Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Nghiên cứu và vận dụng phương pháp trả lương tại công ty May10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.72 KB, 35 trang )

Lời mở đầu
Trong thời buổi hiện nay, khi mà hội nhập kinh tế quốc tế đang được
đẩy mạnh, các kỹ thuật, công nghệ tiên tiến nhất được áp dụng để phát
triển sản xuất thì vai trò của nguồn nhân lực lại càng được coi trọng.
Bởi đây là nguồn lực cạnh tranh có yếu tố quyết định mà các máy móc
hay các công nghệ dù tiên tiến đến đâu cũng không có khả năng thay
thế. Vì vậy mà có rất nhiều câu hỏi liên quan đến lực lượng lao động
mà doanh nghiệp rất quan tâm như “Làm sao để tạo động lực mạnh
mẽ cho người lao động?” hay “Làm sao để người lao động trung thành
hơn với doanh nghiệp?”. Và chính các doanh nghiệp cũng nhận thấy
rằng một trong những câu trả lời giúp giải quyết hai câu hỏi này đó
chính là trả lương hợp lý cho người lao động. Do tiền lương là yếu tố
cơ bản để quyết định thu nhập tăng hay giảm của người lao động,
quyết định mức sống vật chất và tinh thần không chỉ của người lao
động mà còn cả gia đình của họ.
Và để nghiên cứu rõ hơn về tiền lương cũng như các phương pháp
trả lương cho người lao động của doanh nghiệp, nhóm đã lựa chọn
nghiên cứu đề tài:” Nghiên cứu và vận dụng phương pháp trả lương tại
công ty May10”.
Dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian có hạn nên bài làm của
nhóm không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được
những đóng góp từ cô giáo và các bạn. Nhóm xin chân thành cảm ơn!


I, Cơ sở lý thuyết:
1.1. Khái niệm chung về tiền lương:
1.1.1.Khái niệm,bản chất:





Khái niệm tiền lương:
- Tiền lương là giá cả của lao động, được hình thành trên cơ sở thỏa
thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động dựa trên năng
suất,chất lượng, hiệu quả lao động mà người lao động tạo ra tính đến
quan hệ cung cầu về lao động trên thị trường và tuân thủ pháp luật
của nhà nước.
Bản chất của tiền lương:
- Tiền lương chính là biểu hiện bằng tiền của của giá trị lao động mà
người lao động được sử dụng để bù đắp hao phí lao động của mình
trong quá trình sản xuất nhằm tái sản xuất sức lao động. Như
vậy,bản chất của tiền lương chính là giá cả lao động, được xác định
dựa trên cơ sở giá trị của sức lao động đã hao phí để sản xuất ra của
cải vật chất, được người lao động và người sử dụng lao động thỏa
thuận với nhau.
- Tiền lương còn là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử
dụng lao động. Về nguyên tắc, người bán sức lao động (người lao
động) phải đưa ra giá trước, sau đó hai bên mặc cả và đi đến sự thỏa
thuận, sự thỏa thuận đó phải được thể hiện trong hợp đồng lao động,
làm cơ sở pháp lý để trả lương cũng như giải quyết tranh chấp lao
động vốn rất dễ xảy ra do sự tách biệt giữa thỏa thuận mua bán với sử
dụng, thanh toán.
1.1.2. Chức năng của tiền lương:
a. Chức năng thước đo giá trị sức lao động:
Tiền lương là giá cả của sức lao động, là sự biểu hiện bằng tiền
của sức lao động, được hình thành trên cơ sở giá trị lao động nên phản
ánh được giá trị sức lao động có nghĩa là nó là thước đo để xác định


giá trị mức tiền công các loại lao động, là căn cứ để thuê mướn lao
động, là cơ sở để xác định đơn giá sản phẩm. Đây là chức năng quan

trọng của tiền lương. Thực hiện chức năng này đòi hỏi việc xác định
tiền lương phải dựa trên cơ sở giá trị sức lao động.
Mặt khác, phải xác định được đúng giá trị sức lao động. Khi giá trị
sức lao động thay đổi thì tiền lương cũng phải thay đổi theo thì mới
phản ánh được giá trị của nó. Do giá trị sức lao động có xu hướng tăng
nên tiền lương cũng phải có xu hướng tăng theo các thời kỳ.
b. Chức năng tái sản xuất sức lao động:
Thu nhập của NLĐ dưới hình thức tiền lương được sử dụng một
phần đáng kể vào việc tái sản xuất giản đơn sức lao động mà họ đã bỏ
ra trong quá trình lao động nhằm mục đích duy trì năng lực làm việc
lâu dài và có hiệu quả trong quá trình sau. Tiền lương của NLĐ không
chỉ là nguồn sống chủ yếu của NLĐ mà cón của các thành viên trong
gia đình họ. Tiền lương phải duy trì và phát triển được sức lao động
cho NLĐ
c. Chức năng kích thích:
Kích thích là hình thức tác động, tạo ra động lực trong lao động.
Trong hoạt động kinh tế thì lợi ích kinh tế là động cơ bản, nó biểu hiện
trên nhiều dạng, có lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, lợi ích trước
mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội.
Tiền lương là bộ phận thu nhập chính của NLĐ nhằm thỏa mãn
phần lớn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của NLĐ, nó chính là
một động lực quan trọng để NLĐ không ngừng nâng cao kiến thức và
tay nghề của mình. Trả lương một cách hợp lý và khoa học sẽ là đòn
bấy quan trọng hữu ích nhằm kích thích NLĐ làm việc một cách hiệu
quả.
d. Chức năng tích lũy:
Tiền lương trả cho NLĐ phải đảm bảo duy trì được cuộc sống
hàng ngày trong thời gian làm việc và còn dự phòng cho cuộc sống lâu
dài khi họ hết khả năng lao động hay gặp rủi ro. Nghĩa là tiền lương



