Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI AGRIBANK CHI NHÁNH HÀ TÂY NĂM 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.73 KB, 61 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA NGÂN HÀNG

-------*****-------

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài:
GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN
HÀNG NNo&PTNT AGRIBANK CHI NHÁNH HÀ TÂY
Họ và tên sinh viên: NGUYỄN VĂN CHIẾN
Lớp

: NHN

Khóa
Mã sinh viên

: 2012-2016
: 15A4000758

Khoa

: Ngân hàng

Hà Nội, tháng 5 năm 2016

1




LỜI CẢM ƠN
Tôi xin cam đoan chuyên đề tốt nghiệp “Giải pháp phòng ngừa và Hạn chế
rủi ro tín dụng tại Ngân hàng NNo & PTNT Agribank – chi nhánh Hà Tây” là
công trình nghiên cứu của riêng tôi. Tất cả các số liệu trong chuyên đề đều trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu mọi trách nhiệm
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trường Học Viện Ngân
Hàng đã truyền đạt cho tôi kiến thức trong suốt những năm học ở trường, đặc biệt gửi
lời cám ơn chân thành đến Ths. Đào Thanh Tú đã giúp đỡ trong suốt quá trình viết báo
cáo và những anh/ chị chuyên viên tại ngân hàng NNo & PTNT Agribank chi nhánh
Hà Tây đã giúp đỡ và chỉ bảo trong suốt quá trình thực tập tại đây.
Sinh viên

Nguyễn Văn Chiến

2


KÝ TỰ VIẾT TẮT

DPRR
KH
CV
NHNN
ĐVCNT
NNo&PTN
T
QLN
VND

HĐTD
HĐV
TSĐB
NH
DNNN
CBTD
TTTD
TCTD

Dự phòng rủi ro
Khách Hàng
Cho vay
Ngân Hàng Nhà Nước
Đơn vị chấp nhận thẻ
Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn
Quản lý nợ
Việt Nam đồng
Hội đồng tín dụng
Huy động vốn
Tài sản đảm bảo
Ngân hàng NNo & PTNT Agribank
Doanh nghiệp Nhà Nước
Cán bộ tín dụng
Thông tin tín dụng
Tổ chức tín dụng

3


HỆ THỐNG BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ

Bảng

MỤC LỤC

4


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Hệ thống Ngân hàng thương mại nước ta đang trong quá trình đổi mới để bắt kịp với xu
thế phát triển của nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Ngân hàng đã
thực sự là ngành tiên phong trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế. Đặc biệt trong những
năm qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực huy động vốn, mở rộng vốn
đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát triển, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng
trưởng kinh tế trong nước. Ngành ngân hàng đã xứng đáng là công cụ đắc lực hỗ trợ cho
nhà nước trong việc kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả.
5


Song song với quá trình đó, vấn đề rủi ro tín dụng cũng đang diễn ra hết sức phức
tạp, gây ra những tác động to lớn không thể lường hết được cho nền kinh tế. Do đó đòi
hỏi phải có sự đầu tư thích đáng trong việc nghiên cứu tìm ra những giải pháp nhằm
ngăn ngừa, hạn chế mức tối đa những rủi ro có thể xảy ra.
Hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang tích cực xây dựng chính sách,
chiến lược và đề ra những biện pháp thực hiện để hạn chế rủi ro tín dụng trước những
quy định và yêu cầu gắt gao của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước. Vì mục tiêu an
toàn và phát triển bền vững, Ngân hàng NNo & PTNT Agribank chi nhánh Hà Tây
cũng đã ban hành nhiều quy định để hạn chế rủi ro tín dụng. Trong đó, chính sách
mang tầm chiến lược, định hướng lớn nhất là việc ban hành và đưa vào áp dụng quy

trình tín dụng mới với mục tiêu lớn nhất là hạn chế mức tối đa những rủi ro trong hoạt
động tín dụng của Ngân hàng. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những hạn chế cần khắc
phục vì vậy nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này,em đã lựa chọn đề tài :
“Giải pháp phòng ngừa và Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng NNo & PTNT
Agribank chi nhánh Hà Tây” với hi vọng trong quá trình thực tập tại Ngân hàng NNo
& PTNT Agribank chi nhanh Hà Tây cùng với khoảng thời gian nghiên cứu, đề tài sẽ
góp một phần nào đó giúp chi nhánh tìm được thêm những giải pháp cho mình trong
việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng phù hợp với khả năng hiện có.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu 1: Hệ thống hóa lại những vấn đề mang tính lí luận về rủi ro tín dụng của
ngân hàng và phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng. Tham khảo các bài
học kinh nghiệm từ các nước trên thế giới, rút ra bài học đối với Việt Nam.
Mục tiêu 2: Phân tích thực trạng phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại
NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh Hà Tây, từ đó đánh giá kết quả đạt được, những
hạn chế và nguyên nhân trong công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại
NHNo&PTNT Việt Nam.
Mục tiêu 3: Đề xuất các giải pháp và những kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt
động tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân Hàng NNo
& PTNT chi nhánh Hà Tây.
- Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng NNo & PTNT chi nhánh Hà Tây từ năm 2013 đến năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong chuyên đề là thống kê, phân tích, tổng hợp, so
sánh, suy luận logic, duy vật biện chứng…
5. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu , kết luận,chuyên đề có kết cấu gồm 3 chương:
6



- Chương 1: Những lý luận chung về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng của
NHTM
- Chương 2: Thực trạng phòng ngừa và hạn chế RRTD tại Ngân hàng NNo & PTNT
Agribank chi nhánh Hà Tây
- Chương 3: Giải pháp phòng ngừa và hạn chế RRTD tại Ngân hàng NNo & PTNT
Agribank chi nhánh Hà Tây

7


CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ
RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.

TỔNG QUAN VỀ NH VÀ TÍN DỤNG NH

1.1.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Ngân hàng là một định chế tài chính mà hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, sử
dụng số tiền đó để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Vì vậy, hoạt động tín
dụng là hoạt động chính, thường xuyên và mang lại lợi nhuận lớn cho các các ngân
hàng.Vậy tín dụng là gì?. Thuật ngữ "Tín dụng" xuất phát từ gốc Latinh “Creditium”
có nghĩa là một sự tin tưởng tín nhiệm lẫn nhau, hay nói cách khác đó là lòng tin. Tín
dụng nói chung được định nghĩa là quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển nhượng tạm
thời một lượng giá trị (dưới hình thức giá trị hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang
người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi một lượng giá trị lớn hơn giá trị
ban đầu. Nếu xem xét ở góc độ hẹp thì tín dụng ngân hàng là một giao dịch tài sản
(tiền hoặc hàng hóa) giữa ngân hàng và bên đi vay (cá nhân doanh nghiệp và các chủ
thể khác) trong đó, ngân hàng chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong thời
gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn

