Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Luan van Quản lý Giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.53 KB, 96 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những năm đầu thế kỷ XXI, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng
và chính sách của Nhà nước về việc xã hội hóa giáo dục, sự nghiệp giáo dục
của nước ta đã có nhiều thay đổi đáng kể. Một trong những thay đổi lớn nhất là
số lượng người học tăng không ngừng, người người đi học, nhà nhà đi học, học
ở mọi lứa tuổi, mọi lúc, mọi nơi và học theo nhiều phương thức. Đáp ứng nhu
cầu học tập của người dân, các cơ sở đào tạo đã mở ra nhiều loại hình đào tạo,
trong đó đào tạo theo địa chỉ, liên kết đào tạo (LKĐT) tại địa phương đã đem
lại cơ hội học tập cho người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi và hải đảo.
Có thể nói, đào tạo theo địa chỉ, LKĐT đã có rất nhiều đóng góp tích cực
cho sự nghiệp giáo dục, đồng thời giúp giải quyết bài toán về việc thiếu hụt
nguồn nhân lực của những địa phương vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải
đảo nhưng lại hạn chế về chất lượng. Đặc biệt, thời gian gần đây khi số lượng
người đạt trình độ đại học tăng lên một cách đáng kể thì việc một số tỉnh, thành
phân biệt đối xử trong tuyển dụng và bố trí cơng tác đối với những người tốt
nghiệp đại học, cao đẳng, THCN hệ phi chính quy đã tạo nên một cuộc tranh
cãi chưa có hồi kết về việc đào tạo phi chính quy nói chung và đào tạo liên kết
nói riêng. Điều này đã làm khó khăn cho các cơ sở đào tạo, cho người học và
có thể tạo ra những hệ lụy khơng đáng có đối với hình thức đào tạo phi chính
quy nói chung và LKĐT nói riêng.
Xuất phát từ thực tiễn về nhu cầu học tập nâng cao trình độ chun
mơn, nghiệp vụ của đội ngũ CBCC-VC và người lao động trong các thành
phần kinh tế tại địa phương Lâm Đồng, Trung tâm Đào tạo Bồi dưỡng tại
chức tỉnh Lâm Đồng đã được thành lập theo quyết định số 784 QĐ/TC ngày
26 tháng 09 năm 1985 của UBND tỉnh Lâm Đồng với chức năng nhiệm vụ:
“Là thành viên trong hệ thống mạng lưới trường, lớp đào tạo tại chức



2

của nhà nước, đặt tại địa phương để làm nhiệm vụ: phối hợp với các trường
đại học - cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, viện nghiên cứu... trong việc tổ
chức quản lý các lớp đào tạo, bồi dưỡng... theo chương trình đại học - cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc tương đương cho cán bộ, công nhân
viên (bao gồm cả khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể) theo hình thức tại
chức, vừa học, vừa làm.”[28]
Ngày 05/3/2003, Chính phủ ban hành Quyết định 253/QĐ-TTg phê
duyệt Đề án "Một số giải pháp củng cố, kiện tồn chính quyền cơ sở vùng
Tây Nguyên" giai đoạn 2002 – 2010 (gọi tắt là Đề án 253), nội dung chủ yếu
của đề án nhằm tổ chức đào tạo kiến thức, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ cơ
sở, bồi dưỡng tiếng dân tộc, tạo nguồn cán bộ tại chỗ cho khu vực Tây
Nguyên. Nhằm thực hiện Đề án 253 của Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh
Lâm Đồng đã ban hành Quyết định số 181/2003/QĐ – UB ngày 30/12/2003,
về việc bổ sung nhiệm vụ cho Trung tâm ĐTBD tại chức Lâm Đồng:
“- Đào tạo đội ngũ cán bộ cơng chức và cán bộ chính quyền cơ sở
nhằm chuẩn hóa và nâng cao trình độ cho cán bộ công chức; cán bộ chủ
chốt, các chức danh chun mơn hóa ở xã, phường thị trấn; cán bộ quản lý
các doanh nghiệp về các lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức quản lý
kinh tế, quản lý doanh nghiệp, ngoại ngữ, tin học.
- Tổ chức dạy tiếng Kơ ho theo kế hoạch đào tạo của tỉnh.
- Điều tra nghiên cứu tình hình để cung cấp cho các cơ quan có thẩm
quyền về nhu cầu học tập của cán bộ cơng chức, cán bộ chính quyền cơ sở và
đề xuất các phương án đáp ứng nhu cầu đó.”[29]
Từ khi thành lập đến nay, Trung tâm ĐTBD tại chức tỉnh Lâm Đồng
đã có nhiều đóng góp tích cực cho công tác đào tạo, đào tạo lại và bồi
dưỡng nguồn nhân lực cho tỉnh nhà thơng qua hình thức LKĐT.



3

Mặc dù có kinh nghiệm trong lĩnh vực LKĐT, nhưng thực trạng công
tác quản lý hoạt động LKĐT tại Trung tâm ĐTBD Tại chức Lâm Đồng cũng
tồn tại những bất cập như: quản lý giờ lên lớp của giảng viên, quản lý học
sinh sinh viên (HSSV), quản lý công tác chủ nhiệm lớp, quản lý cơ sở vật
chất (CSVC)… điều này dẫn đến mức độ đáp ứng với đòi hỏi nguồn nhân
lực của địa phương còn hạn chế. Tuy mục đích nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo của Trung tâm còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng đổi
mới quản lý giáo dục mà cốt lõi là quản lý hoạt động LKĐT của Trung tâm
là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Trung tâm. Vì vậy, sau 12
năm công tác tại Trung tâm với cương vị là Trưởng phịng Cơng tác Sinh
viên của Trung tâm ĐTBD tại chức Lâm Đồng, chúng tôi chọn vấn đề:
“Biện pháp quản lý hoạt động LKĐT tại Trung tâm ĐTBD tại chức tỉnh
Lâm Đồng” làm đề tài luận văn tốt nghiệp với mong muốn đóng góp những
biện pháp khả thi trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo liên kết
tại Trung tâm ĐTBD tại chức Lâm Đồng.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động LKĐT, chúng tôi
xây dựng và đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động LKĐT nhằm góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu quả LKĐT tại Trung tâm ĐTBD Tại chức Lâm
Đồng giai đoạn hiện nay.
3. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác Quản lý hoạt động LKĐT với các trường đại học, cao đẳng,
THCN trong nước tại Trung tâm ĐTBD tại chức Lâm Đồng.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động LKĐT của Trung tâm ĐTBD tại chức tỉnh
Lâm Đồng.