không chỉ được NLĐ tiêu dùng trong quá trình làm việc mà còn tích
lũy để giành đề phòng những bất trắc có thể xảy ra khi NLĐ không thể
làm việc được nhưng vẫn tiêu dùng. Tích lũy là sự cần thiết khách
quan đối với mọi NLĐ. Trên thực tế, tiền lương của NLĐ nói chung
không đủ dùng, vì thế, không có điều kiện tích lũy. Tuy nhiên, Nhà
nước vẫn buộc NLĐ phải để giành thông qua đóng góp BHXH và
BHYT bắt buộc.
e. Chức năng xã hội:
Tiền lương là yếu tố kích thích việc hoàn thiện mối quan hệ lao
động.Việc gắn tiền lương với hiệu quả kinh doanh của NLĐ và doanh
nghiệp sẽ thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau, nâng
cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tạo tiền đề
cho sự phát triển toàn diện của con người và thúc đẩy xã hội phát triển
theo hướng dân chủ và văn minh.
Chức năng xã hội của tiền lương còn được thể hiện ở việc điều
phối thu nhập trong nền kinh tế quốc dân, tạo sự cân bằng xã hội trong
việc trả lương cho NLĐ trong cùng một ngành nghề, khu vực và giữa
các ngành nghề, khu vực khác nhau.
1.2. Yêu cầu và nguyên tắc cơ bản của tổ chức tiền lương:
1.2.1. Yêu cầu của tổ chức tiền lương :
-

Đảm bảo tái sản xuất lao động và không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho người lao động.
Đây là một yêu cầu quan trọng nhằm đảm bảo thực hiện đúng chức
năng và vai trò của tiền lương trong đời sống xã hội. Yêu cầu này
cũng đặt ra những đòi hỏi cần thiết khi xây dựng các chính sách tiền
lương.


-

Phải có tác dụng khuyến khích năng suất lao động không ngừng nâng
cao.
Tiền lương là một đòn bẩy quan trọng để nâng cao năng suất lao động
tạo cơ sở quan trọng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Do vậy tổ chức
tiền lương phải đạt yêu cầu làm tăng năng suất lao động. Mặt khác,


đây cũng là yêu cầu đặt ra đối với việc phát triển, nâng cao trình độ và
kỹ năng của người lao động.
-

Đảm bảo tính đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu.
Tiền lương luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi người lao động.
Một chế độ tiền lương đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu có tác dụng trực tiếp
tới động cơ và thái độ làm việc của họ, đồng thời làm tăng hiệu quả
của hoạt động quản lí nhất là về quản lí về tiền lương.
1.2.2. Nguyên tắc tổ chức tiền lương:
Nguyên tắc 1 : Trả lương ngang nhau cho lao động như nhau
Xuất phát từ nguyên tắc phân phối theo lao động. Nguyên tắc này
dùng thước đo lao động để đánh giá, so sánh và thực hiện trả lương.
Những người lao động khác nhau về tuổi tác, giới tính, trình độ…
nhưng có mức hao phí sức lao động như nhau thì được trả lương như
nhau.
Đây là một nguyên tắc rất quan trọng vì nó đảm bảo được sự công
bằng, bình đẳng trong trả lương. Điều này có sức khuyến khích rất lớn
đối với người lao động.
Nguyên tắc trả lương ngang nhau cho lao động như nhau nhất quán
trong từng chủ thể kinh tế, trong từng doanh nghiệp cũng như từng

khu vực hoạt động. Nguyên tắc này được thể hiện trong các thang
lương, bảng lương và các hình thức trả lương, trong cơ chế và phương
thức trả lương, trong chính sách về tiền lương.
Tuy nhiên dù là một nguyên tắc rất quan trọng thì việc áp dụng
nguyên tắc này và phạm vi mở rộng việc áp dụng trong nền kinh tế
phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển về tổ chức và quản lý kinh tế
xã hội của từng nước trong thời kì khác nhau.
Trả lương ngang nhau cho những lao động như nhau bao hàm ý
nghĩa đối với những công việc khác nhau thì cần thiết phải có sự đánh
giá đúng mức và phân biệt công bằng, chính xác trong tính toán trả
lương.


Nguyên tắc 2: Đảm bảo năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền
lương bình quân
Tiền lương là một bộ phận của thu nhập quốc dân, một phần giá
trị mới sáng tạo, tiền lương là hình thức và là công cụ cơ bản thực hiện
nguyên tắc này. Điều đó đồng thời có nghĩa rằng xét ở tầm vĩ mô, chỉ
được phép phân phối và tiêu dùng trong phạm vi thu nhập quốc dân,
tốc độ tăng tiền lương không được tăng hơn tốc độ tăng năng suất lao
động .
Tiền lương bình quân tăng lên phụ thuộc vào những nhân tố chủ
quan do nâng cao năng suất lao động ( nâng cao trình độ lành nghề,
giảm bớt tổn thất về thời gian lao động …).
Năng suất lao động tăng không phải chỉ do những nhân tố trên mà
còn trực tiếp phụ thuộc vào các nhân tố khách quan khác ( áp dụng kỹ
thuật mới, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên…). Như vậy, tốc độ
tăng năng suất lao động rõ ràng là có khả năng khách quan lớn hơn tốc
độ tăng của tiền lương bình quân.
Không những thế, khi xem xét các mối quan hệ giữa tốc độ tăng

năng suất lao động với tiền lương thực tế, giữa tích lũy và tiêu dùng.
Trong thu nhập quốc dân, ta thấy chúng có mối quan hệ liên hệ trực
tiếp với tốc độ phát triển khu vực I ( sản xuất tư liệu sản xuất) và khu
vực II (sản xuất vật phẩm tiêu dùng). Do yêu cầu của tái sản xuất mở
rộng đòi hỏi khu vực I phải tăng nhanh hơn khu vực II. Tốc độ tăng
của tổng sản phẩm XH (I + II) lớn hơn tốc độ tăng của khu vực II làm
cho sản phẩm XH tính bình quân theo đầu người lao động tăng. Vậy
trong phạm vi nền kinh tế quốc dân cũng như nội bộ các Doanh
nghiệp, muốn hạ giá thành sản phẩm và tăng tích lũy thì không còn
con đường nào khác ngoài việc tăng năng suất lao động nhanh hơn tốc
độ tăng tiền lương bình quân.
Nguyên tắc 3 : Đảm bảo mối quan hệ hợp lí về tiền lương giữa
những người lao động làm các nghề khác nhau trong nền kinh tế
quốc dân


Đảm bảo mối quan hệ hợp lí về tiền lương giữa những người lao
động làm việc trong các nghề khác nhau nhằm đảm bảo sự công bằng,
bình đẳng trong trả lương cho người lao động. Nguyên tắc này là cần
thiết dựa trên những cơ sở:
-

Trình độ lành nghề bình quân của người lao động ở mỗi ngành
Do đặc điểm và tính chất phức tạp về kỹ thuật và công nghệ ở các
ngành nghề khác nhau là khác nhau. Điều này làm cho trình độ lành
nghề bình quân của người lao động giữa các ngành khác nhau cũng
khác nhau. Sự khác nhau này cần thiết phải được phân biệt trong trả
lương. Có như vậy mức khuyến khích người lao động tích cực học tập,
lao động, rèn luyện , nâng cao trình độ lành nghề và kỹ năng làm việc,
nhất là trong các ngành nghề đòi hỏi kiến thức và tay nghề cao.