gốc và lãi cho ngân hàng khi đến thời hạn thanh toán”.
Có thể thấy bản chất của tín dụng là việc ngân hàng thỏa thuận để khách hàng sử
dụng một lượng tài sản bằng tiền, bằng tài sản hay uy tín với nguyên tắc hoàn trả đầy
đủ dưới hình thức cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh và các dịch vụ
khác”. Như vậy với khái niệm trên có thể rút ra được bản chất của tín dụng ngân hàng:
Thứ nhất : Tín dụng phải dựa trên cơ sở sự tin tưởng của bên cho vay và bên đi vay.
Chỉ khi nào người cho vay thực sự tin tưởng vào sự sẵn lòng và khả năng trả nợ của
người đi vay thì khi đó quan hệ tín dụng mới được thiết lập. Mặt khác, người đi vay
cũng tin vào hiệu quả của việc sử dụng đồng vốn đi vay của mình.
Thứ hai: Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng tài sản của ngân hàng
cho người đi vay, trong một thời gian nhất định với cam kết hoàn trả cả gốc và lãi.
Thứ ba: Sau một thời gian nhất định như thỏa thuận, người đi vay phải hoàn trả cho
người vay một lượng giá trị gồm gốc và lãi. Phần chênh lệch này là giá của việc sử
dụng quyền sử dụng vốn của người khác. Do vậy, nó phải đủ lớn để đem lại sự hấp
dẫn cho người chuyển nhượng quyền chủ sử dụng vốn.
Thứ tư : Hoạt động tín dụng luôn chứa đựng rủi ro, do đó do sự mất cân xứng về
thông tin của khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Rủi ro đó ngoài những
nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía ngân hàng và khách hàng, còn những nguyên

8


nhân khách quan như: sự biến động của thị trường, chu kì kinh tế, sự thay đổi chính
sách, những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai bệnh dịch...
1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng.
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế
TDNH giúp luân chuyển vốn từ những người có nguồn vốn nhàn rỗi đến những
người có nhu cầu về vốn. Nếu không có ngân hàng thì việc luân chuyển vốn giữa các
chủ thể trong nền kinh tế sẽ khó khăn và tốn kém hơn. Nhờ khả năng giúp luân chuyển
vốn trong nền kinh tế, TDNH cung cấp vốn kịp thời cho quá trình sản xuất kinh doanh,

giúp doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội kinh doanh, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế.
TDNH là công cụ tài trợ cho các ngành, nghề, khu vực kinh tế mũi nhọn. Nhà nước
có các ưu đãi, hỗ trợ tập trung tín dụng để tài trợ phát triển các nghành đó, hình thành
nên cơ cấu hiện đại, hợp lý và hiệu quả.
TDNH là công cụ của Nhà nước góp phần lưu thông tiền tệ, hàng hóa, điều tiết thị
trường, kiểm soát giá trị đồng tiền và thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu kinh tế giữ
các nước. Trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới hiện nay. TDNH còn có khả năng
dẫn vốn từ quốc gia này tới quốc gia khác, không bị bó hẹp về mặt địa lý, cải thiện và
mở rộng mối quan hệ kinh tế với các đối tác nước ngoài.
TDNH mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước thông qua thuế thu nhập và
lãi ủy thác từ đầu tư vốn của Chính phủ. TDNH là kênh truyền tải vốn tài trợ của Nhà
nước đến nông nghiệp, nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị, xã
hội.
1.1.2.2. Đối với khách hàng
TDNH đáp ứng kịp thời nhu cầu số lượng và chất lượng vốn cho khách hàng. Với các
ưu điểm như an toàn, nhanh chóng, thuận tiện, dễ tiếp cận và có khả năng đáp ứng
được nhu cầu vốn lớn, TDNH thỏa mãn được nhu cầu đa dạng của khách hàng.
TDNH giúp nhà đầu tư nắm bắt được những cơ hội kinh doanh,doanh nghiệp có vốn
để mở rộng sản xuất, các cá nhân có đủ khả năng tài chính để trang trải cho các khoản
chi tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống…
TDNH ràng buộc trách nhiệm khách hàng phải hoàn trả cả vốn gốc và lãi trong thời
hạn nhất định như thỏa thuận. Do đó, buộc khách hàng phải nỗ lực, tận dụng hết khả
năng của mình để sử dụng vốn hiệu quả, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, đem lại lợi
nhuận cho doanh nghiệp và đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng.
9


1.1.2.3. Đối với ngân hàng
Tín dụng là hoạt động truyền thống, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có và

mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng (từ 70 đến 80%). Mặc dù tỷ trọng của
hoạt động tín dụng đang có xu hướng giảm, nhưng TDNH vẫn luôn là nghiệp vụ sử
dụng nguồn vốn quan trọng nhất đối với mỗi ngân hàng.
Thông qua hoạt động tín dụng mà ngân hàng đa dạng hóa được danh mục tài sản có,
giảm thiểu rủi ro.
Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng mở rộng được các loại hình dịch vụ khác
như thanh toán, thu hút tiền gửi, kinh doanh ngoại tệ, tư vấn…

1.1.3.

Phân loại tín dụng ngân hàng.

 Căn cứ vào thời hạn cho vay :

Tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng trung hạn.
Tín dụng dài hạn.
 Căn cứ vào mục đích sử dụng :

Tín dụng sản xuất và kinh doanh hàng hóa.
Tín dụng tiêu dùng.
 Căn cứ vào mức độ bảo đảm :

Tín dụng có bảo đảm.
Tín dụng không có bảo đảm.
 Căn cứ vào phương pháp hoàn trả :

Tín dụng trả góp.
Tín dụng phi trả góp.
Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu.

 Căn cứ vào nguồn gốc tín dụng:

Tín dụng trực tiếp.
10


Tín dụng gián tiếp.
 Căn cứ vào hình thái giá trị cấp tín dụng:

Tín dụng bằng tiền
Tín dụng bằng hiện vật.
RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG

1.2.

1.2.1.

Khái niệm rủi ro tín dụng

Rủi ro là sự không chắc chắn về mức độ thu nhập trong tương lai. Như vậy, trong
hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng thì rủi ro là không trách
khỏi. Trong đó, hoạt động tín dụng là hoạt động chính, thường xuyên và mang lại lợi
nhuận lớn nhất cho ngân hàng vì vậy nên cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hơn nữa, hoạt
động tín dụng là hoạt động giữa ngân hàng và khách hàng mà cụ thể là con người với
con người, mà quan hệ này luôn tiềm ẩn rủi ro. Vậy rủi ro tín dụng là gì? Rủi ro tín
dụng được định nghĩa là khả năng một người đi vay ngân hàng hoặc một đối tác không
thực hiện được nghĩa vụ nợ của mình theo các điều khoản đã thỏa thuận. Có thể thấy
bản chất của rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng. Là
những khoản mất mát, thiệt hại ngân hàng phải gánh chịu do người vay vốn hay người
sử dụng vốn không trả đúng hạn, không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết trong hợp

đồng tín dụng.