4

3.3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Địa bàn nghiên cứu: Trung tâm ĐTBD tại chức tỉnh Lâm Đồng.
- Khách thể điều tra: giảng viên các Trường Đại học Bách khoa Tp Hồ
Chí Minh, Trường Đại học Kiến trúc Tp Hồ Chí Minh, Trường Đại học Nơng
Lâm Tp Hồ Chí Minh, Trường đại học Kinh tế Đà Nẵng, Trường đại học
Bách khoa Đà Nẵng, Trường Đại học Mở Tp Hồ Chí Minh, Trường Đại học
Luật Tp Hồ Chí Minh, Viện Đại học mở Hà Nội…; Giảng viên thỉnh giảng,
cán bộ, chuyên viên đang công tác tại Trung tâm ĐTBD tại chức Lâm Đồng.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các văn bản, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Phân tích, nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến vấn đề quản lý hoạt
động LKĐT để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
4.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
4.2.1. Phương pháp điều tra viết
Xây dựng các phiếu điều tra bằng các loại câu hỏi đóng, mở gửi cho
nhiều đối tượng đã dự kiến (CBQL, giảng viên, chuyên viên) nhằm thu thập
các ý kiến của họ một cách khách quan về thực trạng công tác LKĐT: quản lý
hoạt động LKĐT của Trung tâm, CSVC-TTB phục vụ dạy và học, hoạt động
dạy và học, tài chính phục vụ hoạt động LKĐT... Dùng phiếu hỏi sẽ điều tra
được nhiều đối tượng trên phạm vi rộng trong thời gian ngắn, thu được nhiều
thông tin cần thiết, khách thể điều tra có thời gian suy nghĩ về vấn đề được
hỏi và tiết kiệm được kinh phí.
4.2.2. Phương pháp phỏng vấn, trao đổi
Gặp gỡ phỏng vấn các giảng viên đang giảng dạy các lớp LKĐT; cán
bộ quản lý Trung tâm trong các cuộc họp, các khóa tập huấn, các buổi học…



5

để thu thập thêm các thơng tin có liên quan đến công tác quản lý hoạt động
LKĐT nhằm hỗ trợ cho phương pháp sử dụng phiếu hỏi.
4.2.3. Phương pháp chuyên gia
Xin ý kiến của các chuyên gia, những người nhiều kinh nghiệm về
quản lý hoạt động LKĐT để tìm kiếm các kết luận thỏa đáng trong việc đánh
giá thực trạng và tranh thủ ý kiến của các chuyên gia trong việc đề xuất các
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động LKĐT của
Trung tâm.
4.2.4 Phương pháp tốn thống kê
Vận dụng các cơng thức tốn học, thống kê để xử lý số liệu điều tra, kết
quả nghiên cứu, hỗ trợ cho các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn
đã nêu ở trên nhằm rút ra kết luận khoa học.
5. Giả thuyết khoa học
Thời gian qua, hoạt động quản lý LKĐT của Trung tâm ĐTBD tại chức
tỉnh Lâm Đồng với các trường Đại học, Cao đẳng, THCN trong nước đã đạt
được kết quả nhất định. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế do nhiều nguyên
nhân khác nhau, trong đó cơng tác quản lý chưa phù hợp là một nguyên nhân.
Nếu xây dựng được cơ sở lý luận và khảo sát, đánh giá đúng thực trạng hoạt
động quản lý LKĐT của Trung tâm ĐTBD tại chức tỉnh Lâm Đồng thì có thể
đề xuất được biện pháp quản lý hoạt động LKĐT hợp lý, khả thi thì góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo tại Trung tâm ĐTBD tại chức tỉnh Lâm Đồng.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về lý luận
Làm rõ các khái niệm: LKĐT, quản lý hoạt động LKĐT.
Làm sáng tỏ lý luận về quản lý hoạt động LKĐT tại địa phương.
6.2. Về thực tiễn



6

Đánh giá thực trạng quản lý hoạt động LKĐT tại Trung tâm ĐTBD tại
chức Lâm Đồng.
Đề xuất, khảo sát tính hợp lý, tính khả thi của các nhóm giải pháp tăng
cường quản lý hoạt động LKĐT tại Trung tâm ĐTBD Tại chức Lâm Đồng.
7. Cấu trúc của luận văn
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động LKĐT trên cơ sở lý
luận của đề tài.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động LKĐT tại Trung tâm ĐTBD
tại chức Lâm Đồng.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động LKĐT tại Trung tâm ĐTBD
tại chức Lâm Đồng.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG LIÊN KẾT ĐÀO TẠO
TRÊN CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. 1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Thế giới
Từ những năm đầu của thế kỷ XX, vấn đề về giáo dục cho người lớn
tuổi đã dược quan tâm ở nhiều nước trên thế giới, nhưng có thể nói rằng cho

đến tận cuối thập niên 50 của thế kỷ XX thì đào tạo chính quy cơ bản vẫn là
hình thức đào tạo duy nhất trong hệ thống giáo dục và đào tạo ở đa số các
nước.
Bước vào nửa sau của thế kỷ XX, đứng trước yêu cầu cấp bách của xã
hội về nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, khi mà
đào tạo chính quy tại các trường đại học khơng thể đáp ứng đủ nhu cầu học
tập cũng như đáp ứng nguồn nhân lực cho xã hội phát triển vì vậy địi hỏi nền
giáo dục thế giới phải có những cái nhìn mới về cách thức đào tạo.
Trong cuốn sách “Khủng hoảng giáo dục trên phạm vi toàn thế giới”
xuất bản năm 1968, Ph.Combs đã chỉ ra những vấn đề lớn, cấp thiết và mang
tính tồn cầu của giáo dục đương đại, đó là: Ngày nay, nhu cầu học tập của
mọi người là rất lớn, giáo dục chính qui trong nhà trường không đủ đáp ứng
nhu cầu này. Học vấn mà người học được nhà trường trang bị còn chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Kiến thức học trong nhà trường
cũng quá ít ỏi và bị lạc hậu rất nhanh so với yêu cầu của sự phát triển.
Năm 1996, trong báo cáo với nhan đề “Học tập: Một kho báu tiềm ẩn”,
UNESCO đã xem xét vấn đề giáo dục suốt đời như là việc học tập dựa trên
bốn trụ cột: Học để biết - Học để làm - Học để chung sống - Học để khẳng
định mình.