-

-

-

Điều kiện lao động
Điều kiện lao động khác nhau có ảnh hưởng đến mức hao phí sức
lao động trong quá trình làm việc. Những người làm việc trong điều
kiện nặng nhọc, độc hại, hao tốn nhiều sức lực phải được trả lương
cao hơn so với người làm việc trong điều kiện bình thường. Sự phân
biệt này làm cho tiền lương bình quân trả cho người lao động làm ở
những nơi, những ngành có điều kiện lao động khác nhau là rất khác
nhau. Để làm tăng tính linh hoạt trong trả lương phân biệt theo điều
kiện lao động, người ta thường sử dụng các loại phụ cấp về điều kiện
lao động để trả cho người lao động ở những công việc có điều kiện
làm việc rất khác nhau.
Ý nghĩa kinh tế của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân
Nền kinh tế bao gồm rất nhiều ngành khác nhau. Trong từng thời kì
từng giai đoạn của sự phát triển của mỗi nước, một số ngành được
xem là trọng điểm vì có tác dụng rất lớn đến sự phát triển chung của
toàn bộ nền kinh tế. Các ngành này cần được ưu tiên phát triển.
Trong đó dùng tiền lương để thu hút và khuyến khích người lao
động trong các ngành có ý nghĩa kinh tế quan trọng, đó là một biện
pháp đòn bẩy về kinh tế và cần được thực hiện tốt. Thực hiện sự phân
biệt này thường rất đa dạng, có thể trong tiền lương cũng có thể dùng
các loại phụ cấp khuyến khích.
Sự phân bổ theo khu vực sản xuất



Một ngành có thể được phân bổ ở những khu vực khác nhau về địa lý,
kéo theo sự khác nhau về đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa, tập
quán. Những sự khác nhau đó gây ảnh hưởng và làm cho mức sống
của người lao động hưởng lương khác nhau. Để thu hút, khuyến khích
lao động làm việc ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, vùng có điều kiện
kinh tế, xã hội khó khăn, phải có chính sách tiền lương thích hợp với
những loại phụ cấp, ưu đãi thỏa đáng.
1.3. Các hình thức tiền lương:
1.3.1 Hình thức trả lương theo thời gian:
Là hình thức trả lương cho người lao động được tính trên cơ sở
thời gian làm việc thực tế và trình độ thành thạo nghề nghiệp của họ.
Hình thức này áp dụng cho những người làm công tác quản lý, đối với
công nhân trực tiếp sản xuất chỉ áp dụng cho những bộ phận lao động
bằng máy móc là chủ yếu hoặc những công việc không thể tiến hành
định mức một cách chính xác chặt chẽ.
Để trả lương theo thời gian căn cứ vào 3 yếu tố : Ngày công
thực tế của người lao động, đơn giá tiền lương tính theo ngày công và
hệ số tiền lương ( hệ số cấp bậc công việc )
Có 2 chế độ trả lương theo thời gian :
Hình thức trả lương theo thời gian giản đơn
Tiền lương theo thời gian giản đơn là tiền lương mà mỗi người
lao động nhận được do mức lương cấp bậc cao hay thấp và thời gian
làm việc thực tế nhiều hay ít quyết định. Công thức xác định:
Ltt = Lcb x t
Trong đó :
Ltt : Tiền lương người lao động nhận được.
Lcb : Tiền lương cấp bậc tính theo thời gian.
t : Thời gian làm việc thực tế.



Tiền lương theo thời gian có thể trả theo 3 cách: Lương giờ, lương
ngày và lương tháng.
Hình thức trả lương theo thời gian có thưởng
Tiền lương theo thời gian có thưởng là tiền lương trả cho người
lao động được kết hợp giữa lương theo thời gian đơn giản và những
khoản tiền thưởng do đạt hoặc vượt các chỉ tiêu về số lượng và chất
lượng quy định.
Công thức tính:
Lt= Ltt+Tt
Trong đó:
Lt: tiền lương theo thời gian có thưởng.
Ltt: Tiền lương theo thời gian đơn giản.
Tt: Tiền thưởng.
Trả lương theo thời gian có thưởng có ưu điểm so với thời gian
giản đơn. Hình thức này sẽ khuyến khích người lao động nhiệt tình
hăng say trong công việc.
1.3.2.Hình thức trả lương theo sản phẩm:
Trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương căn cứ vào số
lượng và chất lượng sản phẩm mà người lao động tạo ra và đơn giá
tiền lương theo sản phẩm để trả lương cho người lao động. Tiền lương
theo sản phẩm được xây dựng trên cở sở định mức lao động, đó là
mức sản xuất trung bình tiên tiến mà phần đông những người lao động
có thể đạt được, đảm bảo tốc độ tăng tiền lương tương xứng với tăng
năng suất lao động.
Hiện nay, hình thức này được áp dụng phổ biến vì nó có những
ưu điểm sau:
Gắn thu nhập của nhân viên với kết quả thực hiện công việc,
đảm bảo sự công bằng, làm theo năng lực, hưởng theo lao động.