1.2.2.

Phân loại rủi ro tín dụng

Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng khác nhau tùy theo mục đích yêu cầu của việc
nghiên cứu hoặc quản lý. Đối với ngân hàng việc phân loại có ý nghĩa rất quan trọng,
nó liên quan tới việc thiết kế chính sách, quy trình, thủ tục và mô hình tổ chức của
ngân hàng nhằm đảm bảo nhận biết đầy đủ các nguyên nhân làm phát sinh rủi ro và
phân chia trách nhiệm giữa các bộ phận của ngân hàng. Tùy theo tiêu chí phân loại mà
người ta chia rủi ro tín dụng thành các loại khác nhau.
1.2.2.1.

Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia
thành các loại sau:

-Rủi ro giao dịch
Rủi ro giao dịch là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do
những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng.
Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là:
+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng,
khi ngân hàng lựa chọn phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay
11


+ Rủi ro đảm bảo: phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong hợp
đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, cách thức đảm bảo và mức
cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo
+ Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động

cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng cho vay và kỹ thuật xử lý các
khoản cho vay có vấn đề
-Rủi ro danh mục
Rủi ro danh mục là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do
những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành
hai loại rủi ro là rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
+ Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt
bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc
điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với
một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành,
lĩnh vực kinh tế, hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định, hoặc cùng một loại hình
cho vay có rủi ro cao.
1.2.2.2.

Căn cứ theo tính khách quan, chủ quan của nguyên nhân gây ra rủi ro
thì rủi ro tín dụng được phân thành rủi ro khách quan và rủi ro chủ quan

- Rủi ro khách quan: là những rủi ro do các nguyên nhân khách quan gây ra như thiên
tai, dịch họa, người vay bị chết, mất tích....và các biến động ngoài dự kiến khác làm thất
thoát vốn vay trong khi người vay đã thực hiện nghiêm túc chế độ chính sách.
- Rủi ro chủ quan: là rủi ro do chủ quan của người vay vì vô tình hay cố ý làm thất
thoát vốn vay hay vì những lý do chủ quan khác...
1.2.2.3.

Căn cứ vào khả năng trả nợ cho ngân hàng

- Rủi ro đọng vốn: xảy ra khi khách hàng không thể trả nợ đúng hạn như thỏa thuận
với ngân hàng. Điều này ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng gây khó
khăn khi cần chi trả cho người gửi tiền, tăng chi phí cho ngân hang (chi phí cơ hội, chi

phí xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi, chi phí giám sát, chí phí pháp lý)
- Rủi ro mất vốn: xảy ra khi khách hàng không trả được một phần hoặc toàn bộ nợ
vay, làm cho dòng tiền của ngân hàng bị giảm sút đồng thời doanh thu của ngân hàng
bị chậm lại hoặc mất đi.

1.2.3.

Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng

Hoạt động tín dụng là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu của các NHTM nhưng
đây cũng chính là lĩnh vực nghiệp vụ phức tạp và ẩn chứa nhiều rủi ro nhất. Do đó,
12


việc đi sâu nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng là thực sự cần thiết để các
ngân hàng thương mại có được các giải pháp cần thiết để hạn chế rủi ro này và đạt
được hiệu quả hoạt động cao nhất.Vì vậy, nhận diện những nguyên nhân gây ra rủi ro
tín dụng giúp ngân hàng có biện pháp phòng ngừa hiệu quả, giảm thiệt hại. Có 4 nhóm
nguyên nhân cơ bản sau:
1.2.3.1. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
- Chính sách tín dụng không hợp lý, quá nhấn mạnh vào mục tiêu lợi nhuận dẫn đến
cho vay đầu tư quá liều lĩnh, tập trung nguồn vốn cho vay quá nhiều vào một doanh
nghiệp hoặc một ngành kinh tế nào đó.
- Do thiếu am hiểu về thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin không đầy
đủ dẫn đến cho vay và đầu tư không hợp lý.
- Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay nên không phát hiện
kịp thời hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích.
- Do cạnh tranh của các NH mong muốn có tỷ trọng, thị phần cao hơn các ngân hàng
khác.
- Cán bộ tín dụng không tuân thủ chính sách tín dụng, không chấp hành đúng quy

trình cho vay. Cán bộ tín dụng yếu kém về trình độ nghiệp vụ, vi phạm đạo đức kinh
doanh.
- Định giá tài sản không chính xác, không thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý cần
thiết hoặc không đảm bảo các nguyên tắc của tài sản đảm bảo là dễ định giá và dễ
chuyển nhượng quyền sở hữu, dễ tiêu thụ.
1.2.3.2. Nguyên nhân thuộc về khách hàng
- Do khách hàng thiếu năng lực pháp lý
- Sử dụng vốn sai mục đích, kém hiệu quả.
- Do kinh doanh thua lỗ liên tục, hàng hoá không tiêu thụ được.
- Quản lý vốn không hợp lý dẫn đến thiếu thanh khoản
- Chủ doanh nghiệp vay vốn thiếu năng lực điều hành, tham ô, lừa đảo
- Khách hàng vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay nhiều
thực thể khác nhau nên thiếu sự phân tích trên tổng thể, khó theo dõi được dòng
tiền dẫn đến việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng thanh toán dây
chuyền.
1.2.3.3. Nguyên nhân khách quan
- Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây ra tổn thất
cho khách hàng vay vốn kinh doanh
- Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới. Bởi vì nền
kinh tế Việt Nam vẫn còn phụ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô,
may gia công... vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tổn
thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
- Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, nguyên vật liệu
đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng, khó khăn tài
13


chính dẫn đến không có khả năng trả nợ.
- Tình hình an ninh trong nước, trong khu vực bất ổn.


1.2.4.

Hậu quả của rủi ro tín dụng

1.2.4.1. Đối với ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho
vay, nhưng ngân hàng buộc phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn,
điều này sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chí, vòng quay vốn tín dụng
giảm làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu quả, chi phí của ngân hàng tăng lên so
với dự kiến.
Nếu một khoản vay nào đó bị mất khả năng thu hồi vốn thì ngân hàng phải sử dụng
các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, đến một chừng mực nào đó, ngân
hàng không có đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền thì ngân hàng sẽ rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy cơ gặp rủi ro thanh khoản. Và kết
quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút, uy tín, sức cạnh
tranh giảm không những trong thị trường nội địa mà còn lan rộng ra các nước, kết quả
kinh doanh của ngân hàng ngày càng xấu có thể dẫn ngân hàng đến thua lỗ hoặc đưa
đến bờ vực phá sản nếu không có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời.
Đối với nền kinh tế
Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính
chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức, các doanh nghiệp và
các cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở hữu những khoản cho vay là
quyền sở hữu của người gửi tiền vào ngân hàng. Bởi vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra thì
không chỉ ngân hàng bị thiệt hại mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng.
Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các
ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác
làm toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp phải khó khăn.
Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa,

sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm
cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất
ổn định. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới, vì ngày
nay, nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Kinh
nghiệm cho thấy cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á (1997), cuộc khủng hoảng tài
chính Nam Mỹ (2001–2002) và cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đã làm rung
chuyển toàn cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất
nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước
có liên quan.
Tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở các mức độ khác nhau: nhẹ nhất
là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân
1.2.4.2.

