tác phẩm ta thấy lão là một con người cô đơn. Vợ chết sớm, lão sống cô đơn
trong cảnh “gà trống nuôi con”. Cả đời làm lụng vất vả, vợ chồng lão cũng
tậu được mảnh vườn, nhưng mảnh vườn ấy cũng không giúp lão lo được
hạnh phúc cho con. Đứa con trai duy nhất của lão đã có người yêu, chúng rất
mến nhau, nhưng tiền thách cưới quá nặng, mất “cứng đến 200 bạc lão
không lo được”. Tục lệ cưới xin lạc hậu, lão không làm tròn bổn phận của
10


người cha. Nỗi đau ấy luôn dày vò lão. Phẫn chí, anh con trai bỏ đi phu đồn
điền cao su để lão sống một mình. Lão xót xa cay đắng khi nhận ra đưa con
cứ tuột đần khỏi tay mình “hình của nó người ta chụp, ảnh của nó người ta
giữ, nó là người của người ta rồi chứ đâu còn là con của tôi nữa”. Và từ đấy
lão sống một mình, bầu bạn với lão chỉ có con Vàng. Vợ chết, con lại đi xa,
lão cô đơn làm sao. Đến ông giáo cũng cảm nhận được nỗi cô đơn của lão
“già rồi mà ngày cũng như đêm, suốt ngày chỉ thui thủi một mình thì ai mà
chả phải buồn”. Suốt ngày lão chẳng biết phải nói chuyện với ai ngoài cậu
Vàng hay nói trắng ra là lão đang độc thoại. Cô đơn là vậy mà cuối cùng lão
cũng phải bán con Vàng, bán nguồn an ủi động viên, bán người bạn. Giá như
ta biết quá trình tính toán, cân nhắc từng bữa ăn của chó, của người, biết
được bao lần lão Hạc đã sang kể cho ông giáo nghe việc mình bán con Vàng,
ta mới thấy được lão đã day dứt, trăn trở, khổ đau và cô đơn đến nhường

nào.
2.2.2. Con người chịu nhiều bất hạnh
Những con người trong tác phẩm này đều là nạn nhân của xã hội phong kiến
nửa thực dân. Họ phải gồng mình chống lại nạn đói, những hủ tục phong kiến,... Và
mỗi người lại có những nỗi bất hạnh riêng. Nhân vật chính - lão Hạc, là một người
có hoàn cảnh vô cùng bất hạnh.
Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái
nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có
những hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm, đứa con trai duy nhất
bỏ đi làm cao su. Một mình lão phải đối mặt với tuổi già, bệnh tật, cái đói và sự cô
đơn. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con để làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão
phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật.
Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán
đi con chó Vàng mà lão yêu thương nhất. Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột
cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra,
11


cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu hu
khóc”,... Nhà văn hay chính là nhân vật ông giáo trong tác phẩm đã không nén
được những lời thương cảm: “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”, “khoai cũng hết, lão
chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc,
hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến
mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường
sinh sống, lão Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi
nhục: chết “nhờ” ăn bả chó tự tử...! Cái chết của lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt
mép, lão co giật phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên... Cái chết ấy khiến người
đọc liên tưởng đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái
chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó.
Không riêng gì lão Hạc, nhân vật con trai lão cũng là một người đáng thương,

bất hạnh không kém. Mẹ thì mất sớm, vì nhà nghèo anh không lấy được người con
gái mình yêu. Phẫn chí, anh phải xa gia đình, xa làng xóm đi cao su, mà cái đất cao
su thời đó thì phải nói là "đi dễ khó về", "khi đi trai tráng khi về bủng beo". Tuy
nhiên, điều làm anh day dứt hơn cả là người cha khắc khổ nơi làng quê ấy. Chắc
hẳn lương tâm của anh cũng không khi nào thanh thản vì đã không chăm sóc được
cho cha. Thiên truyện khép lại nhưng hình bóng của anh vẫn luôn ám ảnh bao thế
hệ bạn đọc với một câu hỏi không lời giải. Không biết số phận của anh rồi sẽ đi về
đâu? Anh còn sống hay anh đã chết? Có khi nào anh trở lại và hối hận vì việc làm
của mình hay không?... Giả sử những câu hỏi đó được trả lời đi nữa thì chúng ta
vẫn luôn đồng cảm với những nỗi bất hạnh, những nỗi đau mà anh phải chịu đựng.
Ngoài ra, ông giáo - một nhân vật có uy tín nhất ở làng cũng không sung
sướng hơn là mấy. Lẽ ra, với cương vị của một ông Giáo, biết nhiều chữ nghĩa,
được nhiều người tôn trọng, kính nể phải có một cuộc sống sung túc ấm no nhưng
trong thời buổi ấy ông cũng túng thiếu, cũng phải sống cái đời "sống mòn”, cũng
phải chịu sự áp bức bóc lột của giai cấp thống trị như bao người khác không hơn
không kém.
12