8

Bốn trụ cột này chính là kim chỉ nam cho giáo dục thế giới nói chung
và giáo dục Việt Nam nói riêng khi tiến vào thế kỷ XXI.
1.1.2. Trong nước
Đất nước ta có một nền giáo dục dân tộc hình thành từ lâu. Truyền
thống hiếu học của dân tộc ta cũng đã được sử sách ghi nhận, bởi vậy ngay từ
khi mới ra đời, Đảng ta đã rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục. Trong Chính
cương sách lược vắn tắt, Nguyễn Ái Quốc đã đề ra chủ trương phổ thơng giáo

dục theo cơng nơng hóa và từ năm 1930 trên mặt trận giáo dục và đào tạo, sự
lãnh đạo của Đảng luôn kịp thời, sắc bén.
Bước vào thới kỳ đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng (1986) đã thổi luồng gió đổi mới mạnh mẽ vào mọi họat động của xã
hội, trong đó có giáo dục và đào tạo. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của
Đảng, Ban chấp hành Trung ương đã dành Hội nghị toàn thể lần thứ 4 để bàn
riêng các vấn đề về giáo dục, văn hóa, y tế, thanh niên và lần đầu tiên có Nghị
quyết riêng về giáo dục và đào tạo, xác định những quan điểm chủ đạo, những
chủ trương chính sách và biện pháp lớn để tiếp tục đổi mới sự nghiệp trồng
người, giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu. Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa VII) đã đáp ứng lịng mong đợi của xã hội bởi đã không những
chỉ ra những giải pháp cấp bách để xử lý những vấn đề nóng bỏng của Giáo
dục và đào tạo mà cịn định hướng lâu dài cho việc phát triển sự nghiệp này,
đặc biệt đã nêu rõ tư tưởng mới hết sức quan trọng: đầu tư cho giáo dục là đầu
tư cho phát triển.
Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII, giáo dục và đào tạo tiếp tục được khẳng
định là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Coi trọng cả 3 mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và
phát huy hiệu quả. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, ngày
24/12/1996, Hội nghị Trung ương 2 đã có Nghị quyết “Về định hướng chiến


9

lược phát triển GD-ĐT trong thời kỳ CNH-HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000”.
Nghị quyết chỉ rõ: “Thực sự coi Giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu;
Giáo dục- đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, Nhà nước và của toàn dân;
phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội…”. []
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã ra NQ chỉ rõ: “Tiếp tục nâng cao
chất lượng GD toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ

thống trường lớp và hệ thống quản lý GD; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa,
xã hội hóa; đẩy mạnh phong trào tự học của nhân dân, thực hiện GD cho mọi
người, cả nước trở thành một xã hội học tập… Tăng ngân sách đầu tư cho
GD-ĐT theo nhịp độ phát triển kinh tế..Thực hiện công bằng xã hội trong GD
…Thực hiện chủ trương xã hội hóa GD”.[]
Nghị quyết số 90/Cp ngày 21/8/1997 của Chính phủ cũng khẳng định:
“Tạo ra phong trào học tập sâu rộng trong toàn xã hội theo nhiều hình thức;
vận động tồn dân, trước hết là những người trong độ tuổi lao động, thực
hiện học tập suốt đời để làm việc tốt hơn, thu nhập cao hơn và có cuộc sống
tốt đẹp hơn, làm cho xã hội ta trở thành một xã hội học tập.
… Nâng cao ý thức trách nhiệm và sự tham gia của toàn dân đối với
giáo dục nhằm củng cố, tăng cường hiệu quả của hệ thống giáo dục để phục
vụ tốt việc học tập của nhân dân.”[]
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về XHH giáo
dục, từ cuối thập niên 90 của Thế kỷ XX các loại hình trường lớp, các loại
hình đào tạo tại Việt Nam được mở rộng và triển khai trên khắp mọi miền của
đất nước. Phong trào “người người đi học, nhà nhà đi học, học thường xuyên,
học suốt đời” là một tín hiệu mừng cho thấy truyền thống hiếu học của dân
tộc ta đang được phát huy tốt trong giai đoạn này.
Chúng ta không thể phủ nhận giá trị nhân văn của hình thức đào tạo phi
chính quy cho người lớn tuổi, hình thức LKĐT tại địa phương ... khi các hình


10

thức đào tạo này đem cơ hội tiếp xúc với tri thức bậc đại học cho tất cả mọi
người. Nhưng, việc mở rộng các loại hình đào tạo khiến số lượng trường lớp
tăng nhanh, lượng người học tăng đột biến, trong khi đội ngũ giảng viên còn
thiếu cả về số lượng và chất lượng; cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học hạn
chế; đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục còn chưa được đào tạo bài bản về quản

lý giáo dục.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và đào tạo, trong 22 năm (1987-2009),
số SV tăng 13 lần (từ 130.000 lên 1,7 triệu), trong khi số giảng viên chỉ tăng
ba lần.(nguồn )
Theo TSKH Bùi Mạnh Nhị, - Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Giáo
dục và Đào tạo - dự thảo “Đề án đổi mới giáo dục” vừa được hoàn tất đã chỉ
rõ 6 hạn chế, yếu kém trong giáo dục đào tạo ở Việt Nam hiện nay. Sáu hạn
chế, yếu kém đó gồm:
1. Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển KTXH, nhất
là ở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; nặng bệnh thành tích.
2. Chương trình giáo dục cịn coi nhẹ thực hành, vận dụng kiến thức;
phương pháp giáo dục, kiểm tra, thi và đánh giá lạc hậu, nhiều bất cập. Thiếu
gắn kết giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh.
3. Hệ thống giáo dục còn cứng nhắc, thiếu tính liên thơng giữa các trình
độ đào tạo và phương thức giáo dục … Chưa gắn kết đào tạo với sử dụng và
nhu cầu của thị trường lao động.
4. Quản lý giáo dục đào tạo còn nhiều yếu kém. Một số hiện tượng tiêu
cực kéo dài trong giáo dục, chậm được khắc phục và có việc cịn trầm trọng
hơn, gây bức xúc cho xã hội…
5. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn nhiều bất cập về
chất lượng, số lượng và cơ cấu.
6. Chính sách và cơ chế tài chính cho giáo dục lạc hậu.


