Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

THÔNG điệp về BIẾN đổi KHÍ hậu TRÊN BÁO IN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.83 KB, 25 trang )

THÔNG ĐIỆP VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO IN HIỆN NAY
(qua khảo sát 3 báo:Tuổi trẻ TPHCM, Thanh niên, Tiền phong năm 2011)

Báo cáo về thực trạng biến đổi khí hậu được đề cập đến trên báo in
* Giải thích thuật ngữ :
- Biến đổi khí hậu ( BĐKH) : là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm
khí quyển, thủy quyển, sinh quyển, sinh quyển, thạch quyển bởi các nguyên
nhân tự nhiên và nhân tạo. Sự biến đổi khí hậu có thể là sự biến đổi bình
quân hay sự thay đổi phân bố các sự kiện thời tiết quanh 1 mức trung bình.
Nó có thể giới hạn trong 1 vùng nhất định hay trên toàn địa cầu. Hiện nay,
biến đổi khí hậu được gọi chung là biến đổi toàn cầu.
- Thông điệp truyền thông : là nội dung thông tin mà ta muốn chuyển
tải đến đối tượng nhằm một mục đích nhất định. Các dạng thông điệp thường
sử dụng là: Tình cảm - Lý trí; Lạc quan - Bi quan; Đám đông - Cá nhân; Hài
hước - Nghiêm trang; Một chiều - Hai chiều; Chắc chắn - Mở ngõ.
I/ Lý do chọn đề tài
- Biến đổi khí hậu (viết tắt là BĐKH), mà trước hết là sự nóng lên toàn
cầu và mực nước biển dâng, là một trong những thách thức lớn nhất đối với
nhân loại trong thế kỷ 21. Thiên tai và các hiện tượng khí hậu cực đoan khác
đang gia tăng ở hầu hết các nơi trên thế giới, nhiệt độ và mực nước biển
trung bình toàn cầu tiếp tục tăng nhanh chưa từng có và đang là mối lo ngại
của các quốc gia trên thế giới.
- Thực trạng :Những số liệu về hàm lượng khí C02 trong khí quyển
được xác định từ các lõi băng được khoan ở Greeland và Nam cực cho thấy,
trong suốt chu kỳ băng hà và gian băng ( khoảng 18 nghìn năm trước), hàm
lượng khí CO2 trong khí quyển c hỉ khoảng 180 – 200ppm ( phần triệu), nghĩa
là chỉ khoảng 70% so với thời kỳ tiền công nghiệp ( 280ppm). Từ khoảng
năm 1800, hàm lượng khí CO2 bắt đầu tăng lên vượt con số 300ppm và đạt
1



379ppm và năm 2005, nghĩa là tăng khoảng 31% so với tiền kỳ tiền công
nghiệp, vượt xa mức khí CO2 tự nhiên trong khoảng 650 nghìn năm qua. Hàm
lượng các khí nhà kính khác mê tan ( CH 4) , ô xít ni tơ ( N 2O ) cũng tăng lần
lượt từ 715ppb ( phần tỷ) và 270ppb trong thời kỳ tiền công nghiệp lên
1774ppb ( 515%) và 319ppb( 17%) vào năm 2005. Riêng các khí chlorofluoro
carbon ( CFCs) vừa là khí nhà kính với tiềm năng làm nóng lên toàn cầu lớn
gấp nhiều lần khí CO2 , vừa là chất phá hủy tầng ozon bình lưu. Từ năm 1840
đến 2004, tổng sản lượng khí thải CO2 của các nước giầu chiếm tới 70% tổng
lượng phát thải khí CO2 toaanf cầu, trong đó ở Hoa Kỳ và Anh trung bình
mỗi người dân phát thải 1100 tấn, gấp khoảng 17 lần Trung Quốc và 48 lần
ẤN Độ. Riêng năm 2004, lượng khí thải CO2 của Hoa Kỳ là 6 tỷ tấn, bằng
khoảng 20% toàn cầu. Trung Quốc thải 5 tỷ tấn CO2, tiếp theo là Liên Bang
Nga, Đức và Nhật Bản...năm 1990, Việt Nam phát thải 21,4 triệu tấn CO2.
Năm 2004 phát thải khoảng 98,6 triệu tấn CO2, tăng gấp 5 lần, bình quân đầu
người 1,2 tấn 1 năm ( trung bình của thế giới là 4,5 tấn/năm, singapo 12,4 tấn.
Malaixia 7,5 tấn, Thái Lan 4,2 tấn, Trung Quốc 3,8 tấn. In đô nê xi a 1,7 tấn,
phi lip pn 1 tấn....) như vậy phái thải của Việt Nam tăng khá nhanh trong 15
năm qua, song vẫn ở mức thấp so với trung bình toàn cầu và nhiều nước trong
khu vực. Dự tính lượng phát thải các khí nhà kính của VN sẽ đạt 233,3 triệu
tấn C02 tương đương vào năm 2020, tăng 93% so với năm 1998. ( số liệu của
bộ TN&MT, tổng cục MT)
- Trong 1 cuộc khảo sát gần đây, người ta thấy số lượng các bài báo vầ
BĐKH do con người tạo ra tại các nước đang phát triển ít hơn nhiều sơ với
nước phát triển. Tại Mỹ hơn 1/3 số bài viết vế vấn đề liên quan được xuất bản
trong thời gian nghiên cứu, trong khi đó tại Ấn Độ, Brazil và TQ con số
không đến 8%. Các tờ báo của Brazil và Ấn Độ và TQ chỉ đưa r a3 bài xã
luận trong khi chỉ riêng tờ báo tạo tại Mỹ lại đưa tới 13 bài xã luận.
- Là một bán đảo thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á, Việt
Nam
2