Khuyến khích người lao động luôn học hỏi, nâng cao trình độ
chuyên môn, cải tiến kỹ thuật, phát huy khả năng sáng tạo năng lực
của mỗi thành viên trong doanh nghiệp.
Nâng cao và hoàn thiện công tác quản lý, chủ động trong lao
động.
Các hình thức trả lương theo sản phẩm dưới đây thường được các
doanh nghiệp áp dụng đó là:
Trả lương theo sản phẩm trực tiếp
-

Trả lương theo sản phẩm cá nhân
Hình thức này được áp dụng đối với những công nhân trực tiếp sản
xuất, công việc của học có tính độc lập, có thể định mức, kiểm tra
nghiệm thu sản phẩm một cách cụ thể riêng biệt cho từng người.
Công thức tính:
Lt=Đg× Qt
Trong đó:
Lt: Tiền lương thực tế
Đg: Đơn giá tiền lương cho một sản phẩm
Qt: Số lượng sản phẩm thực tế hoàn thành

Đơn

giá tiền lương trả cho một sản phẩm là cố định và được xác định:
L
Q Đg=
Hoặc: Đg=L×T
Trong đó:
Đg: Đơn giá tiền lương trả cho một sản phẩm

L: Lương cấp bậc của công nhân trong kỳ
Q: Mức sản lượng của công nhân trong kỳ
T: Thời gian hoàn thành một đơn vị sản phẩm


-

Trả lương theo sản phẩm tập thể
Trả lương theo sản phẩm tập thể là hình thức trả lương căn cứ vào số
lượng sản phẩm hay công việc mà một tập thể công nhân đã hoàn
thành và đơn giá tiền lương của một đơn vị sản phẩm hay một đơn vị
công việc. Công thức:
Lt=Đg×Qt
Trong đó:
Lt: Tiền lương thực tế cả tổ ( nhóm) nhận được
Đg: Đơn giá tiền lương cho cả tổ ( nhóm)
Qt: Sản lượng thực tế mà tổ( nhóm) đã hoàn thành
Công thức xác định đơn giá tiền lương cho cả tổ ( nhóm) như sau:
Lc
bi Đg=∑
Qt
Hoặc: Đg=∑ Lcbi× To
Trong đó:
Đg: Đơn giá tiền lương cho cả tổ ( nhóm)
Lcbi: Lương cấp bậc của công nhân i trong tổ ( nhóm)
Qt: Mức sản lượng hoàn thành thực tế của cả tổ ( nhóm)
T: Mức thời gian cả tổ (nhóm)
N: Số công nhân trong tổ( nhóm)
Trả lương theo sản phẩm gián tiếp
Hình thức này thường được áp dụng để trả lương cho công nhân phụ,

làm những công việc phục vụ cho công nhân chính như sửa chữa máy
trong các phân xưởng điện, phân xưởng dệt, điều hành máy trong các


phân xưởng cơ khí... Tiền lương của công nhân phụ thuộc được tính
như sau:
Lt= Đg×Qt
Trong đó:
Lt: Tiền lương thực tế của công nhân phụ
Đg: Đơn giá tiền lương
Qt: Mức sản lượng hoàn thành thực tế của công nhân phụ
Đơn giá

tiền lương của công nhân phụ được tính như sau:
L
MĐg=
×
Q
o Trong đó:
L: Mức lương cấp bậc của công nhân phụ

M: Mức lương phục vụ của công nhân phụ
Qo: Mức sản lượng của công nhân chính
Hình thức trả lương theo sản phẩm có thưởng
Hình thức trả lương theo sản phẩm có thưởng là sự kết hợp giữa trả
lương theo sản phẩm và chế độ thưởng hoàn thành mức công việc.
Tiền lương được trả theo chế độ này gồm 2 phần: Phần trả lương theo
đơn giá cố định cho sản phẩm thực tế đã hoàn thành và phần tiền
thưởng dựa và mức độ sản lượng đã hoàn thành vượt mức trong thực
tế và tỉ lệ % tiền thưởng quy định cho sự hoàn thành mức chỉ tiêu.

Công thức tính
như sau:

Trong
Lth: Tiền

lương theo sản phẩm có thưởng được xác định
L
×
m Lth=L+
×
h
1 đó:
0
0 lương theo sản phẩm có thưởng


L: Tiền lương sản phẩm với đơn giá cố định
h: Tỷ lệ % hoàn thành vượt mức sản phẩm được tính thưởng
m: tỷ lệ % tiền thưởng
Hình thức trả lương khoán
Trả lương khoán thưởng áp dụng đối với những công việc mang
tính chất tổng hợp. Toàn bộ khối lượng công việc sẽ được giao cho
công nhân hoàn thành trong một khoảng thời gian quy định. Tiền
lương sẽ được trả theo nhóm dựa vào kết quả của cả nhóm.
Đặc điểm của lương khoán là ngoài quy định về số lượng, chất
lượng công việc còn có quy định về thời gian bắt đầu và thời gian kết
thúc công việc đó. Hình thức này kích thích tất cả nhân viên quan tâm
đến kết quả cuối cùng của nhóm. Trong thực tế, hình thức này thường
được áp dụng trong các dây chuyền lắp ráp, trong ngành xây dựng.

Đối tượng áp dụng hình thức khoán có thể là cá nhân, tập thể, có
thể khoán theo từng công việc hoặc một số khối lượng công việc lớn.
Tiền lương sẽ được trả theo số lượng công việc mà công nhân hoàn
thành ghi trong phiếu giao khoán.
Việc xác định đơn giá tùy theo từng đối tượng của lương khoán,
cụ thể:
Nếu đối tượng nhận khoán là cá nhân thì xác định đơn giá như hình
thức trả lương sản phẩm cá nhân, tiền lương được trả bằng đơn giá
nhân khối lượng công việc.
Nếu đối tượng nhận khoán là tập thể thì việc xác định đơn giá như
hình thức trả lương sản phẩm tập thể và sau đó tiền lương sẽ phân
phối cho người lao động phụ thuộc vào khối lượng và chất lượng công
việc của họ.
Chế độ trả lương theo sản phẩm lũy triển
Chế độ trả lương này thường áp dụng ở những khâu yếu trong sản
xuất. Đó là khâu có ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ quá trình sản
xuất.