11

(Nguồn )
Tuy nhiên, từ yêu cầu của tiến trình CNH-HĐH đất nước, với xu thế
của nền kinh tế tri thức, những người có bằng cấp cao thường dễ thăng tiến,
có thu nhập cao, có địa vị trong xã hội, nên nhu cầu của người dân muốn có

bằng Đại học để dễ xin việc làm, dễ thăng tiến, có thể cải thiện thu nhập... Do
đó bằng mọi hình thức, người học muốn có cho bằng được tấm bằng đại học,
điều này đã góp phần tác động tiêu cực đến các hình thức đào tạo phi chính
quy nói chung, đặc biệt là hình thức đào tạo liên kết tại địa phương.
Mặt khác, từ những khó khăn, hạn chế của ngành giáo dục do sức ép
của nhu cầu học tăng cao nên việc cắt xén giờ giảng, tổ chức thi cử không
nghiêm túc, hệ thống trường lớp không đủ chuẩn, việc quản lý giờ lên lớp
lỏng lẻo, năng lực đội ngũ cán bộ quản lý còn hạn chế... đã làm cho chất
lượng đào tạo phi chính quy, đào tạo liên kết giảm xuống rõ rệt. Thừa nhận về
chất lượng hệ tại chức còn chênh lệch rất nhiều so với hệ chính qui, tại buổi
tọa đàm Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo hình thức vừa làm vừa học
trình độ đại học, cao đẳng do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức tại Đại học Đà
Nẵng vào ngày 30/8/2013, Thứ trưởng Bùi Văn Ga khẳng định: “Tất cả
chúng ta ai cũng biết thực chất, ai cũng biết vấn đề của tại chức khơng bài
bản như chính quy. Khơng phải vì các địa phương từ chối tuyển dụng tại
chức mà từ lâu xã hội đã biết chất lượng như thế nào rồi. Chúng ta không thể
trách các nhà tuyển dụng không mặn mà với hệ này được”. (Nguồn
tuoitre.vn)
Từ hệ lụy này, một số tỉnh, thành như Đà Nẵng, Nam Định... đã nói
khơng với việc tuyển dụng vào biên chế nhà nước đối với những người có
bằng đại học hệ phi chính quy. Việc phân biệt bằng cấp trong tuyển dụng, bổ
nhiệm ở một số tỉnh thành đã dấy lên những tranh luận trên tất cả các phương
tiện thông tin đại chúng và thu hút sự quan tâm của rất nhiều tầng lớp trong xã


12

hội, vấn đề này đã ảnh hưởng tiêu cực đến chủ trương xã hội hóa giáo dục của
Đảng và Nhà nước.
1.1.3. Tại Lâm Đồng

Là một tỉnh miền núi có địa bàn rộng, trình độ dân trí thấp, bước vào
đầu thế kỷ XXI mà đa số CB-CC từ cấp xã đến cấp tỉnh của Lâm Đồng chưa
được đào tạo bài bản, đúng chuẩn. Trước nhu cầu về nguồn nhân lực lớn, lãnh
đạo tỉnh Lâm Đồng đã coi nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ
cán bộ nói riêng và nguồn nhân lực nói chung là nhiệm vụ cấp bách.
Theo Kế hoạch đào tạo bồi dưỡng CB-CC và cán bộ cơ sở cấp xã,
phường, thị trấn giai đoạn 2003-2005 số 3572/UB do UBND tỉnh Lâm Đồng
ban hành ngày 29/10/2003, trong số 2926 CB-CC cấp xã chỉ có 85 người có
trình độ đại học (2,9%); 360 người có trình độ trung cấp (12,3%); 144 người
có trình độ sơ cấp (4,92%). Từ đó Tỉnh Lâm Đồng đã xác định phương hướng
nhiệm vụ như sau: “Công tác đào tạo, bổi dưỡng CB-CC Nhà nước và CB cơ
sở tiếp tục hướng vào khắc phục kịp thời những hạn chế về trình độ chuyên
môn, về năng lực quản lý để CB-CC Nhà nước thực hiện tốt nhiệm vụ được
giao; tập trung trang bị, bổ sung những kiến thức, kỹ năng cơ bản về chuyên
môn, nghiệp vụ quản lý nhất là quản lý hành chính Nhà nước sát với u cầu
cơng việc và tiêu chuẩn CB-CC, CB cơ sở cấp xã. Bên cạnh đó, cần tập trung
đào tạo, bồi dưỡng một số CB-CC có trình độ chun mơn sâu để có sự
chuyển biến mạnh về chất lượng đội ngũ CB-CC của tỉnh.”[]
Để thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, lãnh đạo tỉnh
Lâm Đồng đã xác định hình thức LKĐT tại tỉnh nhà là một hình thức khả thi,
vì với đối tượng VLVH thì học tại địa phương là một thuận lợi rất lớn cho
người học. Vì vậy, UBND tỉnh Lâm đồng tiếp tục bổ sung chức năng, nhiệm
vụ cho Trung tâm ĐTBD tại chức Lâm Đồng tại Quyết định số
181/2003/QĐ–UB ngày 30/12/2003.