2.2.3. Con người giàu tình yêu thương và đức hi sinh
Các nhân vật trong "Lão Hạc" hầu hết đều là những người giàu tình thương.
Cảm động nhất có lẽ là tình phụ tử ở nhân vật lão Hạc. Lão yêu thương con rất
mực. Văn học Việt Nam đã có những “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh,
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng,... ngợi ca tình phụ tử. Và trong đó cũng
cần nhắc đến “Lão Hạc” của Nam Cao. Dù rất đau lòng nhưng lão chấp nhận nỗi cô
đơn hờn tủi, đồng ý để con trai ra đi theo chí hướng của mình. Con đi rồi, lão chỉ
còn con chó Vàng làm bạn. Lão Hạc yêu con chó Vàng đến độ gọi nó là "cậu"
Vàng, thậm chí lão còn yêu quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó
ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn,... là bởi con chó
là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con

mình. Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều “cậu” Vàng vì đó là con chó khôn,
chó đẹp, không đơn giản bởi lão là người yêu động vật. Hãy nghe lời tâm sự của
lão với ông giáo: “Con chó ấy là của cháu nó để lại”. Vậy là lão Hạc yêu con Vàng
phần lớn bởi đó là kỉ vật duy nhất do con để lại. Lão đã dồn toàn bộ tình cha cho
con chó ấy. Khi bán con Vàng, "lão khóc như con nít", "mắt ầng ậng nước".... Ở
đây, ta thấy tình yêu của Lão Hạc dành cho con thật cao quý biết nhường nào, lão
thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh
vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn
khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn. Và cuối cùng,
lão vẫn chọn cái chết chứ nhất quyết không bán đất của con.
Về phần con trai lão Hạc vì phẫn chí mà đi cao su nhưng trước khi đi vẫn để
lại cho cha ba đồng bạc. Một chi tiết nhỏ thôi nhưng theo logic của tác phẩm ta
cũng dễ dàng suy ra được anh là một người rất tình cảm.
Còn ông giáo là một trí thức có trái tim nhân hậu rất đáng quý. Dẫu gia đình
vẫn bữa đói bữa no nhưng ông vẫn luôn cố gắng giúp đỡ, cưu mang người hàng
xóm bất hạnh . Ông là chỗ dựa tinh thần,là niềm an ủi,tin cậy của Lão Hạc. Ông
giáo là nơi để lão Hạc san sẻ bao nỗi đau,nỗi buồn. Nhờ đọc hộ một lá thư,nhờ viết
13


hộ một lá thư cho đứa con trai đi phu đồn điền. Tâm sự về mảnh vườn và chuyện
đứa con trai “phẫn chí” không lấy được vợ. San sẻ về nỗi đau sau khi bán cậu Vàng
cho thằng Mục, thằng Xiên,… Có lúc là một điếu thuốc lào, một bát nước chè
xanh, một củ khoai lang…” Lúc tắt lửa tối đèn có nhau”. Ông giáo đã đồng cảm, đã
thương xót, đã san sẻ với lão Hạc với tất cả tình người. Ông giáo đã thương lão Hạc
“như thể thương thân”. Không chỉ an ủi, mà còn tìm mọi cách để “ngấm ngầm
giúp” khi biết lão Hạc đã nhiều ngày ăn rau, ăn khoai, ăn củ ráy… Trong lúc đàn
con của ông giáo cũng đang đói; cái nghĩa cử “lá lành đùm lá rách” ấy mới cao đẹp
biết bao !
2.2.4. Con người giàu lòng tự trọng