14


hàng không thu hồi được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và
mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản,
gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng.
Chính vì vậy đối với các nhà quản trị ngân hàng cần phải hết sức thận trọng và có
những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.

1.2.5.

Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng

1.2.5.1. Dấu hiệu từ phía ngân hàng .
Ngoài những dấu hiệu từ phía khách hàng thì ngân hàng cũng có những dấu hiệu để
nhận biết rủi ro do chính ngân hàng có thế gây ra do rủi ro tín dụng, có thể kể đến như
là:

+ sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng, ví dụ
như: đánh giá quá cao năng lực tài chính của một khách hàng so với thực tế, đánh giá
khách hàng chỉ thông qua một phía như thông tin tĩnh mà khách hàng cung cấp mà
thiếu đi những thông tin động từ nhiều nguồn khác… Bỏ qua các nghi ngờ được phản
ánh qua cấu trúc và cơ cấu của số liệu khi phân tích các dữ liệu tài chính, có dấu hiệu
che dấu việc đảo nợ bằng việc thường xuyên cấp các khoản vay mới. Hoặc che dấu nợ
quá hạn thông qua việc điều chỉnh kỳ hạn nợ và gia hạn nợ tràn lan
+ cấp tín dụng dựa trên những cam kết không chắc chắn và thiếu tính đảm bảo của
khách hàng về việc duy trì một khoản tiền gửi lớn hoặc các lợi ích do khách hàng đam
lại từ khoản tín dụng được cấp.
+ soạn thảo các điều kiện trong hợp đồng tín dụng không được rõ rang, không xác
định rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay, cố ý thỏa hiệp các nguyên tắc tín dụng
với khách hàng mặc dù biết là tiềm ẩn rủi ro.
+ chính sách tín dụng quá cứng nhắc hoặc quá lỏng lẻo để kẽ hở cho khách hàng lợi
dung…
1.2.5.2. Dấu hiệu từ phía khách hàng
1.2.5.2.1. Dấu hiệu tài chính
Các dấu hiệu tài chính được biểu hiện thông qua chi tiêu định lượng, cụ thể gồm 4
nhóm chỉ tiêu
 Nhóm khả năng thanh khoản cho biết dấu hiệu suy yếu (khả năng chuyển đổi tài

sản thành tiền mặt để trả nợ cho ngân hàng ) gồm: Hệ số khả năng thanh toán
tổng quát, hệ số thanh toán ngắn hạn, hệ số khả năng thanh toán nhanh, hệ số
thanh toán lãi vay.
 Các hệ số khả năng sinh lời cho thấy dấu hiệu suy yếu : ROA (tỷ suất lợi
nhuận/tổng tài sản), ROE ( tỷ suất lợi nhuận / vốn chủ sở hữu) ROS.
15


 Vòng quay hoạt động thể hiện sự suy yếu : vòng quay khoản phải thu. Vòng quay


khoản phải trả, vòng quay vốn lưu động, vòng quay toàn bộ vốn.
 Cơ cấu vốn không hợp lý : Hệ số nợ, hệ số tự tài trợ , hệ số tự tài trợ tài sản cố định

1.2.5.2.2. Dấu hiệu phi tài chính
 Dấu hiệu phi tài chính liên quan tới khách hàng ( quan hệ với ngân hàng)
− Giảm sút mạnh số dư tiền gửi
− Công nợ gia tăng
− Mức độ vay thường xuyên
− Yêu cầu khoản vay vượt quá nhu cầu vay
− Chấp nhận nguồn tài trợ lãi suất cao
 Dấu hiệu phi tài chính liên quan phương pháp quản lý của khách hàng
− Có sự thay đổi cơ cấu nhân sự trong hệ thống quản trị
− Xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống điều hành
− Ít kinh nghiệm ,xuất hiện nhiều hành động nhất thời, không có khả năng đối

phó với những thay đổi
− Thuyên chuyển nhân viên quá thường xuyên
− Tranh chấp trong quá trình quản lý
− Chi phí quản lý bất hợp pháp
− Quản lý có tính gia đình
 Dấu hiệu vấn đề kỹ thuật và thương mại( bản thân thực hiện phương án và hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp)
− Khó khăn trong phát triển sp mới hoặc không có sản phẩm thay thế
− Những thay đổi của chính sách của nhà nước
• Chính sách thuế
• Môi trường
− Thay đổi trong quyền sở hữu
− Thay đổi ngành nghề kinh doanh
− Sản phẩm có tính thời vụ cao

− Có biểu hiện cắt giảm chi phí
− Thay đổi trên thị trường về tỷ giá, lãi suất
− Mất khách hàng lớn
− Vấn đề về thị hiếu.
 Dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính (tính chính xác và hợp lý của thông tin đưa

ra)
Sự gia tăng tỷ lệ không cân đối nợ
Chuẩn bị số liệu tài chính không đủ, trì hoàn bất thường của người vay trong
nộp báo cáo tài chính và các khoản thanh toán theo kế hoạch cũng như trì hoãn
giao tiếp với nhân viên ngân hàng
− Đối với những món vay kinh doanh là những thay đổi bất thường xuất hiện
trong các phương pháp mà người vay sử dụng để tính KH tài sản, trả tiền trợ
cấp ...
− Cấu trúc lại số dư nợ, không chia cổ tức hay sự thay đổi mức phân hạng của
khách hàng là những dấu hiệu cần chú ý



16


Những dấu hiệu bất lợi về giá cổ phiếu của khách hàng vay vốn
Độ chênh lệch doanh thu và dòng tiền dự kiến khi khách hàng xin vay
Khả năng tiền mặt giảm
Phải thu tăng doanh với thời hạn thanh toán kéo dài.
Những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không dự kiến được trong số dư
tiền gửi của khách hàng
Kết quả kinh doanh lỗ
Dấu hiệu phi tài chính khác

Sự xuống cấp của cơ sở kinh doanh
Hàng tồn kho tăng nhanh do không bán được, hư hỏng, lạc hậu
Có sự kỷ luật với cán bộ chủ chốt












1.2.6.