13

Theo báo cáo thành tích 25 năm hoạt động của Trung tâm ĐTBD tại
chức Lâm Đồng (2010), trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, sau 25

năm hoạt động trong lĩnh vực LKĐT, Trung tâm ĐTBD tại chức Lâm Đồng
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc giữ vững chất lượng giáo
dục, tăng cường cơ sở vật chất, củng cố kỷ cương nền nếp trong nhà trường.
Những thành tựu ấy có sự đóng góp của đội ngũ cán bộ quản lý và toàn thể
CB-NV của Trung tâm. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới, đội ngũ cán bộ
quản lý và tồn thể CB-NV của Trung tâm cịn bộc lộ những mặt hạn chế.
Từ trước đến nay chưa có nhiều đề tài, cơng trình nghiên cứu đề cập tới
công tác quản lý hoạt động LKĐT tại các cơ sở giáo dục ở các địa phương.
Cho đến nay, mặc dù Bộ Giáo dục – Đào tạo đã ban hành qui chế về Trung tâm
GDTX cấp tỉnh; Quy định về LKĐT trình độ trung cấp chuyên nghiệp, cao
đẳng, đại học nhưng cơng tác quản lý hoạt động LKĐT vẫn cịn tùy thuộc vào
từng địa phương, từng nhà trường, từng ngành và chưa mang tính thống nhất,
tính pháp lý bắt buộc. Chất lượng quản lý cơng tác LKĐT cịn có rất nhiều vấn
đề phải bàn. Mặc dù vậy, trên thực tế, hoạt động LKĐT của các Trung tâm
GDTX cấp tỉnh với các trường đại học, cao đẳng và THCN đã, đang phát triển
và tồn tại khách quan đáp ứng nhu cầu cần thiết và cấp bách của xã hội.
Những năm gần đây, có một số luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục của
các tác giả như:
- Đỗ Văn Hạ (2003), “Một số biện pháp đổi mới quản lý công tác LKĐT
tại chức ở trung tâm GDTX tỉnh Hải Phòng”,
- Phạm Văn Thiệp (2006), “Một số biện pháp quản lý công tác LKĐT
tại chức ở trung tâm GDTX tỉnh Bắc Ninh”
Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả trên đã nêu lên những biện pháp
quản lý hoạt động LKĐT như: Tăng cường quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm của Trung tâm; Đổi mới công tác tuyển sinh; Đổi mới công tác quản lý


14

CSVC - thiết bị và tài chính; Đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy, tăng cường đội

ngũ cán bộ, giáo viên có năng lực chun mơn vững vàng; Các biện pháp
quản lý hoạt động dạy và học; Biện pháp quản lý đầu ra của quá trình LKĐT.
Các biện pháp trên có giá trị khoa học cả về lý luận và thực tiễn, phù hợp
với công việc của tác giả trong khi thực hiện nhiệm vụ, đồng thời cũng giúp cho
các cơ sở giáo dục khác tham khảo để vận dụng vào cơng tác quản lý của mình.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu phát triển giáo dục trong thời kỳ đổi
mới hiện nay nói chung và giáo dục của tỉnh Lâm Đồng nói riêng; trước thực
trạng về chất lượng LKĐT - vấn đề mà xã hội đang quan tâm - rất cần có
những nghiên cứu về biện pháp quản lý hoạt động LKĐT tại các Trung tâm
GDTX cấp tỉnh. Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề: “Biện pháp quản lý
hoạt động LKĐT tại Trung tâm ĐTBD tại chức tỉnh Lâm Đồng” trong giai
đoạn hiện nay là cần thiết trong nghiên cứu khoa học về quản lý giáo dục.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Đào tạo và LKĐT
1.2.1.1. Khái niệm đào tạo
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Đào tạo là quá trình tác động đến
một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi
với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân cơng nhất định, góp phần của
mình vào sự phát triển của xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của lồi
người. Về cơ bản, đào tạo là giảng dạy và học tập trong nhà trường gắn với
giáo dục nhân cách” [24]
Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản VHTT-1998 thì thuật
ngữ “đào tạo” nghĩa là: “dạy dỗ, rèn luyện để trở nên người có hiểu biết, có
nghề nghiệp; đào tạo thành người có tri thức, chun mơn nghiệp vụ” [27]


15

Theo Trần Kiểm: “Đào tạo là quá trình tác động đến một con người

nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo ... một
cách có hệ thống để chuẩn bị cho họ có khả năng thích nghi với cuộc sống và
khả năng đảm nhận một sự phân công nhất định của xã hội” [23]
Tác giả Hồ Ngọc Đại định nghĩa: “Đào tạo được hiểu là hoạt động có
mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển một cách có hệ thống
những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp và thái độ của người lao động
nhằm xây dựng nhân cách cơ bản cho mỗi cá nhân, tạo điều kiện cho họ có
thể tham gia lao động trong cuộc sống xã hội”[10]
Như vậy, có thể tóm tắt hai nhiệm vụ chính của đào tạo là:
- Cung cấp tiềm năng, tiềm lực cho người học;
- Cung cấp khả năng vận dụng những tiềm năng đó thành những kỹ
năng riêng của người học trong thực tiễn.
1.2.1.2. Khái niệm Quá trình đào tạo
Quá trình đào tạo là bộ phận cấu thành chủ yếu nhất trong toàn bộ hoạt
động của nhà trường. Sự điều hành quá trình đào tạo trong nhà trường chính
là nền tảng để phân hóa chức năng, xác định cơ chế tổ chức quản lý và tổ
chức chỉ đạo hoạt động đào tạo trong nhà trường.
Quá trình đào tạo do nhà trường quản lý nhưng nó quan hệ tương tác,
liên thơng với các tổ chức đào tạo khác hoặc các tổ chức, cơ quan khác mà
sinh viên có điều kiện tham gia hoạt động.
Q trình đào tạo bao gồm các thành tố chính sau: mục tiêu, nội dung,
phương pháp và phương tiện, kiểm tra đánh giá kết quả học tập, đánh giá
chương trình đào tạo.
Nếu xét theo tính chất cơng việc thì q trình đào tạo bao gồm các cơng
việc sau: tuyển sinh, đào tạo, theo dõi sau đào tạo. Trong đó mỗi giai đoạn lại
bao gồm những cơng việc cụ thể, đó là:


