Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Khoá luận tốt nghiệp Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại tại Tòa án Thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.45 KB, 46 trang )

LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Kinh tế - Luật trường đại học Thương Mại và được
sự đồng ý của cô giáo hướng dẫn TS. Đinh Thị Thanh Nhàn em đã thực hiện đề tài
nghiên cứu“Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại tại Tòa
án - Thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình.
Để hoàn thành khóa luận này, em xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo đã
tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu và rèn luyện
ở trường Đại học Thương Mại.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn TS. Đinh Thị Thanh Nhàn đã tận
tình, chu đáo hướng dẫn em thực hiện khóa luận này.
Trong quá trình thực tập, cũng như là trong quá trình làm bài báo cáo thực tập,
trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên bài báo cáo không
thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp Thầy, Cô để
bài khóa luận của em được hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài

Trong bối cảnh đất nước đang phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội;
hoạt động kinh doanh thương mại của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những tác động cũng như đóng góp đáng kể cho sự
phát triển chung của đất nước. Sự phát triển của các thành phần kinh tế, sự gia tăng số
lượng các doanh nghiệp đã và đang tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn
nhưng cũng không kém phần phức tạp và cạnh tranh gay gắt. Các tranh chấp kinh
doanh, thương mại cũng từ đó mà phát sinh với số lượng ngày càng tăng qua các năm
cùng với tính chất phức tạp của nó. Vì vậy việc giải quyết các tranh chấp phát sinh là


điều cần thiết để đảm bảo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể kinh
doanh và để giúp các doanh nghiệp tránh được những hậu quả tiêu cực do mâu thuẫn
và xung đột lợi ích gây ra.
Khi các quan hệ kinh doanh càng phát triển, những tranh chấp xảy ra là điều
không tránh khỏi, những lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp nào vừa đảm bảo có
lợi cho thương nhân vừa duy trì được mối quan hệ làm ăn là việc mà các thương nhân
cần cân nhắc. Pháp luật hiện hành công nhận các phương thức giải quyết tranh chấp
trong kinh doanh sau: Thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Theo đó, khi xảy ra
tranh chấp kinh doanh các bên có thể giải quyết tranh chấp thông qua việc trực tiếp
thương lượng với nhau. Trong trường hợp không thương lượng được, việc giải quyết
tranh chấp có thể được thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ ba thông qua phương
thức hòa giải, trọng tài hoặc tòa án.
Toà án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền
lực nhà nước được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay
quyết định của Toà án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được
đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Ở Việt Nam các đương sự
thường lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Toà án
như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích của mình khi
thất bại trong việc sử dụng cơ chế thương lượng, hoà giải. Nếu như việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài mang đặc điểm tôn trọng quyền thỏa thuận hay ý chí của các
bên tham gia để đưa ra phán quyết thì đặc trưng cơ bản của thủ tục giải quyết tranh
chấp bằng Tòa án là thông qua hoạt động của bộ máy tư pháp và nhân danh quyền lực
nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành, kể cả bằng sức
mạnh cưỡng chế. Nhờ đó, việc giải quyết tranh chấp thương mại thông qua Tòa án còn

3


trực tiếp góp phần vào việc nâng cao ý thức, tôn trọng pháp luật cho các chủ thể kinh
doanh.

Trong thời gian thực tập tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, em đã nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình từ phía cán bộ của cơ quan đã tạo điều kiện cho em có thể
thực sự tham gia vào hoạt động thụ lí đơn và xét xử các vụ án dân sự, hình sự và kinh
doanh thương mại. Đây có thể xem như một tiền đề về kiến thức thực tế quan trọng để
em bắt đầu sự nghiệp của mình. Chính từ thực tế này, em quyết định chọn đề tài “Pháp
luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại tại Tòa án - Thực tiễn thực
hiện tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình” là đề tài khóa luận của mình.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan

Theo số liệu đánh giá của ngành Tòa án, hàng năm mỗi đơn vị Tòa án cấp quận
huyện thụ lý hàng trăm vụ án lớn nhỏ liên quan đến tranh chấp kinh doanh thương
mại. Hầu hết là các tranh chấp từ hợp đồng mua bán hàng hóa, tranh chấp hợp đồng tín
dụng, tranh chấp hợp đồng dịch vụ, yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán…Sự gia
tăng của các tranh chấp như trên cũng như những loại án đặc thù trong lĩnh vực kinh
doanh thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp, đòi hỏi sự không ngừng nghiên cứu
và làm mới các yêu cầu luật pháp cũng như chuyên môn trong lĩnh vực giải quyết
tranh chấp loại này để giải quyết ổn thỏa, đảm bảo quyền lợi cho các bên là việc làm
không phải đơn giản. Để đáp ứng nhu cầu này, đã có rất nhiều các công trình nghiên
cứu và nhiều bài viết về vấn đề này. Có thể kể đến là:
- Chuyên đề “ Thực trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Tòa Kinh tế - Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam” được đăng tại thư viện chia sẻ luận
văn đăng ngày 11/12/2013.
- Chuyên đề “ Thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Toà kinh
tế - Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ” đăng tại tài liệu – ebook ngày 22/01/2014.
- Tiểu luận môn học luật Kinh Doanh với đề tài: “Giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại bằng tố tụng tòa án” của nhóm lớp: MBA11B Thành viên
nhóm 13: 1) Nguyễn Trung Kiên – MBAB11026 2) Ngô Huỳnh Kỳ – MBAB11027 3)
Bùi Thành Kỷ – MBAB11028 4) Huỳnh Thị Bích Loan – MBAB11032 5) Trần Ngọc
Minh Thư – MBAB11044 Tp. HCM, tháng 12 năm 2011.
- Luận văn thạc sĩ học của Đinh Thị Trang thuộc Khoa luật – Đại học Quốc gia

Hà Nội nghiên cứu về “Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
theo thủ tục tố tụng Tòa án ở Việt Nam hiện nay”.

4


- Khóa luận tốt nghiệp của Bùi Trọng Tuấn thuộc khoa Kinh Tế Ngoại Thương
của trường đại học Ngoại thương nghiên cứu đề tài “ Giải quyết tranh chấp ở nước ta
hiện nay- Thực trạng và giải pháp” đăng ngày 29/08/2013 trên tài liệu – ebook.
- Khóa luận“Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân
tỉnh Nghệ An - Thực trạng và giải quyết” của Hà Văn Hải, sinh viên khoa Luật trường
đại học Vinh đăng ngày 18/12/2013 trên tài liệu - ebook.
Những công trình này tiếp cận ở các khía cạnh khác nhau của pháp luật về giải
quyết trong tranh chấp kinh doanh thương mại, đều đưa ra được những ưu điểm và
nhược điểm trong quy định của pháp luật về tranh chấp kinh doanh thương mại. Tuy
nhiên, trên phương diện thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật giải quyết về tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại các cơ quan tố tụng còn nghiên cứu, khai thác chưa
đầy đủ. Hay nói một cách khác, lĩnh vực nghiên cứu này vẫn còn tồn tại một số vấn đề
đang còn tranh luận cần tiếp tục làm rõ trong điều kiện hiện hành ở Việt Nam.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu

Từ những phân tích ở trên, em đã chọn đề tài “Pháp luật về giải quyết tranh chấp
trong kinh doanh, thương mại tại Tòa án - Thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân
thành phố Thái Bình” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. Những tranh chấp về kinh
doanh, thương mại thì có thể được giải quyết bằng nhiều hình thức khác nhau. Song để
tập trung vào nội dung cần trao đổi, trong bài luận văn này, em sẽ chỉ đề cập đến
những vấn đề pháp lý trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng tố tụng
Tòa án và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu


4.1 Đối tượng nghiên cứu: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình
4.2 Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu một cách tổng quát
các vấn đề lý luận cơ bản trong quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại tại Tòa án (chủ yếu dựa trên văn bản pháp luật hiện hành là bộ luật
Tố tụng dân sự 2004 và các văn bản pháp lý có liên quan cùng với thực tiễn hoạt động
xét xử các loại án kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân hiện nay). Từ đó, có
phương hướng đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng giải quyết các vụ án
tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án hiện nay. Mục tiêu cụ thể như sau:
- Đánh giá thực trạng của pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại bằng thủ tục tố tụng tại Tòa án ở Việt Nam hiện nay.

5


- Đánh giá được thực trạng cũng như thực tiễn áp dụng áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Thái
Bình.
- Tìm hiểu nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện, nâng cao chất lượng giải quyết
án kinh doanh thương mại tại Tòa án.
Qua đó tìm hiểu, phát hiện ưu và nhược điểm của thủ tục này để các cơ sở kinh
doanh thương mại có được sự lựa chọn tốt nhất trong việc giải quyết các tranh chấp
của mình, nhanh chóng khắc phục những hạn chế bất cập làm ảnh hưởng đến quá trình
sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó đề xuất những phương hướng hoàn thiện pháp luật
tố tụng hiện nay ở Việt Nam để phục vụ tốt hơn trong quá trình hội nhập kinh tế thế
giới.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình
- Phạm vi thời gian: Quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng dữ liệu giai đoạn
01/10/2010 đến 28/11/2015, đề xuất giải pháp định hướng đến năm 2020.

- Nguồn tài liệu nghiên cứu: Trong phạm vi bài khóa luận, em chủ yếu sử dụng
bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004( được sửa đổi bổ sung năm 2011) làm tài liệu nghiên
cứu chính trong bài khóa luận của mình. Trong quá trình sử dụng nghiên cứu bộ luật
Tố tụng dân sự 2004(sửa đổi bổ sung năm 2011) kết hợp so sánh với bộ luật Dân sự
mới nhất hiện nay 2015. Ngoài ra trong bài khóa luận còn sử dụng các nguồn tài liệu
bổ sung như: bộ luật Dân sự 2005; luật Thương mại 2005…
5. Phương pháp nghiên cứu

Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này chủ yếu vận dụng phương pháp nghiên cứu
pháp luật truyền thống và phổ biến là:
Phương pháp Phân tích – Tổng hợp: Dựa trên cơ sở các tài liệu đã thu thập
được, từ đó phân tích đánh giá nội dung các quy định của pháp luật về giải quyết tranh
chấp trong kinh doanh thương mại được thực hiện trong chương 1 và thực trạng áp
dụng chúng trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân
thành phố Thái Bình trong chương 2. Từ những kết quả đã phân tích, tổng hợp lại để
có nhận thức đầy đủ, đúng đắn, tìm ra được những ưu điểm , và những tồn tại trong
quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện.
Phương pháp khai thác các tài liệu sẵn có: Là việc tìm kiếm, tham khảo và khai
thác các tài liệu có sẵn được lưu trữ trong thư viện để người đọc mượn tham khảo,
ngoại trừ những trường hợp đặc biệt. Các tài liệu này đều được lưu trữ ở các văn bản

6


pháp luật, giáo trình, tạp chí chuyên ngành, các công trình nghiên cứu khoa học có liên
quan đến đề tài nghiên cứu. Ưu điểm của phương pháp nghiên cứu này đó là chất
lượng tài liệu được kiểm chứng và dễ tìm kiếm. Trong phạm vi bài khóa luận của
mình, em đã dùng phương pháp nghiên cứu này để tham khảo, khảo sát hướng tiếp cận
đề tài này từ các luận văn khác nhau và tìm cho mình một hướng tiếp cận phù hợp.
Phương pháp thống kê: Mục đích của việc thống kê thông tin, dữ liệu là làm cơ

sở lý luận khoa học hay luận cứ để đi sâu vào vấn đề giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại
- Thống kê các quy định, các văn bản quy phạm pháp luật và các tài liệu tổng
quan quy định về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại như: luật Thương
mại 2005, bộ luật Dân sự 2005, các văn bản pháp luật có liên quan từ đó đưa ra một số
nội dung pháp lý về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong chương 1về:
khái niệm, nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mai, các
nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mai tại Tòa án.
- Thống kê sổ sách, số liệu có liên quan tới giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, để làm rõ thực trạng áp dụng
pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân thành
phố Thái Bình.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp

Khóa luận tốt nghiệp trình bày các nội dung chính sau: ngoài phần mở đầu, kết
luận và tài liệu tham khảo, nội dung được trình bày theo 3 chương:
Chương I: Pháp luật về việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án
Ở nội dung chương 1 chính là chương tổng quan về các quy định của pháp luật
liên quan tới việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Trong chương này,
phần lớn là tìm hiểu lý luận chung về tranh chấp thương mại, các quy định của pháp
luật về giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án. Tìm hiểu một số những nguyên
tắc cơ bản trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại và những quy định
về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án trong giải quyết các vụ tranh chấp.
Chương II: Thực trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án Toà án nhân dân thành phố Thái Bình
Nội dung cơ bản của chương 2 đó là tìm hiểu về tình hình phát sinh tranh chấp
kinh doanh thương mại trong những năm gần đây trên địa bàn thành phố Thái Bình và
thực trạng giải quyết các tranh chấp đó tại tòa án nhân dân thành phố Thái Bình. Qua
quá trình giải quyết rút ra được những mặt tích cực mà hệ thống pháp luật mang lại

7



cho các chủ thể khi tham gia vào quan hệ hợp đồng kinh tế, đồng thời cũng bộc lộ ra
còn nhiều điểm bất cập, hạn chế gây khó khăn cho Tòa án trong quá trình áp dụng vào
xét xử thực tế.
Chương III: Một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều chỉnh giải quyết
tranh chấp thương mại tại tòa án nhân dân thành phố Thái Bình.
Từ những nhận xét, kết luận rút ra được ở chương 2, nội dung của chương 3 sẽ
tập trung đưa ra những giải pháp và kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại và hoàn thiện hệ thống hoạt động của
Tòa án trong quá trình xét xử vụ án.