Đo lường rủi ro tín dụng

Các chỉ số để đánh giá rủi ro tín dụng được chia làm 3 nhóm chính là :
1.2.6.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá tình hình nợ quá hạn:
− Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và lãi đã quá hạn. Nợ quá
hạn xảy ra khi khách hàng không trả gốc và lãi theo đúng thời hạn qui định trong hợp
đồng tín dụng. Nợ quá hạn là thước đo quan trọng nhất trong đánh giá sự lành mạnh
thể chế, nó tác động tới tất cả các lĩnh vực hoạt động chính của Ngân hàng. Ngân hàng
nào có tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng càng lớn vì
với những khoản nợ quán hạn không thu hồi được sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình
khai thác và sử dụng nguồn vốn của ngân hàng. Hơn nữa nợ quá hạn tăng lên làm xuất
hiện nguy cơ của nợ mất vốn , làm cho khả năng mất vốn của ngân hàng gia tăng, ảnh

hưởng đến dòng tiền dự tính thu về qua đó tác động đến cung thanh khoản của ngân
hàng, nếu ngân hàng không dự tính được điều này thì phải tìm dòng tiền để bù đắp, lúc
này ngân hàng phải đi vay với lãi suất cao để bù đắp.
Nợ quá hạn làm tăng chi phí của ngân hàng, với một khoản tín dụng gặp rủi ro,
ngân hàng phải tốn các chi phí cho viêc đôn đốc, giám sát thu hồi nợ, chi phí cơ hội
cao,…
Tỷ lệ “Nợ quá hạn” phản ánh số dư nợ gốc và lãi đã quá hạn mà chưa thu hồi được.
Nợ quá hạn cho biết , cứ trên 100 đồng dư nợ hiện hành có bao nhiêu đồng đã quá hạn,
đây là một chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ
nợ quá hạn cao chứng tỏ chất lượng tín dụng thấp; ngược lại, tỷ lệ nợ quá hạn thấp
chứng tỏ chất lượng tín dụng cao.
− Tỷ lệ KH có nợ quá hạn
Chỉ tiêu này cho biết, cứ 100 KH vay vốn thì có bao nhiêu khách đã quá hạn. Nếu tỷ
lệ này cao, phản ánh chính sách tín dụng của ngân hàng là không hiệu quả. Ngoài ra,
nếu chỉ tiêu này thấp hơn chỉ tiêu “Nợ quá hạn”, cho biết nợ quá hạn tập trung vào
những KH lớn; ngược lại, nếu chỉ tiêu này cao hơn chỉ tiêu “Nợ quá hạn”, cho biết nợ
17


quá hạn tập trung vào những KH nhỏ.
1.2.6.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá rủi ro mất vốn gồm:
− Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Chỉ số này cho biết bao nhiêu phần trăm dư nợ được trích lập dự phòng. Phản ánh
khả năng dự phòng rủi ro trong trường hợp rủi ro xảy ra. Chỉ số này càng cao cho thấy
chất lượng các khoản tín dụng của ngân hàng đang tiêu cực và khả năng thu hồi nợ
thấp. Nếu chỉ số này thấp thì có thể phản ánh chất lượng cải thiện của các khoản nợ,
hoặc có thể do các khoản dự phòng chưa được trích lập đủ theo quy định.
− Tỷ lệ mất vốn
Những khoản nợ khó đòi sẽ đượcđể ngoại bảng trong vòng 5 năm, nếu không thu hồi
được thì xóa nợ, nếu sau đó thu hồi được thì nhập vào thu nhập khác. Trong vòng 5

năm phải đôn đốc, khi có chỉ định của cơ quan nhà nước mới được phép xóa nợ,
không được phép tự xóa . Như vậy, một ngân hàng có tỷ lệ xóa nợ cao thể hiện tỷ lệ
mất vốn lớn, nghĩa là mức độ rủi ro (chất lượng) tín dụng thấp.
1.2.6.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng bù đắp rủi ro
− Hệ số khả năng bù đắp các khoản cho cho vay bị mất:


Hệ số khả năng bù đắp rủi ro tín dụng:



Khả năng bù đắp rủi ro :

So sánh, nhận xét, đánh giá các chỉ tiêu qua các thời kỳ, so sánh với trung bình
nghành và với quy định của nhà nước theo quy định của thông tư 13/2010/TT-NHNN
và thông tư 19/2010/TT-NHNN về tỷ lệ an toàn vốn.
Một chỉ tiêu quan trọng khác đánh giá rủi ro tín dụng là tỷ lệ nợ xấu. Thông thường
tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng là dưới 5% vẫn được xem là trong giới hạn an toàn cho
phép.
Tỷ lệ nợ xấu được tính theo công thức sau:
Tỷ lệ “ Nợ xấu” cho biết, trong 100 đồng tổng dư nợ thì có bao nhiêu đồng là nợ xấu,
chính vì vậy, tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng tín dụng của ngân
hàng. Nợ xấu phản ánh khả năng thu hồi vốn khó khăn, vốn của ngân hàng lúc này
không còn ở mức độ rủi ro thông thường nữa mà là nguy cơ mất vốn. Nợ xấu bao gồm
nợ nhóm 3,4,5 theo khoản 8 điều 3 thông tư 02/2013/TT-NHNN.
1.3. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ RRTD CỦA HÀN QUỐC VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI CÁC NHTM VIỆT NAM
1.3.1. Kinh nghiệm từ các ngân hàng của Hàn Quốc
Những yếu kém trong cấu trúc của nền kinh tế Hàn Quốc là vốn dựa quá nhiều vào
18