Trong chế độ trả lương này dùng hai loại đơn giá đó là:
Đơn giá cố định: dùng để trả cho những sản phẩm thực tế đã hoàn
thành
Đơn giá lũy tiến: dùng để tính lương cho những sản phẩm vượt mức
khởi điểm. Đơn giá lũy tiến là đơn giá cố định nhân với tỷ lệ tăng đơn
giá
1.3.3.Hình thức trả lương hỗn hợp:
Hình thức trả lương theo sản phẩm hỗn hợp là sự kết hợp
giữa hình thức trả lương theo thơi gian và hình thức trả lương theo sản
phẩm, áp dụng hình thức trả lương này tiền lương của người lao động
được chia làm hai bộ phận:

Phần lương cứng: Phần này tương đối ổn định nhằm đảm bảo mức thu
nhập tối thiểu cho người lao động, ổn định đời sống người lao động và
gia đình họ. Bộ phận này sẽ được quy định theo bậc lương cơ bản và
số ngày công làm việc mỗi tháng.
Phần biến động: Tùy theo năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động
của từng cá nhân người lao động và kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
II, Nghiên cứu và vận dụng phương pháp trả lương tại công ty
May 10:
2.1.Giới thiệu chung về doanh nghiệp:
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển:
Công ty cổ phần May 10 là một doanh nghiệp sản xuất hàng
may mặc thuộc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex). Là một doanh
nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực may mặc, công ty cổ phần May 10 đã
trải qua một quá trình hình thành lâu dài để có thể phát triển bền vững
như ngày hôm nay, để những sản phẩm của công ty không chỉ được
tiêu thụ rộng rãi trong nước mà còn hướng ra thị trường nước ngoài
đem lại nhiều lợi nhuận cho công ty. Kể từ ngày thành lập cho đến nay


Công ty cổ phần May 10 đã tròn 62 năm.Thời kì cả nước kháng chiến
chống Pháp, các lực lượng phải tăng gia sản xuất để hỗ trợ cho tiền
tuyến. Các xưởng may lúc bấy giờ có nhiệm vụ là sản xuất quân trang
cho quân đội. Chính các xưởng may đó là tiền thân của công ty May
10 bây giờ.
Năm 1946, Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, một
số xưởng, nhà máy ở Hà Nội đã dời lên núi rừng Việt Bắc, trong đó có
cả các xưởng may quân trang. Các xưởng may quân trang này được
lấy tên là xưởng may X1.
Năm 1952, xưởng may X1 ở Việt Bắc đổi tên thành xưởng may X10

mang bí số X10. Có thể thấy cái tên may 10 đã trở thành tên chính
thức của công ty cho đến tận bây giờ.
Năm 1956, cuộc kháng chiến chống Pháp của ta giành thắng
lợi vẻ vang, xưởng may X10 đã rời mảnh đất Việt Bắc chuyển về Hà
Nội, sát nhập với xưởng may X40 lấy tên chung là xưởng may X10.
Công xưởng sản xuất chính được xây dựng ở Gia Lâm, Hà Nội. Đây
cũng là nơi tiến hành sản xuất của công ty May 10 bây giờ.
Tháng 12/1961, miền Bắc tiến hành xây dựng xã hội theo con
đường xã hội chủ nghĩa và là hậu phương vững chắc của miền Nam.
Trước tình hình đó, xưởng may X10 nhanh chóng được chuyển sang
Bộ công nghiệp nhẹ tiếp quản và đổi tên là Xí nghiệp May 10.
Năm 1971, xí nghiệp May 10 chính thức chuyển sang Bộ
Nội thương quản lý,vẫn làm nhiệm vụ chính là may quân trang, quân
phục cho bộ đội và sản xuất thêm một số mặt hàng phục vụ xuất khẩu
và dân dụng.
Năm 1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước hoàn toàn thống
nhất. Cả nước cùng chung tay xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Xí
nghiệp may 10 cũng chuyển sang một bước ngoặt mới, làm nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh, chuyên sản xuất, gia công hàng xuất khẩu. Thị
trường chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và Đông
Âu. Như vậy May 10 đã có sự phát triển vượt bậc về thị trường hàng
hoá, không chỉ giới hạn trong nước mà đã mở rộng ra thị trường nước
ngoài. Có thể nói may 10 là một trong những doanh nghiệp xuất khẩu
sớm nhất ở nước ta.


Năm 1990, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
tan rã, xí nghiệp May 10 đứng trước nguy cơ bị tan rã do mất thị
trường. Đây là một thách thức lớn đối với doanh nghiệp. Nhưng chính
lúc đó Đảng và Nhà nước ta đã có đường lối đổi mới, mở ra một con

đường mới cho doanh nghiệp là sản xuất và xuất khẩu sang những
nước khác như Hàn Quốc, Đức, Pháp,….Xí nghiệp thực hiện giảm
biên chế,đầu tư máy móc thiết bị mới hiện đại hơn. Như vậy May 10
đã có đầu ra và tránh khỏi nguy cơ phá sản.
Ngày 14/12/1992 May 10 đã được đánh dấu bằng quyết định của Bộ
công nghiệp nhẹ là chuyển đổi May 10 thành công ty May 10. Từ đây
công ty May 10 hoàn toàn có quyền tự chủ trong kinh doanh, có quyền
kinh doanh các mặt hàng xuất khẩu nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất
cho công ty. Điều đặc biệt là May 10 đã trở thành thương hiệu nổi
tiếng, các sản phẩm của công ty được biết đến là những mặt hàng có
chất lượng cao, đem lại sự tin tưởng cho người tiêu dùng. Đánh dấu sự
đổi mới và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, thực hiện theo chủ
trương của Nhà nước, công ty May 10 đã chuyển đổi thành công ty cổ
phần May 10 theo Quyết định số 105 (QĐ – BCN kí ngày 5 tháng 10
năm 2004).
Công ty cổ phần May 10 trực thuộc Tổng công ty dệt may Việt
Nam với số vốn điều lệ 54 tỷ đồng .
Năm 2010 doang nghiệp đã chuyển mô hình thành Tổng công ty May
10-CTCP.
Thông tin hiện nay của doanh nghiệp:
Tên giao dịch quốc tế là: Garment 10 Joint Stock Company
Tên viết tắt là: Garco 10 JSC
Trụ sở chính: Sài Đồng – Long Biên – Hà Nội
Điện thoại: 84.4827.6923. Fax: 84.4827.6925
Email:
Website:
2.1.2.Lĩnh vực sản xuất kinh doanh của công ty
Công ty cổ phần May 10 hoạt động trong những lĩnh vực sau:
-Sản xuất và kinh doanh các loại quần áo thời trang và nguyên phụ
liệu ngành may mặc.



-Kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, công nghiệp thực phẩm
và công nghiệp tiêu dùng khác.
-Kinh doanh văn phòng bất động sản và nhà ở cho công nhân.
-Đào tạo nghề.
-Xuất nhập khẩu trực tiếp.
Trong đó lĩnh vực hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp
May10 là sản xuất các sản phẩm may mặc tiêu thụ trên thị trường nội
địa và thị trường quốc tế. Hàng hoá đưa ra thị trường nước ngoài chủ
yếu theo con đường gia công toàn bộ sản phẩm hoặc bán thành phẩm
hoặc xuất khẩu trực tiếp. Cơ cấu mặt hàng khá đa dạng và phong phú.
Danh mục sản phẩm của công ty bao gồm hơn 100 chủng loại sản
phẩm may mặc các loại. Sản phẩm của công ty mang một số nhãn mác
như: Gate, Bigman, Jackhot, Freland, Pharaon, Chambray, Pretty
women,… Các mặt hàng chủ yếu của công ty bao gồm: sơ mi nam, nữ
các loại; veston các loại; Jacket các loại; váy; quần âu dành cho nam
nữ các loại; quần áo trẻ em; quần áo thể thao,… Trong đó, sơ mi nam
là sản phẩm mũi nhọn của công ty, đem lại nguồn thu chủ yếu cho
công ty. Bên cạnh đó thông qua gia công, xuất khẩu các sản phẩm do
May 10 sản xuất cũng rất được ưa chuộng trên thị trường quốc tế.
2.1.3.Đặc điểm lao động và cơ cấu bộ máy quản lý của doanh
nghiêp
*Đặc điểm lao động

Tổng số lao động
Phân theo trình độ
Trên đại học
Đại học và cao
đẳng

Trung cấp
CN bậc cao
CN bậc thấp

Năm
2004
Số
lượng
5775

Năm 2005
Tỉ lệ% Số lượng
100
6900

Năm
2006
Số
Tỉ lệ % lượng
100
7480

Tỉ lệ
%
100

2

0,03


3

0,04

4

0,05

350
315

6,06
5,46

371
333

5.38
4,83

379
346

1270
3838

21,99
66,46

1544

4649

22,37
67,38

1675
5076

5,07
4,63
22,3
9
67,8


6
Phân theo đối
tượng
Lao động trực tiếp
Lao động gián
tiếp
Phân theo giới
tính

5122

88,69

6205


89,93

6769

90,4
9

653

11,31

695

10,07

711

9,51

Lao động nam

1415

24,5

1659

24,04

1773


Lao động nữ

4360

75,5

5241

7596

5707

23,7
1
76,2
9

Bảng trên cho ta thấy sự thay đổi mạnh mẽ cả về số lượng lẫn
chất lượng. Trong những năm qua Công ty cổ phần May 10 đã đạt
được những tiến bộ vượt bậc cả về kinh tế,xã hội.
- Về mặt chất lượng: công ty rất chú trọng tới việc đào tạo đội ngũ lao
động lành nghề và đội ngũ cán bộ có chuyên môn cao. Chính vì vậy,
công ty đã thành lập một trường học riêng để đào tạo nhân viên cho
chính công ty. Do đó các lao động trong công ty đều là những người
có tay nghề cao, đã được đào tạo bài bản, đảm bảo chất lượng. Công
ty còn thường xuyên mở các lớp đào tạo tại doanh nghiệp và gửi đi
học ở nước ngoài về quản lý kinh tế, an toàn lao động và vệ sinh công
nghiệp, ngoại ngữ. Số lượng cán bộ quản lý có xu hướng tăng lên từng
năm,số cán bộ có trình độ đai học cao đẳng tăng,đặc biệt là lớp công

nhân bậc cao.
- Về số lượng: Ban đầu khi mới thành lập số lượng lao động gần 1000
người nay lên khoảng gần 8000 người. Do đặc thù của công ty là sản
xuất hàng dệt may nên lượng lao động trực tiếp chiếm tỷ trọng
cao(khoảng 90%), ặc biệt số lượng lao động nữ chiếm hơn 75% trên
tổng số lao động vì đặc thù của công ty là may mặc đòi hỏi sự khéo
léo.
*Cơ cấu bộ máy quản lý
Bộ máy quản lý của công ty có sự phân chia thành các phòng
ban và có sự chuyên môn hóa. Bộ máy quản lý khá tinh giản và gọn


nhẹ, đáp ứng yêu cầu của hoạt động kinh doanh nhằm đạt hiệu quả
cao.

Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban
- Tổng giám đốc: là người lãnh đạo cao nhất của công ty, là người đại
diện hợp pháp trong các giao dịch kinh doanh, thực hiện các chế độ
chính sách của nhà nước. Tổng giám đốc có nhiệm vụ là nhận vốn, đất
đai, tài nguyên và các nguồn lực khác do Tổng công ty dệt may Việt
Nam giao để quản lý và sử dụng theo nhiệm vụ được giao.
- Phó tổng giám đốc: là người giúp đỡ điều hành công việc ở các xí
nghiệp thành các phòng kinh doanh, phòng quản lý chất lượng và thay
quyền giám đốc điều hành công ty khi giám đốc vắng mặt ở công ty.
Phó tổng giám đốc cũng được Tổng giám đốc uỷ quyền đàm phán và
ký kết một số hợp đồng với khách hàng trong nước và khách hàng
nước ngoài.