được xác định là một trong những quốc gia có nhiều khả năng chịu các
tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu (bđkh). Trên thực tế Việt Nam
đã có những biểu hiện của bđkh về các yếu tố khí hậu cơ bản (nhiệt độ,
lượng mưa...) cũng như các yếu tố thời tiết cực đoan (bão, mưa lớn,
hạn hán...). Theo kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt
Nam do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố năm 2009, nhiệt độ trên
tăng ít nhất 1,1 – 1,90C, nhiều nhất 2,1 – 3,60C, lượng mưa tăng ít
nhất 1,0 – 5,2% và nhiều nhất từ 1,8 – 10,1%, mực nước biển dâng ít
nhất 65 cm, nhiều nhất 100 cm so với trung bình thời kỳ 1980 - 1999.
Tác động tiềm tàng bđkh ở Việt Nam thể hiện trong tất cả các lĩnh vực
chủ yếu: tài nguyên nước, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, năng
lượng, giao thông vận tải, sức khỏe.
Nhìn chung, tác động của biến đổi khí hậu là nghiêm trọng nhất đối với
nông nghiệp và tài nguyên nước.
Báo chí có tác động mạnh đến việc nhận thức của cộng đồng về mọi
vấn đề của xã hội và biến đổi khí hậu cũng không phải ngoại lệ. Báo chí đã
đăng tải các vấn đề về biến đổi khí hậu trong đó nguyên nhân chính là
tàn phá môi trường tự nhiên của con người. Nhắc lại vụ vi phạm nổi cộm
gây bức xúc trong dư luận được báo chí đề cập quyết liệt đó là vấn nạn
ô nhiễm môi trường từ Công ty Vedan. Nhiều nhà báo đã lên tiếng, hối
thúc vì môi trường quá ô nhiễm. Không chỉ một mà hiện nay, nhiều khu
công nghiệp, doanh nghiệp cứ hoạt động không theo quy luật và gây ô
nhiễm môi trường với tính chất, mức độ ngày càng tinh vi, nguy hiểm
hơn. Trao đổi vấn đề này, một nhà báo cho rằng, trong quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa, ô nhiễm về môi trường là khó tránh khỏi.
Để báo chí thực sự là kênh thông tin quan trọng trong công tác BVMT,
thời gian qua, báo chí đã phối hợp với ngành tài nguyên và môi trường
(TN-MT) tăng cường, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến, nhận