8


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN
1.1. Khái niệm về tranh chấp kinh doanh, thương mại

Để hiểu được thế nào là tranh chấp kinh doanh thương mại, thì ta cần hiểu hai
khái niệm cơ bản đó là kinh doanh là gì và thương mại là gì?
Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của
quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi. Còn thương mại là hoạt động nhằm mục đich sinh lợi,
bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 quy định “Hoạt động
kinh doanh, thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác”.

Từ các khái niệm trên có thể khái quát tranh chấp trong hoạt động kinh doanh
thương mại như sau: Tranh chấp trong hoạt động kinh doanh thương mại là những mâu
thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể phát sinh trong việc thực hiện các hoạt động có liên
quan đến lĩnh vực kinh doanh, đầu tư và thương mại. Và có thể định nghĩa một cách
ngắn gọn đối với tranh chấp kinh doanh thương mại như sau: “Tranh chấp kinh doanh
thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ giữa
các chủ thể tham gia các quá trình của hoạt động kinh doanh thương mại”.
Trong xu thế hội nhập phát triển, các chủ thể tham gia hoạt động giao thương
ngày càng đa dạng, tranh chấp về kinh doanh thương mại cũng trở nên phức tạp. Do
đó, việc xác định rõ các quan hệ tranh chấp trong kinh doanh thương mại là yếu tố cực
kỳ quan trọng trong việc áp dụng luật. Để xác định được vụ việc tranh chấp về kinh
doanh thương mại ta cần làm rõ chủ thể của hoạt động kinh doanh thương mại và bản
chất của tranh chấp kinh doanh thương mại.
1.2.

Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa án
1.2.1 Cơ sở ban hành pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại tại Tòa án
Hệ thống pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra hành lang pháp lí để
công ty, đơn vị hành chính sự nghiệp của nhà nước được tạo lập, vận hành và phát
triển, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp thông qua

9


các văn bản pháp luật như bộ luật Dân sự, luật Thương mại, luật Doanh nghiệp, luật
Lao động, bộ luật Tố tụng dân sự, luật Trọng tài thương mại và các văn bản hướng dẫn
có liên quan.
Để nền kinh tế thị trường vận hành hiệu quả, hoạt động kinh doanh thương mại

diễn ra có trật tự, do đó cần thiết phải thiết kế và xây dựng một hệ thống các văn bản
pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, có tính thống nhất cao và một cơ chế hữu hiệu đảm bảo
việc thi hành chúng.
1.2.1.1 Cơ sở thực tiễn
Sau công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, sự hình thành nền kinh tế thị trường
ở nước ta trong những năm đầu của thế kỷ này được diễn ra trong bối cảnh sự phát
triển theo chiều rộng và chiều sâu của các quan hệ kinh tế với tốc độ nhanh chóng
chưa từng có để từng bước khẳng định nó là bộ phận không thể thiếu được của thị
trường thế giới. Cũng từ đó mà tranh chấp trong kinh tế nói chung và trong kinh doanh
thương mại nói riêng với tính cách là hệ quả tất yếu của quá trình này cũng trở nên
phong phú hơn về chủng loại và gay gắt phức tạp hơn về tính chất và quy mô.
Tranh chấp kinh doanh thương mại là hiện tượng phát sinh tất yếu trong hoạt
động kinh doanh thương mại, vấn đề cần quan tâm là phải có biện pháp để giải quyết
hợp lý những tranh chấp đó nhằm giúp các chủ thể kinh doanh có được sự tin tưởng
trong cơ chế điều hành, quản lý kinh tế của nhà nước. Vì vậy, việc đổi mới và hoàn
thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại phù hợp với cơ chế thị
trường là yêu cần cần thiết, quan trọng nhằm đảm bảo việc thực hiện chức năng kinh tế
của nhà nước.
Trong những năm gần đây việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án ngày
càng trở nên phổ biến và chiếm tỷ trọng lớn trong các phương thức mà các bên lựa
chọn giải quyết khi có tranh chấp thương mại phát sinh. Để hoạt động giải quyết các
vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án có hiệu quả, việc ban hành hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh là điều cần thiết. Nó không chỉ đáp ứng được tình hình
kinh tế - xã hội mà còn tăng cường tính pháp lý về hoạt động của Tòa án trong giải
quyết án, tạo môi trường bình đẳng đối với các chủ thể tham gia đầu tư, kinh doanh.
1.2.1.2 Cơ sở pháp luật
Bên cạnh những cơ sở từ thực tiễn kinh tế xã hội đề ra, việc ban hành hệ thống
các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh thương mại còn dựa trên hệ
thống các văn bản pháp luật như : Hiến pháp 2013; bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Bộ
luật dân sự 2005, Luật Thương mại 2005 và các văn bản pháp luật khác.


10


-

Bộ luật tố tụng dân sự 2004

Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, Nhà nước bảo đảm các quyền, lợi
ích hợp pháp của mọi chủ thể. Khi cá nhân, pháp nhân hay chủ thể khác có quyền, lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm thì theo thủ tục do pháp luật quy định chủ thể đó được khởi
kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ. Và bộ luật Tố tụng dân sự 2004 là cơ sở
pháp lý quan trọng để Tòa án giải quyết vụ án các vụ án và bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các cá nhân, pháp nhân. Điểm đặc thù khi giải quyết tranh chấp thương
mại tại Toà án là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Chương II ,
Chương III bộ luật Tố tụng dân sự, từ Điều 3 đến Điều 45 trong đó có nguyên tắc thẩm
phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 12). Dựa
vào nội dung các tranh chấp thương mại mà Toà án có thẩm quyền giải quyết theo quy
định tại Điều 30 bộ luật Tố tụng dân sự 2004. Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 cho đến
nay thì những quy định tại bộ luật này vẫn đang phát huy tác dụng tích cực của nó.
-

Luật thương mại 2005

Bên cạnh pháp luật về thủ tục tố tụng trong bộ luật Tố tụng dân sự 2004 là nguồn
luật quan trọng để Toà án áp dụng khi xét xử tranh chấp đưa đến tại toà án, thì đối với
hoạt động quản lí lĩnh vực về thương mại tại tòa án nhân dân thành phố Thái Bình còn
phải tuân theo quy định tại luật Thương mại 2005. Luật thương mại 2005 là luật riêng
điều chỉnh cho hoạt động thương mại. Đối với những vấn đề phát sinh trong tranh
chấp từ quan hệ thương mại thì thứ tự ưu tiên áp dụng luật là: Luật chuyên ngành và

Luật thương mại. Nếu như không có quy định về vấn đề phát sinh này thì áp dụng quy
định của bộ luật Dân sự 2005.
-

Bộ luật Dân sự 2005

Bộ luật Dân sự 2005 có vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt
Nam. Nó thể hiện những quan điểm cơ bản nhất của nhà nước trong điều chỉnh các
quan hệ pháp luật tư, thiết lập các nguyên tắc quan trọng nhất cho các mối quan hệ
trong đời sống dân sự, đồng thời xác lập các quy tắc điều chỉnh cho quan hệ dân sự
phát sinh. Các đạo luật điều chỉnh các khía cạnh khác nhau của quan hệ pháp luật tư
(như thương mại, đất đai, tín dụng, sở hữu trí tuệ….) cũng đều phải căn cứ vào các
nguyên tắc chung của bộ luật Dân sự 2005. Vì lí do trên mà khi Tòa án tiến hành giải
quyết các tranh chấp về kinh tế, thương mại cũng cần phải xem xét, cân nhắc tới các
quy định trong bộ luật này. Do đó để đảm bảo giải quyết các vụ án một cách chính xác
và hiệu quả, đảm bảo quyền lợi của các bên, Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình
cũng cần dựa vào những quy định trong bộ luật này.