việc mở rộng thị trường và vay mượn, cộng với việc dòng vốn nước ngoài bị các nhà
đầu tư nước ngoài rút ra trong cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997 đã dẫn tới cuộc
khủng hoảng tín dụng và sau đó là khủng hoảng tiền tệ tại quốc gia này. Tính đến cuối
tháng 3/1998, tổng nợ xấu của các tổ chức tài chính (TCTC) của Hàn Quốc lên tới 118
nghìn tỷ Won(18% tổng dư nợ), chiếm tới 27% GDP; trong đó, 50 nghìn tỷ Won là
các khoản nợ quá hạn từ 3 đến 6 tháng, chiếm 42% tổng nợ xấu, 68 nghìn tỷ Won còn
lại là các khoản nợ quá hạn trên 6 tháng và có nguy cơ vỡ nợ cao.
Chính phủ Hàn Quốc đã quyết định trong số 118 nghìn tỷ Won nợ xấu, số nợ xấu trị
giá 100 nghìn tỷ Won (bao gồm 68 tỷ Won các khoản nợ quá hạn trên 6 tháng và có
nguy cơ vỡ nợ cao, một phần các khoản nợ quá hạn từ 3 đến 6 tháng, và các khoản nợ
xấu có thể phát sinh trong quá trình xử lý nợ xấu) cần được xử lý ngay lập tức bằng 2
biện pháp: (1) Buộc các tổ chức tín dụng phải sử dụng vốn để xử lý một nửa giá trị các
khoản nợ xấu bằng việc yêu cầu các khách hàng trả nợ hoặc bán tài sản thế chấp; (2)
để Công ty Quản lý Tài sản Hàn Quốc (Korean Asset Management CorporationKAMCO) mua lại một nửa các khoản nợ xấu.
Để thực hiện quá trình xử lý nợ xấu, Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng tiêu chuẩn
phân loại nợ quốc tế để đánh giá thực trạng nợ xấu của các TCTC. Liên tiếp trong
khoản thời gian từ tháng 3/1998 đến tháng 3/2000, tiêu chuẩn phân loại nợ được thắt
chặt, theo đó, các TCTC được yêu cầu phân loại nợ quá hạn từ 3 tháng trở lên là nợ
xấu, đến phân loại những khoản nợ dựa trên khả năng tài chính của khách hàng vay
vốn trong tương lai đối với việc hoàn thành nghĩa vụ với ngân hàng, và ở mức độ thắt
chặt hơn nữa khi phân loại các khoản vay có mức độ rủi ro lớn ngay cả khi khách hàng
trả được lãi vào nhóm nợ xấu. Theo tiêu chí phân loại nợ, 68 nghìn tỷ Won nợ xấu quá
hạn trên 6 tháng đã tăng lên 88 nghìn tỷ Won vào cuối năm 1999.
Để giải quyết khoản nợ xấu tương đương 27% GDP đi kèm với tái cấu trúc hệ thống
tài chính đang suy yếu, Chính phủ Hàn Quốc đã huy động tới 157 nghìn tỷ Won.
Trong số này, 60 nghìn tỷ Won được sử dụng để bơm vốn thêm vào cho các TCTC, 39
nghìn tỷ Won được sử dụng để mua các khoản nợ xấu từ các TCTC, 26 nghìn tỷ Won
để trả cho người gửi tiền của các TCTC bị vỡ nợ… Trong số 157 nghìn tỷ Won thì 104

nghìn tỷ Won được huy động thông qua phát hành trái phiếu của Hiệp hội Bảo hiểm
Tiền gửi Hàn Quốc (Korean Deposit Insurance Corporation- KDIC) và KAMCO được
Chính phủ bảo lãnh. Khoản tiền huy động này được thu hồi tới 56% thông qua việc
bán lại cổ phần của các ngân hàng đã được bơm vốn, giá trị thu hồi được từ xử lý các
khoàn nợ xấu và bán các tài sản thế chấp. Số tiền không thu hồi được được chuyển
thành khoản nợ của Chính phủ thông qua việc chuyển các trái phiếu thành trái phiếu
Chính phủ, tăng phí bảo hiểm tiền gửi…
KAMCO, tiền thân là công ty con của Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc, đã được cải
tiến lại chức năng và nhiệm vụ thành cơ quan chuyên giải quyết nợ xấu thông qua Đạo
luật quản lý hiệu quả nợ xấu của các TCTC và sự thành lập Cơ quan quản lý tài sản
Hàn Quốc (the KAMCO Act). Chủ sở hữu của Công ty Quản lý Tài sản Hàn Quốc là
19


Bộ Tài chính và Kinh tế, Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc, và các TCTC khác, được
quản lý bởi ban điều hành là các đại diện đến từ các chủ sở hữu cộng thêm đại diện từ
Ủy ban Giám sát Tài chính, Công ty Bảo hiểm Tiền gửi, Hiệp hội các ngân hàng, và 3
chuyên gia độc lập, hoạt động dưới sự giám sát của Ủy ban Giám sát tài chính.

(Nguồn website: thoibaonganhang.vn)
KAMCO ưu tiên mua các khoản nợ mà có thể dễ dàng chuyển giao quyền thu nợ, các
khoản nợ có thể giúp các TCTC khôi phục lại hoạt động và hình ảnh trước công
chúng, và các khoản cho vay đồng tài trợ. Quy trình đánh giá các khoản vay được tiến
hành kỹ lưỡng nhằm bảo đảm các khoản nợ mua về vừa hỗ trợ được các TCTC vừa
bảo đảm được hiệu quả hoạt động của Công ty. Các khoản nợ do KAMCO mua lại
được chia thành 6 nhóm: Nợ thông thường có bảo đảm (chiếm 17,9% tổng tiền), nợ
thông thường không có bảo đảm (5,8%), nợ đặc biệt có bảo đảm (32,2%), nợ đặc biệt
không có bảo đảm (10,6%), nợ của tập đoàn Daewoo (32%) và nợ được gia hạn lại
(1,5%) với mức giá so với giá trị khoản vay tương ứng là 67%, 11,4%, 47,4%, 29%,
35,9% và 23,1%. Khoản nợ xấu được định giá dựa trên khả năng thu hồi nợ, tài sản

bảo đảm và phương pháp định giá được thay đổi tùy theo từng thời kỳ. Đa phần các
khoản tiền được sử dụng để mua nợ từ các ngân hàng (chiếm 62,1%), công ty ủy thác
đầu tư (21,1%) và công ty bảo hiểm (4,5%). Tổng cộng, KAMCO đã bỏ ra 39,7 nghìn
tỷ Won, chiếm tới 36% giá trị các khoản vay, 110,1 nghìn tỷ Won, để mua các khoản
nợ xấu trong vòng 5 năm từ năm 1997 đến 2002.
Sau khi mua lại, KAMCO sẽ nhóm các khoản nợ xấu này lại để phát hành các chứng
khoán có đảm bảo bằng tài sản dựa trên các khoản nợ xấu đã mua hoặc bán cho các
nhà đầu tư thông qua đấu giá quốc tế cạnh tranh. Luật Chứng khoán có bảo đảm bằng
tài sản đã được ban hành để thúc đẩy việc bán các khoản nợ cho các công ty có chức
20


năng chứng khoán hóa các khoản xấu và bán lại cho các nhà đầu tư. Hàn Quốc đã rất
thành công trong việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào xử lý nợ xấu thông
qua mua các trái phiếu được bảo đảm bằng các khoản nợ xấu cũng như mua các khoản
nợ xấu thông qua đấu giá. Chính sự thành công trong việc thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài đã khuyến khích các nhà đầu tư trong nước đầu tư vào các chứng khoán cũng
như các khoản nợ xấu này. Bên cạnh đó, KAMCO cũng tịch thu tài sản thế chấp của
các khoản nợ có đảm bảo để bán thu hồi lại tiền. KAMCO nắm giữ các khoản nợ xấu
và cố gắng tái cơ cấu nợ, tái tài trợ hay chuyển đổi nợ thành vốn chủ sở hữu nếu công
ty đó có khả năng hồi phục, giảm lãi suất, giãn nợ… Ngoài ra, còn có các biện pháp
khác như truy đòi lại chủ nợ ban đầu của khoản nợ xấu, bán khoản nợ cho các công ty
quản lý tài sản, công ty tái cơ cấu doanh nghiệp để mua lại cổ phiếu của các công ty
này và tiến hành tái cơ cấu lại hoạt động của công ty… Trong khoảng thời gian từ năm
1997 đến 2002, KAMCO đã thu hồi được 30,3 nghìn tỷ Won, tương ứng với tỷ lệ thu
hồi là 46,8% trên giá trị khoản nợ.
Nhờ sử dụng đồng loạt các biện pháp xử lý nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu đã giảm từ 17,7%
vào năm 1998 xuống còn 14,9%, 10,4%, 5,6%, và 3,9% vào các năm 1999, 2000, 2001
và 2002. Hàn Quốc đã thực hiện thành công việc giải quyết nợ xấu, tái cơ cấu doanh
nghiệp, tái cơ cấu khu vực tài chính góp phần ổn định nền kinh tế là do Chính phủ Hàn