thức cộng đồng về quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài
3


nguyên thiên nhiên gắn với BVMT, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
công tác quản lý Nhà nước về TN-MT, bảo đảm mục tiêu phát triển bền
vững và nâng cao chất lượng cuộc sống.
 BĐKH có thể nói BĐKH đang là vấn đề đang được toàn thế giới
quan tâm.Tuy nhiên,đó mới chỉ dừng lại ở những hội thảo,hội nghị nhằm đề
phòng,ứng phó .
Ở VN hiện nay cũng vậy, báo chí mới chỉ dừng lại ở mức độ nhìn nhận
những vấn đề đang xảy ra trước mắt, những biểu hiện nhãn tiền mà không
thấy hiểm họa tương lai.
Vấn đề cốt lõi là cần nâng cao nhận thức cho người dân về BĐKH còn
chưa được quan tâm tuyên truyền nhất là trên những phương tiện thông tin đại
chúng đặc biệt là báo chí .
Người dân chưa hiểu rõ được tác hại của BĐKH hay có hiểu cũng chỉ
dừng lại ở mức độ nhất định nào đó. Chỉ khi người dân hiểu rõ vấn đề này ho
mới bắt đầu thay đổi lối sống, chuẩn bị tư thế để đối phó giảm thiểu tác hại
của nó trong tương lai.
Chính vì thế “ thông điệp về BĐKH” của báo chí hiện nay là vô cùng
quan trọng. Tìm hiểu được mức độ xuất bản của các thông cáo báo chí có ảnh
hưởng thế nào đến nhận thức thay đổi hành vi người dân là vấn đề hàng đầu.
Từ nội dung chung của nhóm, tôi triển khai thành Báo cáo về “Thực
trạng biến đổi khí hậu được đề cập đến trong Báo in” để đưa ra nhận xét về
phần Thực trạng được đề cập đến như thế nào và ở mức độ nào. Từ đó thấy
một phần hiện tượng biến đổi khí hậu đang diễn ra như thế nào đối với nhân
loại và các bài viết có tác động như thế nào đến nhận thức của người dân.
Vì vậy,với hi vọng là nâng cao nhận thức của người dân về BDKH
để từ đó đưa ra những điều chỉnh hành vi phù hợp với BĐKH,chúng tôi

hi vọng rằng cuộc điều tra này có thể giúp mọ người có cái nhìn toàn diện
về thông điệp của BDKH đối với đời sống của mình trên báo in-một
trong những phương tiện tuyền thông gần gũi với cuộc sống.
4


II/ Tổng quan tài liệu
BĐKH( thiên tai,lũ lụt,hạn hán,sa mạc hóa …)đang được coi là hiểm
họa đối với toàn thế giới.Vì vậy,nghiên cứu,tuyên truyền,phổ biến về BĐKH
không phải là trách nhiệm của cá nhân nào mà đó là trách nhiệm của toàn
thế giới.Với thông điệp”Hãy chung tay ứng phó với BĐKH”,cả thế giới đang
bắt tay vào nghiên cứu,tìm hiểu về BĐKH.
A. Các nghiên cứu
- Việt Nam được coi là một trong năm Quốc gia trên thế giới chịu ảnh
hưởng nặng nề nhất do BDKH.Riêng năm 2007,tổng thiệt hại do thiên tai gây
ra trên toàn quốc ước tính lên đến 11600 tỷ đồng.Theo số liệu thống kê của
cục Bảo trợ xã hội Bộ LDTBXH cục trồng trọt-thủy lợi Bộ NN và PTNT cho
thấy thiệt hại do thiên tai gây ra ở nước ta giai đoạn 2006-2010 là:
Số người chết và mất tích trung bình hang năm là 415
Số người bị thương trung bình là 807
Số nhà bị đổ,sập,trôi là 19803…
Tổng thiệt hạ trung bình hang năm là 13802 tỉ đồng.
Theo số liệu quan trắc, biến đổi khí hậu ở Việt Nam có những điểm
đáng lưu ý sau:
- Nhiệt độ: Trong khoảng 50 năm qua (1951 - 2000), nhiệt độ trung
bình năm (TBN) ở Việt Nam đã tăng lên 0,7oC. Nhiệt độ TBN của 4 thập kỷ
gần đây (1961 - 2000) cao hơn TBN của 3 thập kỷ trước đó (1931 - 1960).
Nhiệt độ TBN của thập kỷ 1991 – 2000 ở Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh
đều cao hơn trung bình (TB) của thập kỷ 1931 – 1940 lần lượt là 0,8; 0,4 và
0,6oC. Năm 2007, nhiệt độ TBN ở cả 3 nơi trên đều cao hơn TB của thập kỷ

1931 – 1940 là 0,8 – 1,3oC và cao hơn thập kỷ 1991 – 2000 là 0,4 – 0,5oC. Lượng mưa: Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng mưa TBN trong 9
thập kỷ vừa qua (1911 – 2000) không rõ rệt theo các thời kỳ và trên các vùng
khác nhau, có giai đoạn tăng lên và có giai đoạn giảm xuống. Trên lãnh thổ
5