11


-

Các văn bản pháp luật khác

Có thể thấy, các văn bản pháp luật chủ yếu mà Toà án thường dùng làm căn cứ
pháp lý để giải quyết các vụ án tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền của mình là:
bộ luật Dân sự 2005; luật Thương mại 2005; bộ luật Tố tụng dân sự 2004. Tuy nhiên,
trên thực tế còn có nhiều những vụ án kinh tế, thương mại phức tạp, liên quan tới
nhiều lĩnh vực trong thực tiễn. Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình cũng cần

xem xét tới các quy định trong các bộ luật và các văn bản có liên quan như luật Kinh
doanh bất động sản 2014; luật Chứng khoán 2006 (sửa đổi, bổ sung 2010); luật Sở hữu
trí tuệ 2005; luật Xây dựng 2014; luật Doanh nghiệp 2014; luật Đầu tư 2014; luật Đầu
tư công 2014; luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) để
giải quyết vụ án một cách triệt để nhất.
1.2.2 Nội dung cơ bản của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh,

thương mại tại Tòa án
1.2.2.1 Phân loại các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại
Trong nền kinh tế thị trường mở, nhiều thành phần các quan hệ kinh doanh rất đa
dạng và phức tạp. Tranh chấp kinh tế cũng vì vậy mà phức tạp không kém. Việc phân
loại tranh chấp kinh doanh, thương mại giúp chúng ta đơn giản hoá được chúng và có
cách giải quyết phù hợp nhất. Có nhiều cách để phân loại các tranh chấp kinh doanh
thương mại, ví dụ như dựa vào lĩnh vực tranh chấp, chủ thể tham gia quan hệ hợp
đồng kinh tế.
Theo quy định tại Điều 29 bộ luật Tố tụng dân sự 2004 thì những loại việc tranh
chấp kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án được chia thành các nhóm:
-

Nhóm thứ nhất, các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa
cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Theo
quy định của pháp luật thì tranh chấp phát sinh giữa cá nhân, tổ chức phát sinh từ hoạt
động thương mại thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án khi những tranh chấp đó có đủ
3 điều kiện đó là: các tranh chấp này phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại
phải có mục đích lợi nhuận; các tranh chấp phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức với
nhau đồng thời các cá nhân, tổ chức phải là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật; các tranh chấp thuộc 14 lĩnh vực được quy định tại Khoản
1 Điều 29 bộ luật Tố tụng dân sự 2004. Các hoạt động được ghi nhận tại Khoản 1 Điều

-


29 chính là cơ sở để phân định tranh chấp giữa hợp đồng kinh doanh, thương mại với
các hợp đồng dân sự, lao động.
Nhóm thứ hai, là các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa
các cá nhân, tổ chức với nhau đều có mục đích lợi nhuận. Trong điều kiện phát triển

12


ngày một cao của khoa học công nghệ, hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày
một gia tăng về số lượng, tinh vi về tính chất, nghiêm trọng về hậu quả. Tuy nhiên,

-

-

không phải tất cả các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ là loại vụ
việc về kinh doanh thương mại. Một tranh chấp liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển
giao công nghệ còn có thể xác định là một tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải
quyết của tòa án theo quy định của Khoản 4 Điều 25 bộ luật Tố tụng dân sự 2004. Vì
vậy để phân biệt hai loại tranh chấp này pháp luật đã đưa ra dấu hiệu “mục đích lợi
nhuận”. Đối với các tranh chấp quy định tại Khoản 2 Điều 29 bộ luật Tố tụng dân sự
2004 thì không nhất thiết đòi hỏi cá nhân, tổ chức phải có đăng ký kinh doanh mà chỉ
đòi hỏi cá nhân,tổ chức đều có mục đích lợi nhuận, còn bên kia không có mục đích lợi
nhuận thì đó là tranh chấp về dân sự quy định tại Khoản 4 Điều 25 bộ luật Tố tụng
dân sự 2004.
Nhóm thứ ba, là nhóm tranh chấp kinh doanh, thương mại giữa công ty với các thành
viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành
lập, hoạt động giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia tách chuyển đổi hình thức tổ chức của
công ty. Nếu giữa công ty với các thành viên của công ty hoặc giữa các thành viên của

công ty có tranh chấp với nhau, nhưng tranh chấp đó không liên quan đến việc thành
lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức
của công ty mà chỉ liên quan đến các quan hệ khác như quan hệ lao động, quan hệ dân
sự (ví dụ tranh chấp về bảo hiểm xã hội, về trợ cấp cho người lao động, về hợp đồng
lao động,…) thì tranh chấp đó không phải là tranh chấp về kinh doanh, thương mại
quy định tại Khoản 3 Điều 29 bộ luật Tố tụng dân sự 2004.
Cuối cùng là, các tranh chấp kinh doanh thương mại khác mà pháp luật có quy định
Hiện nay các tranh chấp về kinh doanh, thương mại rất đa dạng và phong phú,
khó có thể liệt kê hết được. Các tranh chấp khác trong kinh doanh thương mại có thể ví
dụ như tranh chấp phát sinh từ quan hệ ủy thác, giám định, đấu giá, đấu thầu, hay
những tranh liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh…
Việc phân loại cụ thể chi tiết từng loại tranh chấp kinh doanh, thương mại giúp
cho Tòa án có thể nhận dạng vụ tranh chấp một cách dễ dàng nhằm đánh giá đúng thực
chất của các vụ tranh chấp, trên cơ sở đó mà giải quyết chúng có hiệu quả cao nhất.
1.2.2.2 Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại
Để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự nói chung, kinh doanh thương mại nói riêng,
Tòa án phải dựa vào yêu cầu cụ thể của người khởi kiện để xác định quan hệ pháp luật
mà đương sự tranh chấp. Từ đó, đối chiếu với các quy định về thẩm quyền của Bộ luật

13


Tố tụng dân sự để xác định yêu cầu khởi kiện của đương sự có thuộc thẩm quyền của
Tòa án hay không.
Thẩm quyền xét xử của hệ thống Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân
thành phố Thái Bình nói riêng hiện nay được phân định theo nhiều tiêu chí: Thẩm
quyền theo việc (phân định thẩm quyền xét xử giữa các cấp Tòa án) và thẩm quyền
theo lãnh thổ (phân định thẩm quyền xét xử của cùng một cấp Tòa án theo tính chất
lãnh thổ), thẩm quyền theo cấp xét xử, thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn.