Sống trong cái đói, cái nghèo nhưng không bị sự bần hàn làm cho quay quắt,
hèn mọn, điều đáng quý nhất ở người nông dân Việt Nam trước Cách mạng chính
là lòng tự trọng sáng ngời trong nhân phẩm.
Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống
đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người
ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư
chẳng hạn, hay người đàn bà trong “Một bữa no” của Nam Cao...) nhưng lão Hạc
thì không. Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ
sắn) lão “từ chối gần như hách dịch" khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng.
Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó “lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa
đâu”. Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: “"con người đáng kính ấy bây giờ cũng
theo gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”.
Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão.
Hay còn cách khác: lão có thể bán quách mảnh vườn đi. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó
là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!
Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất.
Lão đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được
14


trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người - kể cả với con chó Vàng tội nghiệp.
Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Con người ấy, đến lúc chết
vẫn còn lo mình làm phiền hàng xóm nên dành dụm gửi gắm ông giáo tiền làm ma.
Có thể nói lão đã tính toán để ngay cả khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến
mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì
nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm phiền hàng xóm! Cảm động hơn cả là nỗi
lòng quặn thắt của lão sau cái chết của con Vàng. Lão dằn vặt bởi nghĩ mình "đã đi
lừa một con chó". Lão Hạc ơi! Ẩn bên trong cái hình hài gầy gò, già nua của lão là
một tâm hồn cao thượng, giàu lòng tự trọng và đáng trân trọng biết bao nhiêu!
2.2.5. Con người lương thiện

Cả đời lão sống bằng đôi bàn tay lao động của mình. Khi còn khoẻ, lão
làm thuê cuốc mướn. Khi ốm đau, không làm thuê được nữa thì lão kiếm con
trai con ốc, củ khoai củ ráy. Khi không còn tự kiếm sống được nữa thì lão tự
kết liễu đời mình bằng bả chó chứ không đi ăn trộm, ăn cắp như Binh Tư.
Lão đã chọn cái chết trong còn hơn sống đục. Quen sống lương thiện, lão
khổ đau dằn vặt khi nghĩ rằng mình đánh lừa con chó: “thì ra tôi già bằng
này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Ánh mắt con Vàng xoáy sâu vào
lão nỗi oán trách giận hờn khiến lão thấy ân hận, xót xa. Xử sự không phải
với con chó lão dằn vặt, day dứt đến vậy thì hẳn lão không thể làm điều ác
với ai bao giờ. Đó cũng là bản chất của lão: hiền lành, chân chất, nhân hậu
thật đáng trân trọng.
Tóm lại: Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão Hạc không bao giờ vì
thế mà tha hóa về nhân phẩm. Dù cho Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm.
Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng Lão Hạc vẫn luôn giữ được vẹn nguyên tâm
hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng
cao đẹp của mình. Lão vẫn luôn hiền lành, chân chất, nhân hậu, thủy chung. Đó
chính là những đặc điểm đáng quý của người nông dân Việt Nam lúc bấy giờ.

15


2.3. Ý nghĩa nhân văn trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao
trong truyện ngắn “Lão Hạc”.
Nam Cao đã từng khẳng định “Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên trên
tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người”. Truyện
ngắn Lão Hạc của ông đã làm được điều đó, hoàn toàn xứng đáng được xem là
một tác phẩm giá trị về nội dung lẫn nghệ thuật. Bên cạnh sự thành công ở những
bình diện khác của thi pháp như ngôn ngữ, giọng điệu, xây dựng nhân vật,...quan
niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao thể hiện qua nhân vật Lão Hạc đã
phần nào cho thấy sự đổi mới đầy sáng tạo trong nghệ thuật thể hiện cũng như

chiều sâu nhân văn trong cách nhìn con người.
Cùng với những quan niệm về con người như đã nói, Nam Cao đã không
dẫm lên lối mòn cũ của những nhà văn hiện thực đi trước trong cách khám phá
hiện thực và con người. Ông đã tự khai thông cho mình một con đường riêng tuy
vất vả, khó khăn nhưng đầy dấu ấn sáng tạo. Nếu như Chí Phèo là nỗi bi kịch tha
hóa thì Lão Hạc lại là tấm gương nhân cách, dù bị dồn đẩy, bức ép của hoàn cảnh
xã hội đen tối nhưng luôn giữ vững nhân cách. Trong mọi hoàn cảnh vẫn luôn
ngời sáng. Đó là một cách nhìn con người hoàn toàn mới mẻ và sáng tạo.
Đổi mới và sáng tạo trong quan niệm nghệ thuật về con người, Nam Cao đã
cho thấy chiều sâu trong cách phản ánh hiện thực, chiều sâu của tấm lòng nhân đạo
chan chứa yêu thương của nhà văn. Đọc Lão Hạc ta thấy đâu phải chỉ mình lão khổ.
Những hạng người như Binh Tư, một kẻ do cái nghèo mà bị tha hoá thành một tên
trộm cắp. Đó là ông giáo, một người trí thức đầy hiểu biết nhưng cũng không thoát
ra khỏi áp lực của cảnh vợ con rách áo, đói cơm. Cái nghèo khiến ông giáo đã phải
rứt ruột bán đi từng cuốn sách vô giá của mình. Nhưng cái thứ ấy bán đi thì được
mấy bữa cơm? Vậy ra ở trong truyện tất cả đã đều là Lão Hạc. Lão Hạc phải oằn
mình mà chết trước thử hỏi những người kia có thể cầm cự được bao lâu?
Ở tác phẩm Lão Hạc, ta có thấy niềm tin và sự lạc quan của nhà văn vào bản
chất tốt đẹp của con người. Từ chiều sâu của nội dung tư tưởng, tác phẩm nói lên
tính cấp bách và yêu cầu khẩn thiết phải thay đổi toàn bộ môi trường sống để cứu
16