16


- Giai đoạn tuyển sinh:
+ Khảo sát nhu cầu học tập, nhu cầu tuyển dụng lao động trong khu
vực tuyển sinh;
+ Xây dựng phương án tuyển sinh;
+ Xin chỉ tiêu tuyển sinh;
+ Thông báo tuyển sinh; Phát và thu nhận hồ sơ tuyển sinh;
+ Lập Hội đồng tuyển sinh (Danh sách Hội đồng, ban ra đề thi, ban coi
thi, ban chấm thi, ban thư ký…); Tổ chức thi tuyển sinh; Chấm thi tuyển sinh;
+ Xét điểm chuẩn, công nhận danh sách trúng tuyển; Gửi giấy báo
trúng tuyển; Nhập học.
- Giai đoạn đào tạo:
+ Xây dựng Kế hoạch đào tạo;
+ Thực hiện giảng dạy, kiểm tra các học phần; Xét điều kiện lên lớp;
Xét điều kiện tốt nghiệp; Thi hoặc xét tốt nghiệp, công nhận tốt nghiệp;
+ Tổng kết, phát bằng tốt nghiệp.
- Giai đoạn sau đào tạo:
+ Khảo sát, tổng hợp và đánh giá sinh viên sau khi tốt nghiệp: Bao
nhiêu phần trăm có việc làm? Việc làm có phù hợp với chuyên môn đào tạo
không? Khả năng đảm nhận công việc chuyên môn như thế nào?
+ Từ số liệu khảo sát rút ra kết luận và xây dựng phương án đào tạo
mới.
Mỗi giai đoạn trong quá trình đào tạo có vai trị hết sức quan trọng đối
với cả q trình đào tạo.
- Giai đoạn tuyển sinh: Nếu chất lượng đầu vào tốt thì giai đoạn đào tạo
sẽ thuận lợi, do sinh viên có khả năng tiếp thu kiến thức tốt.
- Giai đoạn đào tạo là quan trọng nhất. Nếu chương trình đào tạo đảm
bảo cung cấp cho sinh viên cả kỹ năng và kiến thức lý thuyết sâu, rộng; đội ngũ


17


giảng viên có kinh nghiệm, u nghề, tận tình với sinh viên; công tác quản lý
khoa học; cơ sở vật chất đảm bảo tốt thì chắc chắn hiệu quả đào tạo sẽ cao.
- Giai đoạn sau đào tạo cũng có một vị trí quan trọng, các thơng tin về
tình hình sử dụng nhân lực, khả năng đảm nhận công việc sau đào tạo ... sẽ
giúp cho nhà trường bổ sung, điều chỉnh những vấn đề cần thiết trong các giai
đoạn tuyển sinh, đào tạo.
Mối quan hệ trên được thể hiện ở sơ đồ dưới đây:
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ khối quá trình đào tạo
Tuyển
sinh

Đào
tạo

Sau
đào
tạo

Liên hệ ngược
1.2.1.3. Khái niệm LKĐT
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt – NXB Văn hóa – Thơng tin 1998
(Nguyễn Như Ý chủ biên) thuật ngữ “liên kết” được định nghĩa là: “Kết lại
với nhau từ nhiều thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ nhằm mục đích nào
đó”[14].
Khái niệm “liên kết” phản ánh các mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc lẫn
nhau giữa các thành phần trong một tổ chức hoặc giữa các tổ chức với nhau
nhằm hướng đến một mục đích chung nào đó. Tính hướng đích là tiêu điểm,
là cơ sở và động lực của các mối liên kết giữa chúng. Sự liên kết giữa các tổ
chức theo một mục đích nào đó tạo nên một sức mạnh mới, khả năng mới mà

từ thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ khơng thể có.
Theo Quy định về LKĐT trình độ trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng,
đại học ban hành kèm theo Quyết định số 42/2008/QĐ-BGDĐT ngày 28


18

tháng 7 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, thuật ngữ “LKĐT”
được hiểu là sự hợp tác giữa các bên để tổ chức thực hiện các chương trình
đào tạo cấp bằng tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học.
Trong đó:
- Đơn vị chủ trì đào tạo là các trường tổ chức quá trình đào tạo bao
gồm: tuyển sinh, thực hiện chương trình, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện,
công nhận kết quả và cấp bằng tốt nghiệp.
- Đơn vị phối hợp đào tạo là chủ thể trực tiếp tham gia LKĐT với vai
trò hợp tác, hỗ trợ các điều kiện thực hiện LKĐT.
- Hợp đồng LKĐT là văn bản được ký kết giữa các bên liên kết nhằm
xác định quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm mà các bên thỏa thuận trong quá
trình LKĐT.
- Mục đích của hoạt động LKĐT là thực hiện chủ trương đào tạo theo
nhu cầu xã hội, đào tạo theo địa chỉ; huy động tiềm năng của các trường nhằm
đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ cho địa phương; tạo cơ hội học tập cho nhiều
người trên cơ sở đảm bảo chất lượng, hiệu quả giáo dục, góp phần thực hiện
mục tiêu cơng bằng và xã hội hố giáo dục.
Từ những vấn đề nêu trên, ta hiểu: LKĐT là sự kết hợp của hai cơ sở giáo
dục nhằm tạo điều kiện cho các địa phương đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ theo
nhu cầu của địa phương.
Sự kết hợp này bao gồm các nội dung sau:
- Khảo sát nhu cầu học tập của người học
- Xây dựng kế hoạch mở lớp

- Tuyển sinh
- Thực hiện kế hoạch và chương trình đào tạo
- Hoạt động giảng dạy của giảng viên
- Giáo trình, tài liệu