-

Thẩm quyền theo vụ việc

Thẩm quyền theo vụ việc là việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại thuộc cơ quan nào: cơ quan quản lí cấp trên , tòa án dân sự hay tòa
kinh tế. Theo quy định của bộ luật dân sự 2015 thì thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp kinh doanh thương mại bao gồm những tranh chấp về kinh doanh thương mại và
những yêu cầu về kinh doanh thương mại. Có năm nhóm tranh chấp về kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án ( được quy định cụ thể tại Điều 29
bộ luật Tố tụng dân sự 2004). Ở Việt Nam, có hai cấp tòa án tiến hành xét xử sơ thẩm
là Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh. Tòa án cấp huyện cụ thể là Tòa án nhân dân
thành phố Thái Bình có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp
về kinh doanh, thương mại tại Khoản 1 của Điều 29 bộ luật Tố tụng dân sự 2004. Còn
lại các tranh chấp được quy định thuộc các khoản 2, 3 và 4 Điều 29 bộ luật Tố tụng
dân sự 2004 và trường hợp có đương sự, tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư
pháp thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
-

Thẩm quyền theo cấp xét xử

Ở Việt Nam, có hai cấp tòa án tiến hành xét xử sơ thẩm là Tòa án cấp huyện và
Tòa án cấp tỉnh.
+ Toà án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc Tỉnh có thẩm quyền
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án về tranh chấp hợp đồng kinh tế mà giá trị
tranh chấp dưới 50 triệu đồng và không có nhân tố nước ngoài.
+ Toà kinh tế thuộc toà án nhân dân cấp Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
xét xử theo thủ tục sơ thẩm những vụ án kinh tế trừ những vụ án thuộc thẩm quyền của
toà án nhân dân cấp huyện, trong trường hợp cần thiết thì toà kinh tế toà án nhân dân
cấp Tỉnh có thể lấy lên để giải quyết vụ án kinh tế thuộc thẩm quyền của toà án nhân

dân cấp huyện.
-

Thẩm quyền theo lãnh thổ

14


Khi đã xác định tranh chấp được giải quyết tại Toà án cấp nào, còn phải xác định
Toà án ở địa phương nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ và thi hành án, Điều 39 bộ luật Tố
tụng dân sự 2004 quy định: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân
hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết
theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại
các Điều 26, 28, 30 và 32 của bộ luật này; Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với
nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn để giải quyết
những tranh chấp về kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30
và 32 của Bộ luật này; Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất
động sản có thẩm quyền giải quyết”
Như vậy tùy theo từng vụ án, xem xét tới hai bên nguyên đơn và bị đơn mà tòa
án nhân dân thành phố Thái Bình có thẩm quyền giải quyết các vụ án tranh chấp kinh
doanh thương mại theo lãnh thổ.
-

Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn

Trong thực tế, khi xác định thẩm quyền của Toà án theo cấp và theo lãnh thổ sẽ
có trường hợp có nhiều Toà án cùng có thẩm quyền giải quyết một vụ án. Chính vì
vậy, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, tạo điều kiện thuận lợi cho
nguyên đơn khi tiến hành khởi kiện, pháp luật còn quy định nguyên đơn có quyền lựa

chọn Toà án để yêu cầu giải quyết vụ án được quy định Điều 36 bộ luật Tố tụng dân sự
2004.
1.3 Những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh

thương mại
1.3.1

Nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt của các đương sự
Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là một trong những biểu hiện của
quyền con người, quyền công dân. Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong
tố tụng dân sự là nguyên tắc cơ bản của luật Tố tụng dân sự Việt Nam. Theo quy định
tại Điều 5 bộ luật Tố tụng dân sự 2005 quy định quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự đó là: “Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi
có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu đó”.
Như vậy theo nguyên tắc này, đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của
mình trong việc lựa chọn thực hiện các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình, quyết định quyền, lợi ích của mình trong quá trình giải quyết vụ việc
15


dân sự và trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm cho đương sự thực hiện được
quyền tự định đoạt của họ trong tố tụng dân sự.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự có ý nghĩa quan trọng trong việc
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Khi tham gia vào các quan hệ dân
sự và xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp, các chủ thể có thương lượng, thỏa thuận với nhau
để giải quyết hay quyết định việc có khởi kiện hay không khởi kiện ra trước Tòa án để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi có đơn
khởi kiện của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đương sự yêu cầu tức là phụ

thuộc vào ý chí của đương sự từ đó đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt giúp đương sự quyết định phương thức giải quyết vụ
việc thuận tiện, nhanh chóng và hiệu quả.
1.3.2

Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Quyền bình đẳng trước pháp luật là một quyền con người. Đó là quyền được xác
lập tư cách con người trước pháp luật; không bị pháp luật phân biệt đối xử, quyền có
vị thế ngang nhau trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ như nhau.. Đây là nguyên
tắc cơ bản của pháp luật nước ta, được quy định cụ thể tại điều 16 trong Hiến pháp
2013. Cụ thể tại Điều 16 Hiến pháp 2013 có quy định “1. Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật. 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội”
Điều 16 được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở Điều 52 của Hiến pháp 1992. So với
Hiến pháp 1992, điều này được bổ sung thêm cụm từ “Không ai bị phân biệt đối xử
trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” nhằm làm rõ việc mọi người
đều bình đẳng mọi mặt và không bị phân biệt đối xử với bất kỳ lý do gì. Như vậy, điều
16 quy định rõ hai vấn đề sau: một là, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; hai là,
không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Và không chỉ quy định mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, đồng thời cũng
khẳng định mọi người đều bình đẳng về mọi mặt và không bị phân biệt đối xử với bất
kỳ lý do gì.
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhất là
trong hoạt động xét xử tại Tòa án. Nguyên tắc này bảo đảm quyền bình đẳng đẳng của
các đương sự trước Tòa án, giúp cho hoạt động xét xử của Tòa án diễn ra thống nhất
đồng bộ và đạt hiệu quả cao, đảm bảo mọi phán quyết của Tòa án khách quan, toàn
diện, đầy đủ, đúng pháp luật, tránh bỏ sót tội phạm và xử oan cho người vô tội.