lấy những giá trị chân chính và tốt đẹp của con người.Tác phẩm đã cho ta một cái
nhìn về quá khứ để mà trân trọng nhiều hơn cuộc sống hôm nay. Nó cũng dạy ta,
cuộc sống là một cuộc đấu tranh khỏng phải chỉ đơn giản là để sinh tồn mà còn là
một cuộc đấu tranh để bảo toàn nhân cách. Phải chăng, chính những sáng tạo mới
mẻ cùng tấm lòng thông cảm, tràn đầy yêu thương của nhà văn mà những tác phẩm
của ông đã lay gọi tâm hồn và để lại bao ấn tượng trong lòng người đọc với niềm
yêu mến, trân trọng.


C. PHẦN KẾT LUẬN
Mỗi thời đại có một quan niệm khác nhau về con người. Bởi quan niệm
nghệ thuật về con người mang tính lịch sử và là sản phẩm mang tính văn hóa
17


của thời đại. Mỗi nhà văn luôn tìm cho mình một cách thể hiện cái đẹp về con
người. Với những nhà văn chân chính, họ không dễ dàng chấp nhận sự sao chép
hay cứng nhắc trong tính khuôn mẫu. Nghệ thuật là một loại hình mang tính lao
động sáng tạo. Nó là sự sáng tạo về dấu ấn của người nghệ sĩ.Người nghệ sĩ
càng sáng tạo trong sáng tác của mình thì tác phẩm của họ càng trở nên có giá
trị. Mỗi tác phẩm văn học có giá trị như những ngọn đèn sáng bất diệt. Là một
nhà văn tâm huyết với nghề, luôn muốn sáng tạo ra những tác phẩm có giá trị,
Những truyện ngắn của ông sẽ còn sống mãi trong tâm trí bạn đọc bởi mỗi
trang nghệ thuật của họ là một trang đời. Truyện ngắn “Lão Hạc” không chỉ
giúp ta hiểu thêm những phát hiện đầy sáng tạo trong cách quan niệm và thể
hiện của nhà văn về con người mà giúp ta yêu hơn một tài năng đang độ chín,
quý hơn một tấm lòng đầy yêu thương, trân trọng con người. Với tất cả những gì
đã sống và đã viết, Nam Cao xứng đáng có “phẩm chất của những gì ưu tú, là
cái giá trị đã có thể đi dần vào quỹ đạo của những gì thuộc về cổ điển” (Phong
Lê) để rồi bao thế hệ nhà văn và bạn đọc sau này luôn tâm niệm “Đó là một nhà
văn chân chính. Phải sống và làm việc như con người ấy” (Nguyễn Khải).
Tóm lại, để có một quan niệm nghệ thuật về con người đầy tính nhân văn
như vậy, Nam Cao chắc hẳn phải rất thấu hiểu và cảm thông sâu sắc với những
con người trong cuộc đời, phải dành cho họ những tình cảm yêu mến, trân trọng
mới có thể viết nên những trang văn hay như thế. Với “Quan niệm nghệ thuật về
con người trong tác phẩm “lão Hạc”, Nam Cao đã thực sự khẳng định được tên
tuổi của mình trong nền văn học hiện thực phê phán. Ông đã “khơi được những
nguồn chưa ai khơi” và để lại trong lòng độc giả những tình cảm yêu mến rất

đáng trân trọng.!
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Đình Sử, (1993), Giáo trình Thi pháp học, Nxb ĐH sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh.
18


2. Trần Đình Sử, (1993), Dẫn luận Giáo trình Thi pháp học, Nxb ĐH sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mai Thị Liên Giang, (2015), Chủ thể tiếp nhận và lịch sử tiếp nhận thơ mới, Nxb
Hội nhà văn.

19



×