Ngoài ra, công ty còn có ba giám đốc điều hành hỗ trợ cho tổng giám

đốc các công việc ở các xí nghiệp địa phương hay xí nghiệp liên
doanh.
-Văn phòng công ty: đây là đơn vị tổng hợp vừa có chức năng giải
quyết về nghiệp vụ quản lý sản xuất, vừa làm nhiệm vụ phục vụ hành
chính xã hội.
-Phòng kinh doanh: có nhiệm vụ tham mưu cho ban giám đốc và điều
hành việc tổ chức kinh doanh tại công ty.
- Phòng kĩ thuật: quản lý công tác kỹ thuật công nghệ và cơ điện
nghiên cứu ứng dụng phục vụ cho sản xuất các thiết bị hiện đại tiên
tiến nhằm đáp ứng sự phát triển sản xuất kinh doanh của công ty.
- Phòng tài chính kế toán: có chức năng điều hành tổ chức toàn bộ
hoạt động tài chính kế toán của công ty, nhằm sử dụng vốn hợp lý, tiết
kiệm, đạt được mục tiêu về lơị ích kinh tế cũng như lợi ích về xã hội
của công ty.
- Phòng chất lượng (QA): có nhiệm vụ kiểm tra toàn bộ việc thực hiện
quy trình công nghệ, ký công nhận sản phẩm đạt chất lượng trước khi
đưa ra thị trường.
- Phòng kế hoạch: quản lý công tác kế hoạch sản xuất, kí kết các hợp
đồng kinh doanh.
- Phòng kho vận: kiểm tra, tiếp nhận và viết phiếu xuất kho cho các
sản phẩm được bán ra ngoài thị trường.
- Ban đầu tư và phát triển: chức năng của ban là nghiên cứu và phát
triển thị trường, đưa ra các chiến lược kinh doanh cũng như chiến lược
quảng cáo nhằm đem lại hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh.
- Trường công nhân kỹ thuật may - thời trang: là nơi đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ, cán bộ điều hành và công
nhân kỹ thuật có tay nghề cao, phát hiện và bồi dưỡng những cán bộ
có năng lực và đưa họ đi tu nghiệp ở nước ngoài.
- Các xưởng may thành viên: đây là nơi diễn ra các hoạt động sản xuất
tạo ra sản phẩm của công ty. Các xưởng may này thực hiện các nghiệp

vụ như nhập nguyên phụ liệu, tổ chức cắt may, là, gấp, đóng gói, nhận
thành phẩm vào kho. Công ty cổ phần may 10 hiện nay có tất cả 11 xí
nghiệp thành viên ( 5xí nghiệp Hà Nội và 6 xí nghiệp địa phương), 2


công ty con và 3 phân xưởng phụ trợ. Nhiệm vụ của các xí nghiệp này
là:
+ Xí nghiệp 1, 2, 5 chuyên sản xuất áo sơ mi.
+ Xí nghiệp veston 1, veston 2 chuyên sản xuất complê.
+ Các xí nghiệp địa phương khác chủ yếu sản xuất áo sơ mi và quần
âu Hai công ty con của May 10 đặt tại Thanh Hoá và Quảng Bình.
Việc hạch toán kinh doanh của hai công ty này được tiến hành một
cách độc lập với công ty mẹ. Công ty có ba phân xưởng phụ trợ là:
phân xưởng thêu, in, giặt; phân xưởng cơ điện và phân xưởng bao bì.
2.2. Phân tích việc áp dụng các phương pháp trả lương tại công ty
May 10:
2.2.1.Trả lương theo thời gian:
Tại công ty May 10 hiện nay đang thực hiện hai hình thức trả
lương là trả lương theo thời gian và trả lương theo sản phẩm. Cụ thể là
khối phòng ban và nhân viên kinh tế kỹ thuật của công ty thì hưởng
lương thời gian, còn lao động quản lý phục vụ và lao động trực tiếp
sản xuất ở các xí nghiệp thì hưởng lương theo sản phầm.
Đối với khối phòng ban và nhân viên kinh tế kỹ thuật hưởng
lương thời gian, tiền lương bao gồm 2 phần:
+ Lương theo cấp bậc bản thân (lương chế độ) được tính cho những
ngày nghỉ phép, lễ, học họp, thêm giờ, ca ba, chờ việc và nghỉ việc
riêng khác có lương,
+ Lương theo hệ số cấp bậc công việc và phụ cấp theo lương (nếu có).
Tiền lương của người lao động quản lý và nhân viên kinh tế ky thuật
được tính như sau:

VTL = LCBCV + VCĐ + PC
- VTL: Tiền lương cá nhân người lao động
- Lương cấp bậc LCBCV : Là mức lương mà người lao động quản lý
được hưởng dựa trên cấp bậc bản thân của mình với số ngày công
đi làm thực tế với tiền cho mét hệ số đã được tính toán dựa trên
quỹ lương của Cty.
- VCĐ; là lương của những ngày nghỉ lễ, phép, BHXH…
- PC: các khoản phụ cấp (nếu có).


LCBCV = Hệ số CBCV × Tiền lương cho mức Hệ số × Công chế
độ thực hiện
+ Hệ số CBCV, đối với cán bộ giữ chức vụ trong Cty thì dựa
trên tiêu chuẩn xếp hạng tương ứng với ngạch theo tiêu chuẩn nghiệp
vụ chuyên môn.
+ Tiền lương cho mức hệ số: tương ứng với mỗi mức hệ số
CBCV sẽ cớ mức tiền lương khác nhau.
+ Công chế độ thực hiện: Ngày công lao động thực tế của người
lao động.
Tiền lương cấp bậc công việc được tính căn cứ vào mức độ hoàn
thành kế hoạch trong tháng, đối với các xí nghiệp thành viên thì
hưởng theo tỷ lệ % hoàn thành kế hoạch của công ty.
Dưới đây là hệ thông thang bảng lương của công ty May 10:
HỆ THỐNG THANG LƯƠNG, BẢNG LƯƠNG
----------------------------------------------------------------------------------I/- MỨC LƯƠNG TỐI THIỂU :
Mức lương tối thiểu doanh nghiệp áp dụng: 3.500.000 đồng/tháng
II/- HỆ THỐNG THANG LƯƠNG, BẢNG LƯƠNG :
1/- BẢNG LƯƠNG CHỨC VỤ QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP:
Đơn vị tính : VNĐ.
CHỨC DANH