Quốc đã có những can thiệp nhanh chóng, kịp thời và toàn diện, triển khai các biện
pháp xử lý nợ xấu hợp lý khi đưa KAMCO vào hoạt động và phát triển thị trường thứ
cấp cho các khoản nợ xấu, các chứng khoán được bảo đảm bằng nợ xấu được tiến
hành giao dịch thuận lợi, thu hút các nhà đầu tư.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tín dụng các nước xuất phát phần lớn từ việc
quản lý kiểm soát khoản vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán còn yếu kém,
chất lượng tín dụng chưa được coi trọng, có nhiều khoản vay dưới chuẩn, không thẩm
định kỹ trước khi cho vay, sử dụng nguồn huy động ngắn hạn để đầu tư vào những
khoản dài hạn như bất động sản nên không tránh khỏi rủi ro mất khả năng thanh toán
và không thu hồi được nợ. Từ đó có thể rút ra những bài học rất hữu ích cho hoạt động
tín dụng của các NHTM Việt Nam, cụ thể:
Thứ nhất, ngân hàng thực hiện chặt chẽ quy trình cho vay và kiểm tra sau vay.
Thứ hai, cần quan tâm khách hàng chủ yếu dựa trên cơ sở khả năng trả nợ, dòng tiền
thuần, thiện chí trả nợ, tài sản đảm bảo, trách nhiệm pháp luật về thanh toán nợ vay
của khách hàng.
Thứ ba, ngân hàng cần xây dựng danh mục theo dõi cơ cấu và chất lượng của toàn
bộ các khoản cho vay để nhận biết những dấu hiệu cảnh báo sớm vấn đề bất ổn về tín
dụng.
Thứ tư, cần thiết lập môi trường quản lý rủi ro tín dụng một cách thích hợp, có hệ
thống đo lường và kiểm soát rủi ro tín dụng chặt chẽ.
Thực tế, qua nghiên cứu thị trường tín dụng Việt Nam cho thấy nguyên nhân các
21


khoản nợ xấu xuất phát từ:
1.3.2.1. Về phía ngân hàng
- Dư nợ tín dụng tăng quá nhanh trong khi trình độ chuyên môn, đạo đức của cán bộ tín
dụng chưa đạt chuẩn, bộ máy quản lý tín dụng của ngân hàng còn nhiều yếu kém.
- Vấn đề thẩm định, đinh giá hiệu quả thực tế của phương án dự án còn mang tính

hình thức, chủ yếu cho vay dựa trên tài sản đảm bảo.
- Danh mục đầu tư tín dụng của ngân hàng không đa dạng, quá tập trung vào cho vay
đầu tư chứng khoán, kinh doanh bất động sản ... Cơ cấu khoản vay kém hiệu quả, cho
vay quá khả năng chi trả của khách hàng.
- Tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo quá cao, đặc biệt là các lĩnh vực như đầu
tư chứng khoán, bất động sản, thu mua nông sản tích trữ dẫn đến khi giá trị hàng hóa
trên thị trường sụt giảm khách hàng không có đủ nguồn vốn để trả nợ ngân hàng.
- Việc giám sát giải ngân và sau giải ngân kém hiệu quả dẫn đến khách hàng sử dụng
vốn vay sai mục đích, không kiểm soát được nguồn trả nợ.
1.3.2.2. Về phía khách hàng
Một là, do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích. Trường hợp này thường xảy ra đối
với khách hàng hoặc khoản vay có các đặc điểm như sau:
- Khách hàng giải ngân tiền mặt và sử dụng tiền cho các mục đích khác với mục đích
vay vốn.
- Cùng lúc triển khai nhiều dự án, phương án (nhất là lĩnh vực xây dựng, kinh doanh
bất động sản), dùng nguồn thu dự kiến của dự án, phương án này làm nguồn trả nợ
cho dự án, phương án khác ở mức độ thường xuyên và quá mức.
- Số tiền vay quá lớn so với nhu cầu vốn lưu động thực sự của khách hàng, khách
hàng cùng lúc vay nhiều tổ chức tín dụng, dẫn đến cạnh tranh quá mức và không kiểm
soát được dòng tiền của đơn vị.
- Khách hàng có nhiều chi nhánh/đơn vị kinh doanh phụ thuộc ở nhiều địa bàn xa so
với địa bàn của ngân hàng.
- Vay đầu tư dự án với thời hạn không phù hợp với khả năng khấu hao, dẫn đến
khách hàng buộc phải dùng nguồn ngắn hạn lưu động để trả nợ trung dài hạn.
- Thời hạn vay dài hơn mức cần thiết so với chu kỳ dòng tiền, dẫn đến khách hàng sử
dụng tạm thời nguồn tiền khi chưa đến hạn trả nợ cho ngân hàng.
Hai là, khách hàng bị chiếm dụng vốn, mất cân đối tiền vay và tài sản hình thành từ
vốn vay. Rủi ro này thường xảy ra trong các lĩnh vực hoặc các khách hàng/khoản vay
có các đặc điểm sau:
- Giải ngân tiền mặt để ứng vốn cho các đại lý thu mua nhưng không kiểm soát

được chất lượng và số lượng đại lý dẫn đến bị chiếm dụng, thất thoát..
- Khách hàng không có chính sách, biện pháp quản lý các khoản phải thu (nhất là
lĩnh vực xây dựng cơ bản, sử dụng vốn ngân sách)
- Khi khách hàng gặp khó khăn, các chủ đầu tư khác trước đây góp vốn bằng tài sản,
sau đó tìm cách rút vốn ra bằng tiền mặt.
Ba là, khách hàng không tiêu thụ được sản phẩm, thường xảy ra trong các lĩnh vực
hoặc các khách hàng/khoản vay có các đặc điểm sau:
- Đầu tư sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm với thời gian dài hơn vòng đời thực tế,
22