1.3.3


Nguyên tắc tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ
16


Nguyên tắc này được cụ thể hoá tại Điều 91 bộ luật Tố tụng dân sự 2004 như
sau:
“Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải
thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
đó là có căn cứ và hợp pháp. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh
mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết
vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc.”
Như vậy bộ luật Tố tụng dân sự quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
minh cho yêu cầu khởi kiện thuộc về đương sự. Toà án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ
khi đương sự đã áp dụng mọi biện pháp nhưng vẫn không tự thu thập được và có yêu
cầu Toà án tiến hành thu thập. Quy định này một mặt gắn trách nhiệm cho đương sự,
giảm áp lực công việc cho Toà án, mặt khác cũng là cơ chế bảo đảm tính khách quan,
tránh tình trạng Toà án lạm dụng trong việc thu thập chứng cứ có lợi để thiên vị cho
một trong các bên. Pháp luật quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thuộc về các đương
sự vì họ là người khởi kiện, đưa ra yêu cầu nên họ phải có trách nhiệm chứng minh
cho yêu cầu kiện tụng của mình. Hơn nữa các vụ án dân sự phát sinh chủ yếu do có sự
tranh chấp về quyền và lợi ích của các đương sự với nhau. Do đó họ là người biết rõ
các nguyên nhân và điều kiện cung cấp cho Tòa án các chứng cứ của vụ án. Trong quá
trình giải quyết vụ án, Tòa án có trách nhiệm hướng dẫn cho các đương sự cung cấp
chứng cứ chứng minh cho các yêu cầu của mình, để bảo về quyền và lợi ích của họ.
Đương sự có quyền cung cấp chứng cứ trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải
quyết vụ án. Tòa án có trách nhiệm tiếp nhận mọi giấy tờ, tài liệu liên quan đến vụ án
và các vật chứng cho đương sự cung cấp.
1.3.4

Nguyên tắc hòa giải

Quan hệ dân sự là quan hệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau trên cơ sở thỏa thuận
giữa các chủ thể đó. Khi một bên trong quan hệ thực hiện không đúng nội dung thỏa
thuận, xâm phạm đến lợi của bên còn lại thì bên còn lại có quyền yêu cầu bên vi phạm
bồi thường. Việc giải quyết khi một bên có hành vi vi phạm thỏa thuận trước hết do
các bên tự thỏa thuận giải quyết, nếu không thỏa thuận được xảy ra tranh chấp, một
trong các bên có thể khởi kiện đến Tòa án. Trong giải quyết tranh chấp dân sự, Tòa án
trên cơ sở đánh giá các chứng cứ do đương sự cung cấp xem xét yêu cầu của bên nào
phù hợp với quy định của pháp luật sẽ chấp nhận yêu cầu của bên đó. Tuy nhiên, trước
khi mở phiên tòa xét xử vụ án dân sự , Tòa án vẫn tiến hành hòa giải hòa giải và đây là
một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự.

17


Hòa giải vụ án dân sự là hoạt động do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương
sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án dân sự. Sau khi thụ lý vụ án để giải quyết
vụ án Tòa án tiến hành giải thích pháp luật, giúp đỡ đương sự giải quyết mâu thuẫn,
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết các tranh chấp. Cơ sở của hòa giải là quyền tự
định đoạt của đương sự. Điều 10 bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định, Tòa án có
trách nhiệm hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để đương sự thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án dân sự. Trong quá trình hòa giải Tòa án giữ vai trò đặc biệt quan
trọng, với tư cách là cơ quan xét xử của nhà nước, tòa án phải chủ động trong việc hòa
giải để giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau. Vai trò chủ động này thể hiện ở chỗ
sau khi thụ lý vụ án, tòa án chủ động triệu tập các đương sự đến để hòa giải, tòa án giữ
vai trò trung gian không có quyền thương lượng điều đình mà để đương sự tự thỏa
thuận với nhau về giải quyết vụ án.
Nội dung hòa giải chính là các vấn đề của vụ án cần được các bên thỏa thuận với
nhau để giải quyết, tùy từng vụ án mà nội dung hòa giải sẽ khác nhau. Toà án xem xét
các yêu cầu cụ thể của đương sự trong vụ án phải giải quyết để tiến hành hoà giải từng
yêu cầu theo thứ tự hợp lý.

Việc tiến hành hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự sẽ
góp phần rút ngắn thời gian giải quyết vụ án. Nhất là trong trường hợp Tòa án hoà giải
thành công vụ án dân sự thì không cần mở phiên tòa xét xử vụ án, giảm bớt một giai
đoạn tố tụng kéo dài và cực kỳ phức tạp, tiết kiệm được thời gian, tiền của cho Nhà
nước và cho nhân dân.
1.3.5

Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời
Khi bắt đầu một thương vụ, các chủ thể không bao giờ muốn tranh chấp xảy ra
bởi tranh chấp đồng nghĩa với sự ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ, làm
gián đoạn quá trình kinh doanh, tốn thời gian chi phí và công sức để giải quyết tranh
chấp. Không những thế còn liên quan đến chủ thể khác có quan hệ với các bên tranh
chấp, uy tín của chủ thể trên thương trường có thể bị ảnh hưởng, cũng như các yếu tố
khác thuộc về bí mật kinh doanh có thể bị tiết lộ hoặc bị lợi dụng...
Giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả các tranh chấp cho phép hạn chế đến
mức tối thiểu sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng như đặt ở mức chi phí thấp
nhất. Song, quan trọng đó là phải bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích hợp pháp và
chính đáng của các bên khi tham gia vào kinh tế thương mại. Về nguyên tắc khi giải
quyết các vụ việc thương mại phải nhanh chóng, kịp thời đảm bảo khắc phục kịp thời
cho bên bị vi phạm. Trong bộ luật tố tụng dân sự quy định cụ thể thời hạn ở các giải
đoạn tố tụng, như thời hạn thụ lý, thời hạn thu thập chứng cứ và đưa vụ việc ra xét xử,
18


thời hạn phát hành quyết định, bản án, thời hạn kháng cáo, khiếu nại và giải quyết theo
trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Phần lớn Toà án các cấp đều giải quyết vụ việc trong
thời hạn luật định. Giải quyết vụ án nhanh chóng hiệu quả kịp thời tranh chấp còn có ý
nghĩa cực kỳ quan trong việc quản lý xã hội bằng pháp luật, vừa tháo gỡ khó khăn cho
các doanh nghiập, vừa góp phần tạo môi trường pháp lý có kỷ cương. Trong sản xuất
kinh doanh tạo niềm tin, thực hiện công bằng và bình đẳng cho các doanh nghiệp trong

nước và ngoài nước thực hiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
1.3.6

Nguyên tắc xét xử công khai
Nguyên tắc công khai là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự.
Đảm bảo tính công khai trong hoạt động tố tụng là vấn đề rất được nhà nước quan tâm.
Tư tưởng về tính công khai trong hoạt động tố tụng là vấn đề rất được nhà nước quan
tâm. Tư tưởng về tính công khai trong hoạt động được ghi nhận được nhiều trong
nhiều văn bản pháp luật. Vấn đề đảm bảo tính công khai minh bạch được quy định
xuyên suốt trong hệ thống pháp luật Việt Nam và được cụ thể hóa trở thành một
nguyên tắc quan trọng tại Điều 15 bộ luật Tố tụng dân sự 2004.
Nguyên tắc xét xử công khai có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động xét xử, đảm
bảo cho việc xét xử có hiệu quả. Bảo đảm cho nhân dân giám sát được hoạt động xét
xử được đúng đắn, nâng cao tinh thần trách nhiệm của Tòa án cũng như Thẩm phán,
Hội Thẩm nhân dân, Luật sự bào chưa… phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật khi
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Hơn nữa hoạt động xét xử công khai góp phần
vào việc giáo dục và nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của nhân dân, tạo điều kiện
cho tòa án có thể thông qua hoạt động xét xử thực hiện chức năng tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật.