19

- Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học
- Hoạt động học tập của học viên
- Công tác kiểm tra, đánh giá
Việc LKĐT được thực hiện trên cơ sở hợp đồng LKĐT, trong đó:
- Đơn vị chủ trì đào tạo chịu trách nhiệm toàn diện về việc đào tạo.
- Đơn vị phối hợp đào tạo chịu trách nhiệm về khảo sát nhu cầu học tập
của người học, xây dựng kế hoạch mở lớp để báo cáo với các cơ quan có
thẩm quyền, chuẩn bị cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ quá trình đào tạo,
tham gia quản lý quá trình LKĐT.
1.3. Khái niệm Quản lý hoạt động LKĐT
1.3.1. Khái niệm quản lý
Khái niệm “quản lý” đã được các nhà khoa học định nghĩa theo nhiều
cách khác nhau, tùy thuộc vào phương pháp tiếp cận.
Theo C.Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào tiến hành trên quy mơ tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ
đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng
chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận
động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình
điều khiển lấy mình, cịn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”[26]
Đối với nhà tốn học A.N.Kolmogorov thì: “Quản lý là q trình gia
cơng thơng tin thành tín hiệu điều chỉnh hoạt động của máy móc hay cơ thể
sống”. [12]

Với nhà lý luận quản lý kinh tế Pháp A.Fayon: “Quản lý là đưa xí
nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng các nguồn lực (nhân, tài, vật, lực) của nó”[9]
Nhà kinh tế học người Mỹ F.W Taylor cho rằng: “Quản lý là nghệ
thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương
pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất” [9]


20

Dưới góc độ điều khiển học, A.I.Beng cho rằng: “Quản lý là quá trình
chuyển một hệ động lực phức tạp từ trạng thái này sang trạng thái khác nhờ
sự tác động vào các phần tử biến thiên của nó”. [22]
Khi nói về vai trị của quản lý trong xã hội, ý kiến của Paul Hersey và
Ken Blanc Heard trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực” là: “Quản lý là một
quá trình cùng làm việc giữa nhà quản lý với người bị quản lý, nhằm thông
qua hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy động các nguồn lực khác để đạt
mục tiêu của tổ chức”. [16]
H.Koontz thì khẳng định: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm
bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích
của nhóm (tổ chức) với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn ít nhất. Với
tư cách thực hành thì quản lý là một nghệ thuật, cịn với kiến thức thì quản lý
là một khoa học”[9]
Các nhà nghiên cứu về quản lý của Việt Nam cũng có những khái niệm
khác nhau:
Theo Đặng Vũ Hoạt: “Quản lý là một quá trình định hướng, quản lý một
hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc
trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn”. [8]
Theo Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là q trình tác động liên tục có tổ
chức, có định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý (S – O) về các
mặt chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa bằng một hệ thống các nguyên tắc pháp

luật, chính sách, phương pháp và giải pháp quản lý tạo ra những điều kiện cho
sự phát triển của khách thể và tạo ra uy tín”. [13]
Tác giả Hồ Văn Vĩnh cho rằng: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có
hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề
ra”. [11]


21

Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Đức Trí: “Quản lý là một q trình
tác động có hướng đích, có tổ chức, có lựa chọn trong số các tác động có thể
có, dựa trên các thơng tin về tình trạng và môi trường, nhằm giữ cho sự vận
hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục tiêu đã
định”[12]
Từ những định nghĩa trên có thể rút ra một số điểm sau:
- Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định.
- Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận chủ thể quản lý và đối
tượng quản lý, đây là quan hệ ra lệnh – phục tùng, khơng đồng cấp và có tính
bắt buộc.
- Quản lý là sự tác động, mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với
quy luật khách quan.
- Quản lý xét về mặt công nghệ là sự vận động của thông tin.
- Quản lý có khả năng thích nghi giữa chủ thể quản lý với đối tượng
quản lý và ngược lại.
- Quản lý bao giờ cũng là quản lý con người.
- Quản lý là một hệ thống.
1.3.2. Bản chất của quản lý
1.3.2.1. Mục tiêu của quản lý
Là tạo dựng một môi trường mà trong đó mỗi người có thể hồn thành
được mục đích của mình, của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất

mãn của cá nhân ít nhất.
1.3.2.2. Đối tượng của quản lý
Là các quan hệ quản lý, tức là quan hệ giữa người với người trong quản
lý, quan hệ giữa chủ thể với đối tượng quản lý. Quản lý nghiên cứu các quan
hệ phát sinh trong quá trình hoạt động của con người, của các tổ chức. Những
quan hệ này có thể là quan hệ của con người với môi trường, của tổ chức với


22

môi trường. Quản lý nghiên cứu các mối quan hệ này nhằm tìm ra quy luật và
cơ chế vận dụng những quy luật đó trong q trình tác động lên con người,
thơng qua đó tác động lên các yếu tố vật chất và phi vật chất khác như vốn,
vật tư, trang thiết bị, công nghệ, thông tin … một cách có hiệu quả. Khoa học
quản lý sẽ cung cấp những kiến thức cơ bản làm nền tảng cho nghiên cứu sâu
các môn học về quản lý tổ chức theo lĩnh vực hoặc theo ngành chuyên môn từ
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quản lý nhân lực, quản lý tài chính … Như
vậy trong lĩnh vực quản lý, vai trò lý thuyết quản lý cho ta những phương tiện
phân loại các kiến thức quan trọng và thích hợp về quản lý. Những ngun tắc
trong quản lý có tính chất mơ tả hoặc tiên đốn, chứ khơng có tính tất yếu.
Điều này có nghĩa là, chúng phản ánh sự liên hệ của một biến số với các biến
số khác như thế nào, tức là cái gì sẽ xẩy ra khi các biến số này tác động qua
lại … Quản lý có nhiệm vụ tìm ra quy luật và tính quy luật của hoạt động
quản lý, từ đó xác định các ngun tắc, chính sách, cơng cụ, phương pháp và
các hình thức tổ chức quản lý để khơng ngừng hồn thiện và nâng cao chất
lượng quản lý.
1.3.2.3. Chức năng của quản lý
Chức năng của quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu
của chủ thể quản lý nảy sinh từ sự phân cơng, chun mơn hóa trong hoạt
động quản lý nhằm thực hiện mục tiêu chung của quản lý.

Henry Fayol, một trong những người khởi đầu khoa học quản lý cho
rằng quản lý có 4 chức năng cơ bản và là 4 khâu có sự liên hệ chặt chẽ với
nhau, đó là:
a. Chức năng lập kế hoạch
Chức năng này nhằm hướng dẫn xác định mục tiêu, mục đích đối với
các thành tựu tương lai của tổ chức và các con đường, biện pháp, cách thức để
đạt được mục tiêu đó.