CÔNG VIỆC

SỐ

1. Giám đốc
2. Phó giám
đốc

C.01
C.02

BẬC
I

II

III

IV

V

12.000.00

13.000.00

13.800.00


14.500.00

15.200.00

0

0

0

0

0

9,000,000

9,500,000

10,200,00

10,800,00

11,500,00

0

0

0



2/- BẢNG LƯƠNG VIÊN CHỨC CHUYÊN MÔN, NGHIỆP VỤ, THỪA
HÀNH KHỐI VĂN PHÒNG
Đơn vị tính :VNĐ.
CHỨC DANH



CÔNG VIỆC

SỐ

1. Ngạch lương
01
2. Ngạch lương
02
3. Ngạch lương
03

BẬC
I

II

III

IV

V


D.03

6.000.000 6.300.000 6.700.000 7.000.000 7.300.000

D.04

4,200,000 4,800,000 5,300,000 5,500,000 5,700,000

D.05

3.000.000 3,200.000 3,700.000 4,000.000 4.200.000

1 : Ngạch lương 01 : D.03 – Chuyên viên chính, kinh tế viên chính
Chức danh: Trưởng, phó các phòng kế toán, kế hoạch, kỹ thuật, Thiết
kế, Hạ tầng, hành chính nhân sự, quản lý dự án.
2. Ngạch lương 02: D.04 – Chuyên viên, kinh tế viên
Chức danh: chuyên viên các phòng kế toán, kế hoạch, kỹ thuật, Thiết
kế, Hạ tầng, hành chính nhân sự, quản lý dự án
3. Ngạch lương 03: D05 – nhân viên văn phòng
Chức danh: nhân viên các phòng kế toán, kế hoạch, kỹ thuật, Thiết kế,
Hạ tầng, hành chính nhân sự, quản lý dự án
Cụ thể như sau:
- Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty May 10- Bí thư Đảng kiêm Tổng
Giám đốc, hệ số 6,03


- Bí thư Đảng ủy hoạt động chuyên trách, Phó Tổng Giám đốc, hệ
số 5,26
- Chủ tịch Công đoàn hoạt động chuyên trách, Giám đốc điều

hành, Kế toán Trưởng, hệ 4,6.
- Trưởng các phòng kinh doanh, chuẩn bị sản xuất, Quản lý liên
doanh, Chánh văn phòng, Giám đốc các xí nghiệp thành viên, Phó
Chủ tịch công đoàn hoạt động chuyên trách, hệ số 3,82.
- Bí thư đoàn thành niên công tu hoạt động chuyên trách, trợ lý
Tổng Giám đốc, Trợ lý Giám đốc, hệ số 3,54.
- Phó phòng kinh doanh, phó văn phòng, trưởng ca các xí
nghiệp thành viên, quản đốc phân xưởng cơ điện, Bao bì xuất khẩu,
Thêu in, Trưởng ban kỹ thuật cơ điện, Hiệu phó thường trực trưởng
đào tạo, hệ số 3,48.
- Trưởng ban Y tế- Nhà trẻ, Trưởng ban Bảo vệ- Quân sự,
Quản trị đời sống, Hiệu phó Trường đào tạo, Phó giám đốc phân
xưởng cơ điện, Thêu in, Bao bì xuất khẩu, Trưởng phó chi nhánh xuất
nhập khẩu, hệ số 2,98.
- Phó ban Bảo vệ- Quân sự, quan trị đời sống, Chủ nhiệm nhà
trẻ, Phó bí thư Đoàn thanh niên hoạt động chuyên trách, hệ số 2,74.
- Nhân viên phòng tổ chức- kỹ thuật, nhân viên thống kê lao
động của văn phòng công ty, Thủ kho nguyên liệu, cơ khí, phụ liệu,
thành phẩm... hệ số 2,78.
- Công nhân mở kiện, đo đếm, chế biến phụ liệu, hệ số 1,78.
- Nhân viên Văn thư, nhân viên Y tế, nhân viên phục vụ đời
sống, hệ số 1,7.
2.2.2Hình thức trả lương theo sản phẩm:
Hình thức trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương căn cứ vào
số lượng và chất lượng của sản phẩm mà người lao động tạo ra và đơn
giá tiền lương theo sản phẩm để trả cho người lao động. Tiền lương
theo sản phẩm được xây dựng trên cơ sở định mức lao động, đó là
mức sản xuất trung bình tiên tiến mà phần đông người lao động có thể
đạt được, đảm bảo tốc độ tăng tiền lương tương xứng với tốc độ tăng
năng suất lao động.



Hiện nay hình thức này được áp dụng khá phổ biến. Với ưu điểm vượt
trội:
-

-

-

Gắn thu nhập của nhân viên với kết quả thực hiên công việc. Lương của
NLĐ nhiều hay ít tùy thuộc vào lượng sản phẩm họ làm ra là nhiều hay
ít, tốt hay xấu. Tạo ra được sự công bằng, hợp lý, tạo tâm lý làm việc
thoải mái giữa các nhân viên khi họ được đối xử công bằng.
Khuyến khích người lao động luôn học hỏi và nâng cao trình độ chuyên
môn, cải tiến kỹ thuật, phát huy khả năng năng lực của mình để đóng
góp cho doanh nghiệp.
Nâng cao và hoàn thiện công tác quản lý, chủ động trong lao động.
Với ưu điểm vượt trội đó, hình thức trả lương theo sản phẩm được áp
dụng chủ yếu trong doanh nghiệp May 10. Bao gồm các hình thức: trả
lương theo sản phẩm trực tiếp, trả lương theo sản phẩm gián tiếp, trả
lương theo sản phẩm có thưởng, trả lương khoán.
A: Hình thức trả lương theo sản phẩm trực tiếp theo cá nhân
Hình thức này được công ty áp dụng đối với những công nhân
trực tiếp sản xuất, công việc có tính độc lâp, có thể định mức, kiểm tra
nghiệm thu sản phẩm 1 cách cụ thể, riêng biệt cho từng người. Tiền
lương thanh toán cho công nhân sản xuất căn cứ vào số lượng và chất
lượng sản phẩm họ làm ra. Được áp dụng đối với các bộ phận: công
nhân may, công nhân bao bì xuất khẩu, công nhân thêu, in, giặt.
Đơn giá tiền lương trên 1 đơn vị sản phẩm được tính theo công

thức:
Lt = + Vtg+ Vcđ + Pc
Trong đó:
Lt: tiền lương thực tế cá nhân nhận được
Zi: đơn giá tiền lương của sản phẩm
Qi: số lượng sản phẩm công nhân làm ra
Vtg: tiền lương cho những ngày làm công việc ngoài công việc có
định mức trong tháng
Vcđ: tiền lương cho những ngày công nhân nghỉ lễ, tết, họp,…
Pc: tiền phụ cấp khác theo lương bao gồm phụ cấp ca 3, thêm giờ,
nóng độc hại, thợ giỏi, trách nhiệm….


×