1.4
1.4.1

Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án
Khởi kiện và thụ lý vụ án kinh doanh, thương mại
Một vụ án dân sự nói chung, một vụ án về tranh chấp kinh doanh, thương mại
nói riêng chỉ được bắt đầu nếu có đơn khởi kiện. Đơn khởi kiện thể hiện ý chí đơn
phương của nguyên đơn mà không cần sự thỏa thuận của các bên như đối với thỏa
thuận trọng tài trong tố tụng trọng tài. Đơn khởi kiện kèm theo tài liệu, chứng cứ được
nộp trực tiếp hoặc gửi qua bưu điện đến Tòa án theo những quy định về thẩm quyền

phía trên. Trường hợp pháp luật không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện thì thời
hiệu này là hai năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xâm
phạm. Nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, trừ trường hợp được miễn
hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí.

19


Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Tòa án phải thông báo ngay cho người
khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí. Tòa án thụ lý vụ
án khi người khởi kiện nộp biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Trường hợp người khởi
kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Tòa án phải thụ lý vụ án
khi nhận được đơn khởi kiện.
Sau khi thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán giải quyết vụ
án, thông báo về việc thụ lý vụ án cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đén việc giải quyết vụ án, cho Viện Kiểm sát cùng cấp về việc Tòa
án đã thụ lý vụ án. Bị đơn phải gửi đến Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với
yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có. Đồng thời, bị đơn
cũng có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn trong giai đoạn này. Trong quá
trình giải quyết vụ án, các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc một
số biện pháp khẩn cấp tạm thời.
1.4.2

Chuẩn bị xét xử
Quy định rất quan trọng về trách nhiệm của Tòa án trong tố tụng dân sự là phải
tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ
những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được theo quy định
của pháp luật. Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ
vụ án thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Sau bảy ngày kể từ ngày lập biên bản hòa

giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Tòa án ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, đồng thời ra quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án. Nếu các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết
toàn bộ vụ án thì Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

1.4.3

Phiên tòa sơ thẩm
Phiên tòa sơ thẩm diễn biến theo trình tự các công việc: chuẩn bị khai mạc phiên
tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án
và tuyên án.
Bản án và quyết định của phiên tòa sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Đối với
các bản án, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng
cáo. Đối với các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án, thời hạn kháng cáo
là 7 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định. Đơn kháng cáo
được gửi cho Tòa án đã xử sơ thẩm, kèm theo là tài liệu, chứng cứ bổ sung, nếu có để
chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp. Nếu hết thời hạn kháng

20


cáo mà không có kháng cáo, kháng nghị (của Viện Kiểm sát), bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật.
1.4.4

Thủ tục phúc thẩm
Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc
kháng nghị. Người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, trừ trường hợp
được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí.

Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý vụ án khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng
nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo, đồng thời thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm
gồm ba Thẩm phán và phân công một Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa. Trong thời
hạn hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết
định sau: Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; Đưa
vụ án ra xét xử.
Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án
phải mở phiên tòa phúc thẩm, trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai
tháng. Diễn biến của phiên tòa phúc thẩm về cơ bản là những thủ tục như tại phiên tòa
sơ thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự có quyền thỏa thuận để giải quyết vụ
án và Hội đồng xét xử phúc thẩm công nhận sự thỏa thuận này.

1.4.5

Thủ tục xem xét lại các bản án và quyết định đã có hiệu lực
Về nguyên tắc bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và
các cá nhân, tổ chức có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Tuy nhiên, có những
trường hợp bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có những sai sót hoặc có những
tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án. Cùng với việc thực hiện chế độ hai cấp xét
xử là sơ thẩm và phúc thẩm, pháp luật tố tụng dân sự còn quy định thủ tục đặc biệt để
xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đó là thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm.

21


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP KINH
DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN – TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
THÁI BÌNH
2.1


Tổng quan tình hình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại và các nhân
tố ảnh hưởng đến giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân
dân thành phố Thái Bình
2.1.1 Tổng quan tình hình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình
Trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, các tranh chấp về kinh doanh,
thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp, nhiều quan hệ kinh tế cũng mang những
diện mạo sắc thái mới. Tương ứng với sự đa dạng phong phú của các quan hệ này, các
tranh chấp kinh tế ngày càng muôn hình muôn vẻ và với số lượng lớn. Ở Việt Nam các
đương sự thường lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án như
một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích của mình khi thất
bại trong việc sử dụng cơ chế thương lượng, hoà giải.
Đảm đương trách nhiệm của mình, trong thời gian qua, Tòa án nhân dân thành
phố Thái Bình đã và đang làm tròn nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của mình một
cách tốt nhất. Trong vài năm trở lại đây, tại Thái Bình, với việc mở rộng các khu công
nghiệp như Phúc Khánh, Nguyễn Đức Cảnh, các cụm công nghiệp Phong Phú…làm
cho quan hệ kinh tế trên địa bàn thành phố ngày càng phức tạp. Sự phát triển không
ngừng của nền kinh tế trên địa bàn thành phố Thái Bình đã dẫn đến sự ra đời hàng loạt
các khu công nghiệp, cụm công nghiệp hoạt động sản xuất với quy mô lớn, tạo một
môi trường kinh doanh năng động, hấp dẫn nhưng cũng đầy những cạnh tranh gay gắt.
Với tiềm năng kinh tế của mình, thành phố Thái Bình ngày càng phát triển, khiến nơi
đây lọt vào tầm ngắm chiến lược của các nhà đầu tư lớn, hình thành những quan hệ
kinh tế đa dạng phức tạp. Và cũng từ đây, các tranh chấp kinh doanh thương mại phát
sinh giữa các chủ thể ngày càng nhiều, đặt ra yêu cầu giải quyết lớn cho Tòa án nhân
dân thành phố Thái Bình. Mặc dù số vụ án tranh chấp kinh tế do Tòa án nhân dân
thành phố Thái Bình thụ lí trong vài năm trở lại đây có xu hướng gia tăng, nhưng trong
hoạt động xét xử của mình, Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình luôn luôn xét xử
đảm bảo sự công minh nhanh chóng chính xác và kịp thời, không để xảy ra tình trạng
tồn đọng án, giải quyết án kéo dài gây sự mệt mỏi cho các đương sự.


22


2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình
Qua quá trình thụ lí và giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án
nhân dân thành phố Thái Bình, có nhiều nhân tố tác động đến hoạt động giải quyết án
tại Tòa án bao gồm cả nhân tố khách quan như hệ thống pháp luật và nhân tố chủ quan
như trình độ năng lực cán bộ tại Tòa án, ý thức của chủ thể khi tham gia vào quan hệ
kinh tế.
2.1.2.1 Các nhân tố khách quan
- Thứ nhất, nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến hoạt động xét xử tại Tòa án đó là
hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại
Một trong những yêu cầu trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, chính là sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Khi áp dụng pháp luật nói
chung, áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà
án nhân dân nói riêng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử phải áp dụng các quy định của
Hiến pháp, pháp luật tố tụng dân sự và hệ thống các văn bản pháp luật khác có liên
quan như Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng… nhằm
đưa ra bản án và quyết định dân sự chính xác, đúng pháp luật, có hiệu quả và hiệu lực
cao. Chính vì vậy, nếu hệ thống pháp luật có liên quan đến hoạt động áp dụng pháp
luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại không hoàn thiện, thì chất
lượng áp dụng pháp luật sẽ không cao, thậm chí không thực hiện được.
Vì vậy, để hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Toà án nhân dân đạt hiệu quả cao, đòi hỏi phải có sự đảm bảo về pháp
lý, bao gồm sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thực định; sự hoàn thiện của cơ chế
thực hiện và áp dụng pháp luật; ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý của cán bộ, công
chức Ngành Tòa án và nhân dân.