23

Như vậy lập kế hoạch có liên quan đến mục tiêu, nhiệm vụ, xác định
mục tiêu (phương hướng) đối với tổ chức, xác định và đảm bảo các phương
tiện, điều kiện các nguồn lực của tổ chức để đạt được mục tiêu. Trong lập kế
hoạch bao gồm cả hai phương diện hoạch định cách thức tổ chức thực hiện
mục tiêu, nhiệm vụ và kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện mục tiêu nhiệm
vụ để thấy rõ những mục tiêu nhiệm vụ được thực hiện như thế nào, đến đâu
và nếu thấy chưa thỏa mãn thì quyết định xem những hoạt động nào cần thiết
để đạt được mục tiêu đó.
b. Chức năng tổ chức
Đó là chuyển hóa những ý tưởng của kế hoạch đã lập thành hiện thực,
tổ chức thực hiện kế hoạch.
Tổ chức là quá trình sắp xếp, xác lập và liên kết các bộ phận các chức
năng riêng lẻ thành một hệ thống hoàn thiện, thống nhất tạo nên sức mạnh
tổng hợp để đạt được mục tiêu quản lý.
Dưới tác động của chức năng tổ chức diễn ra quá trình hình thành cấu
trúc quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức, nhằm
làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể
của tổ chức. Nhờ chức năng tổ chức mà người quản lý có thể kết hợp, điều
phối tốt hơn các nguồn nhân lực, vật lực một cách có hiệu quả, cho phép mọi

người trong đơn vị có điều kiện góp phần tốt nhất vào mục tiêu chung. Tổ
chức được coi là điều kiện của người quản lý, tổ chức là công cụ của quản lý,
tổ chức tốt sẽ là khởi nguồn kích thích các động lực, nếu tổ chức khơng tốt sẽ
kìm hãm, triệt tiêu các động lực, làm giảm sút hiệu quả quản lý.
c. Chức năng điều hành
Điều hành là tác động đến con người bằng các quyết định để con người
hoạt động, đưa bộ máy đạt tới mục tiêu, trong đó bao gồm cả việc khuyến
khích, động viên.


24

Sau khi lập kế hoạch, xác định được cơ cấu tổ chức và nhân sự thì phải
làm cho hệ thống quản lý hoạt động, phải có người lãnh đạo dẫn dắt tổ chức,
đó là chức năng điều hành, điều khiển.
Mục đích của điều hành là đưa tổ chức vào hoạt động để thực hiện mục
tiêu. Đây là những tác động từ phía chủ thể quản lý, điều hành trong quản lý,
là quá trình khởi động và duy trì sự hoạt động của hệ thống quản lý theo kế
hoạch đề ra.
Điều hành thể hiện chức năng lãnh đạo, điều hành trong quản lý là thực
hiện những tác động lên con người, khơi dậy động lực con người trong hệ
thống quản lý, là quá trình tác động lên con người với những động cơ khác
nhau của họ. Điều hành không chỉ là sự chỉ dẫn, ra lệnh mà còn bao hàm cả
sự động viên, khích lệ họ hồn thành những nhiệm vụ.
Điều hành là chức năng quản lý với ý nghĩa quyết định trong hoạt động
quản lý, là yếu tố đảm bảo thực hiện các chức năng quản lý khác. Bởi lẽ con
người với tư cách vừa là chủ thể vừa là đối tượng của quản lý, là nhân tố nội
tại quyết định thành công hay thất bại của tổ chức.
d. Chức năng kiểm tra, giám sát
Kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhằm kịp thời điều chỉnh sai

sót, đưa bộ máy đạt được mục tiêu xác định. Thông qua chức năng này, người
quản lý theo dõi, giám sát các hoạt động và tiến hành những hoạt động sửa
chữa, điều chỉnh sai sót, lệch lạc nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả mục
tiêu đề ra.
Tóm lại, các chức năng quản lý tạo thành một hệ thống thống nhất với
một trình tự nhất định, trong đó từng chức năng vừa có tính độc lập tương đối,
vừa có mối quan hệ phụ thuộc với chức năng khác. Quá trình ra quyết định
quản lý là quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo một trình tự nhất
định. Việc bỏ qua hoặc coi nhẹ bất cứ một chức năng nào trong chuỗi các


25

chức năng đều ảnh hưởng xấu tới kết quả quản lý. Các chức năng tạo thành
một chu trình quản lý của một hệ thống.
1.4. Khái niệm Biện pháp và biện pháp quản lý
1.4.1. Biện pháp
Theo từ điển Tiếng Việt (1992) do Nguyễn Như Ý chủ biên thì biện
pháp là: cách làm, cách thức tiến hành.
Biện pháp là cách thức hành động để thực hiện một mục đích, là cách
làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.
1.4.2. Biện pháp quản lý
Có thể hiểu biện pháp quản lý: là những hình thức, biện pháp mà chủ
thể quản lý dùng quyền lực trực tiếp đưa ra các mục tiêu nhiệm vụ, yêu cầu để
khách thể quản lý thực hiện.
Tuy nhiên trong thực tế tuỳ từng hoàn cảnh, từng đối tượng mà vận
dụng các biện pháp quản lý thích hợp.
1.5. Nội dung quản lý hoạt động LKĐT
1.5.1. Quản lý công tác tuyển sinh
Để làm tốt được công tác này cần phải tiến hành điều tra trình độ, nhu

cầu học tập của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các
thành phần kinh tế tại địa phương; thống kê nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực
của tỉnh và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh để xây dựng phương án tuyển
sinh. Từ các số liệu thống kê, xây dựng kế hoạch mở các lớp đại học, cao
đẳng, THCN phù hợp với nhu cầu của người học và tổ chức sử dụng lao động.
1.5.2. Phối kết hợp quản lý mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo
Đây là cơng tác quản lý việc xây dựng và thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
giáo dục sao cho các kế hoạch đào tạo, nội dung chương trình giảng dạy được
thực hiện một cách đầy đủ, đúng thời gian và nội dung đã hoạch định. Căn cứ
vào kế hoạch và chương trình mơn học, Trung tâm phối kết hợp với trường


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×