có trường hợp thời gian cho vay là 8 năm trong khi sản phẩm có vòng đời thực tế dưới
5 năm.
- Đầu tư sản xuất vật liệu mới nhưng chưa có chứng nhận kiểm định được lưu hành,
không đánh giá đúng khả năng cạnh tranh so với sản phẩm hiện có…
Bốn là, khách hàng không đủ vốn lưu động để kinh doanh, thường xảy ra trong các
lĩnh vực hoặc các khách hàng/khoản vay có các đặc điểm sau:
- Khi vay đầu tư dự án nhưng không tính đúng, tính đủ tổng mức đầu tư cần thiết,
nhất là nhu cầu vốn lưu động.
- Khách hàng không có đủ vốn đối ứng như cam kết do năng lực kém hoặc do tính
toán vốn tự có trên cơ sở bán sản phẩm…
- Khách hàng có hệ số nợ vay/vốn tự có rất cao ( từ 4-5 lần trở lên)
Năm là, khách hàng không có đủ hoặc không thu xếp được nguồn vốn như kế hoạch,
thường xảy ra trong các lĩnh vực hoặc các khách hàng/khoản vay có các đặc điểm sau:
- Khách hàng không đủ khả năng về vốn tự có, thường xảy ra ở các dự án bất động
sản, mua máy móc thiết bị, các dự án mà nhà đầu tư kê vốn tự có tham gia rất lớn, vốn
tự có dựa vào nguồn phát hành trong tương lai….. Vay bắc cầu ngắn hạn hoặc mở L/C
bảo lãnh nhập khẩu máy móc thiết bị dựa vào nguồn vốn trung dài hạn chưa chắc
chắn.
- Triển khai đầu tư tại thời điểm thị trường tài chính quá thuận lợi, dẫn đến chủ quan

trong tính toán tính khả thi của thu xếp nguồn vốn.
Sáu là, khách hàng không thể kiểm soát tổng thể tình hình kinh doanh hoạt động của
mình do khách hàng có nhiều đơn vị hạch toán phụ thuộc nằm ở nhiều địa bàn khác
nhau, hệ thống báo cáo kế toàn, tài chính lạc hậu, chậm trễ, không chính xác.
Bảy là, khách hàng đầu tư ở những lĩnh vực nhạy cảm dễ thay đổi chính sách như
trong các hoạt động kinh doanh thương mại nhâp hàng về bán, đầu tư kinh doanh bất
động sản…
Tám là, khách hàng đầu cơ theo giá trị tài sản:
- Dùng tài sản là bất động sản, chứng khoán thế chấp vay với mục đích khác nhau,
vay chỉ dựa vào tài sản thế chấp.
- Cá nhân vay giá trị lớn với mục đích mua nhà, bất động sản. Chín là, khách hàng
có chủ đích lừa đảo, thường xảy ra đối với việc thành lập nhiều công ty trong cùng
một nhóm để vay vốn; hoặc đối với các chủ doanh nghiệp là người nước ngoài, Việt
kiều đầu tư nhập khẩu máy móc thiết bị

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 của chuyên đề đã khái quát các vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng: khái
niệm về rủi ro tín dụng ngân hàng, phân loại rủi ro tín dụng, nguyên nhân gây ra rủi ro
tín dụng, những dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng, các chỉ tiêu đánh giá mức độ rủi ro
tín dụng của một ngân hàng, những thiệt hại do rủi ro tín dụng. Đồng thời, chuyên đề
23


cũng đề cập đến kinh nghiệm của Hàn Quốc về quản lý rủi ro tín dụng từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm quý giá về quản lý rủi ro tín dụng cho các NHTM Việt
Nam.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN
DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NNo & PTNT AGRIBANK CHI NHÁNH HÀ
TÂY.

2.1.

TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG NNo&PTNT AGRIBANK CHI NHÁNH
HÀ TÂY.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Năm 1991 NH NNo Tỉnh Hà Tây được thành lập trên cơ sở sát nhập 8 đơn vị thuộc
NHNo Hà Sơn Bình và 6 đơn vị thuộc NHNNo Thành phố Hà Nội. Về mô hình tổ
chức ban đầu, toàn tỉnh có 14 chi nhánh NHNNo huyện, thị xã, 17 phòng giao dịch và
bàn tiết kiệm; địa bàn hoạt động trải rộng trên khắp các địa bàn trong tỉnh Hà Tây cũ.
Từ một Ngân hàng bao cấp chuyển hẳn sang thương mại, gặp không ít những khó
khăn, trong bối cảnh nền kinh tế tiền tệ lạm phát cao, doanh nghiệp Nhà nước và các
đơn vị kinh tế tập thể là đối tượng khách hàng chính của NHNNo lần lượt giải thể và
24


tan rã, về cơ sở vật chất và phương tiện phục vụ kinh doanh thiếu và lạc hậu, đội ngũ
cán bộ công nhân viên đông, biên chế ban đầu là 1.181 người, trình độ bất cập.
Tổng số nguồn vốn huy động là 77,9 tỷ, dư nợ cho vay các thành phần kinh tế là
46,2 tỷ, trong đó chủ yếu là dư nợ cho vay doanh nghiệp quốc doanh và kinh tế tập thể
chiếu 89%; nợ quá hạn là 7,8 tỷ chiếm tỷ lệ 16,8% trong tổng dư nợ; kết quả tài chính
lỗ 5,2 tỷ đồng.
Bước sang thế kỷ mới, hoạt động trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát
triển, NHNNo&PTNT Hà Tây vẫn luôn kiên định với đường lối chính sách của Đảng,
Nhà nước và của ngành. Hoạt động kinh doanh của chi nhánh đã bước sang một tầm
cao mới, trở thành lá cờ đầu trong hệ thống NHNNo&PTNT Việt Nam - khu vực đồng
bằng sông hồng. Thực hiện Nghị quyết ngày 29/05/2008 của Quốc hội về vệc điều
chỉnh địa giới hành chính thủ đô Hà Nội và các tỉnh, có hiệu lực từ 1/8/2008, toàn bộ
Tỉnh Hà Tây cũ đã được sát nhập về Thủ đô Hà Nội. NHNNo&PTNT Hà Tây vẫn
được giữ nguyên mô hình cũ nhưng không còn là đầu mối của một tỉnh thành trực
thuộc trung ương nữa.

Với sự đạo của ngân hàng cấp trên cùng sự quyết tâm khẳng định vị thế cũng như
thương hiệu của một NHNNo&PTNT Hà Tây – đơn vị anh hùng lao động trong thời
kỳ đổi mới, chi nhánh đã vượt qua được những khó khăn, bước đầu đi vào ổn định và
thực sự cạnh tranh sòng phẳng với các ngân hàng thương mại trên địa bàn. Kết thúc
năm 2014, NHNNo&PTNT Hà Tây đã đạt được những thành tích đáng kể, cụ thể:
tổng nguồn vốn huy động quy đổi sang VNĐ đạt 19.723 tỷ, dư nợ cho vay là 12.914
tỷ, quỹ thu nhập lên đến 426 tỷ. Đây là kết quả khẳng định cho đường lối, chính sách
đúng đắn, xứng đáng với sự quyết tâm của toàn chi nhánh.

25


×