- Thứ hai, cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của Tòa án nhân dân thành phố
Thái Bình tuân theo quy định của luật Tổ chức tòa án nhân dân và phát huy tối đa vai
trò của mình
Hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức theo địa hạt hành chính và có thẩm
quyền xét xử chung như hiện nay có ưu điểm là công tác xét xử bám sát với nhiệm vụ
chính trị của các địa phương, bám sát cơ sở, đồng bộ với các cơ quan tiến hành tố tụng
và bổ trợ tư pháp của địa phương. Cơ cấu tổ chức bộ máy của mỗi cấp Tòa án được tổ
chức theo thẩm quyền xét xử và theo quy định của pháp luật tố tụng, do đó tương đối
linh hoạt, đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn xét xử các loại vụ án, và đảm bảo
23


sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan bổ trợ tư pháp với Tòa án.
Những ưu điểm nêu trên có tác dụng đảm bảo cho hệ thống Tòa án trong thời gian vừa
qua về cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu của công tác xét xử các loại vụ án thuộc thẩm
quyền của Tòa án mỗi cấp.
Toà án nhân dân thành phố Thái Bình, hiện biên chế có 19 cán bộ, công chức
gồm: 09 Thẩm phán (trong đó 01 Chánh án, 02 Phó Chánh án), 08 Thư ký, 01 cán bộ
văn phòng, 01 kế toán; 02 cán bộ hợp đồng theo Nghị định 68 của Chính phủ. Với cơ
cấu tổ chức như hiện tại, Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình đủ điều kiện để giải
quyết các tranh chấp một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.
2.1.2.2 Các nhân tố chủ quan
Hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án của Toà án phụ
thuộc vào nhiều điều kiện, yếu tố, không chỉ những nguyên nhân khách quan mà chủ
yếu phụ thuộc vào nguyên nhân chủ quan. Một trong những yếu tố vô cùng quan trọng
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng áp dụng pháp luật của Toà án nhân dân nói chung,
trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Toà án nói riêng, đó là: Chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức Ngành Toà án mà trước hết là trình độ chuyên môn,
phẩm chất đạo đức, năng lực, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán.
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân… là những người trực tiếp được giao nhiệm vụ

xét xử, nhân danh Nhà nước để bảo vệ pháp luật. Ở họ cần phải có những tố chất nghề
nghiệp nhất định, họ vừa là người thay mặt cho quyền lực nhà nước thông qua hoạt
động xét xử, vừa phải là công dân gương mẫu trong cuộc sống hằng ngày. Với vị trí và
trách nhiệm xã hội đặc biệt của mình, đòi hỏi họ phải có những tiêu chuẩn nhất định
về trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, đạo đức nghề nghiệp…
Ngoài các điều kiện về chuyên môn, họ còn phải có trình độ lý luận chính trị,
phải thường xuyên trau dồi đạo đức nghề nghiệp, coi đây là một yếu tố quan trọng, có
tác động trực tiếp đến quá trình xét xử của Toà án nhân dân hiện nay. Trong hoạt động
nghề nghiệp, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và các cán bộ tư pháp khác phải đảm bảo
được yếu tố khách quan, công bằng, vô tư, không vụ lợi cá nhân, có lý, có tình. Có như
vậy, trong quá trình giải quyết vụ án mới không để xảy ra oan sai, gây hậu quả đáng
tiếc.
2.2 Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh về giải quyết tranh chấp kinh

doanh, thương mại và tác động của nó tới hoạt động của Tòa án nhân dân thành
phố Thái Bình
2.2.1. Đánh giá chung về thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án
24


2.2.1.1 Ưu điểm
Một trong những yêu cầu trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, chính là sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Khi áp dụng pháp luật nói
chung, áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà
án nhân dân nói riêng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử phải áp dụng các quy định của
Hiến pháp, pháp luật tố tụng dân sự và hệ thống các văn bản pháp luật khác có liên
quan như luật Thương mại, luật Doanh nghiệp, luật Đầu tư, luật Xây dựng. Trong
những năm qua, nhiều Nghị quyết của Đảng đã được quán triệt thành các kế hoạch
hành động thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc cải cách tư pháp. Hệ

thống các văn bản pháp luật được ban hành khá đầy đủ, tương đối phù hợp với thực
tiễn làm cơ sở cho các Tòa án nhân dân xét xử các vụ án kinh doanh thương mại. Để
bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tố tụng dân sự đáp ứng được nhu
cầu trong giai đoạn mới, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XII đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của bộ luật Tố tụng dân sự. Ở lần
sửa đổi, bổ sung này, có nhiều điểm mới trong quy định sẽ giúp ích cho Tòa án trong
quá trình áp dụng pháp giải quyết các tranh chấp dân sự. Điển hình đó là:
-

Thứ nhất, nhiều tranh chấp kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền của Toà án cấp
tỉnh trước đây, nay thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện giải quyết
Theo quy định tại Điều 33 bộ luật Tố tụng dân sự 2004 thì Toà án nhân dân cấp
huyện chỉ có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh
doanh, thương mại từ điểm a đến điểm i Khoản 1 Điều 29 bộ luật tố Tụng dân sự 2004
giữa các tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận. Song với luật sửa đổi, Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tất
cả các tranh chấp kinh doanh thương mại thuộc Khoản 1 Điều 29 bộ luật Tố tụng dân
sự 2004. Vì thế, các tranh chấp liên quan đến mua bán cổ phiếu, trái phiếu; những
tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng tín dụng có liên quan đến ngân hàng; những
tranh chấp từ hợp đồng bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm trách nhiệm dân sự ... theo quy
định của luật sửa đổi thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện.
Đây chính là việc tăng thẩm quyền cho Toà án cấp huyện giải quyết các tranh chấp dân
sự theo lộ trình tăng thẩm quyền mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra.
-

Thứ hai, đơn giản hoá thủ tục khi xem xét đơn khởi kiện

Theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự 2004 và hướng dẫn của ngành Toà án
thì khi thụ lý hồ sơ khởi kiện, Toà án phải xem xét đơn khởi kiện, đánh giá đơn khởi
kiện có phù hợp với mẫu đơn khởi kiện đã được quy định hay không. Một trong những

yêu cầu đặt ra là đơn khởi kiện phải do chính các đương sự viết và ký tên hoặc điểm
25


×