Việt Nam, xu thế biến đổi của lượng mưa cũng rất khác nhau giữa các khu
vực.
- Mực nước biển: Theo số liệu quan trắc trong khoảng 50 năm qua ở
các trạm Cửa Ông và Hòn Dấu cho thấy, mực nước biển trung bình đã tăng
lên khoảng 20cm.
- Số đợt không khí lạnh (KKL) ảnh hưởng tới Việt Nam giảm đi rõ rệt
trong hai thập kỷ gần đây (cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI). Năm 1994 và
năm 2007 chỉ có 15-16 đợt KKL, bằng 56% trung bình nhiều năm. 6/7 trường
hợp có số đợt KKL trong mỗi tháng mùa đông (XI-III) thấp dị thường (0-1
đợt) cũng rơi vào 2 thập kỷ gần đây (3/1990, 1/1993, 2/1994, 2/1997,
11/1997). Một biểu hiện dị thường gần đây nhất về khí hậu trong bối cảnh
biến đổi khí hậu toàn cầu là đợt KKL gây rét đậm, rét hại kéo dài 38 ngày
trong tháng 1 và tháng 2 năm 2008 gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông
nghiệp.
- Bão: Những năm gần đây, số cơn bão có cường độ mạnh nhiều hơn,
quỹ đạo bão dịch chuyển dần về các vĩ độ phía Nam và mùa bão kết thúc
muộn hơn, nhiều cơn bão có quỹ đạo di chuyển dị thường hơn.
- Số ngày mưa phùn TBN ở Hà Nội giảm dần trong thập kỷ 1981 –
1990 và chỉ còn gần một nửa (15 ngày/năm) trong 10 năm gần đây.
B. Các hội thảo,hội nghi
- Hội nghị Ngày 12/12/2007,Hội nghị quốc tế về BĐKH do LHQ tổ
chức tại Bali đã bắt đầu phiên họp cấp cao với sự tham dự của 6 nguyên thủ
Quốc gia cùng 144 Bộ trưởng cao cấp của chính phủ các nước. Hội nghị LHQ
về BĐKH tại Bali đã công bố dự thảo Lộ trình Bali,đặt mục tiêu đến năm

2012 tất cả các nước đang phát triển phải cắt giảm 25-40% tổng lượng khí
thải gây hiệu ứng nhà kính so với mức của năm 1990.

6


- Biến đổi khí hậu đang tác động mạnh đến nông nghiệp Châu Á, Việt
Nam được dự báo là một trong số ít nước chịu tác động nặng nề, trong đó
nông nghiệp sẽ là ngành chịu tác động nặng nề nhất. Đời sống của nông dân
bị đe dọa ảnh hưởng đến an ninh lương thực và phát triển bền vững.Để từng
bước giúp Việt Nam thích ứng với biến đổi khí hậu trong nông nghiệp, Viện
Môi trường Nông nghiệp, thành viên của Viện Khoa học Nông nghiệp Việt
Nam (VAAS) đã hợp tác chặt chẽ với Viện Nghiên cứu cây trồng Quốc tế cho
vùng bán khô hạn (ICRISAT) triển khai dự án vùng “Mức độ tổn thương do
biến đổi khí hậu - Chiến lược thích ứng và giảm nhẹ” (RETA’s 6439) do
Ngân hàng châu Á (ADB) tài trợ.Được sự chấp thuận của Bộ Nông nghiệp và
PTNT tại Quyết định số 1321/QÐ-BNN-HTQT ngày 20/6/2011, Viện Môi
trường Nông nghiệp chủ trì, phối hợp với Viện Nghiên cứu quốc tế về cây
trồng vùng bán khô hạn (ICRISAT) tổ chức Hội thảo “Tư vấn về tính dễ tổn
thương với biến đổi khí hậu trong nông nghiệp” và Đối thoại về chính sách
xây dựng khả năng ứng phó trong nông nghiệp ở vùng Châu Á và Việt
Nam”, ngày 21 -22/7/2011 tại Khách sạn Hà Nội, Việt Nam”.
C. Truyền thông
- Báo chí và công tác truyền thông về biến đổi khí hậu: Sáng 26/11, tại
thành phố Đà Nẵng, Bộ Thông tin & Truyền thông phối hợp tổ chức tập huấn
nâng cao năng lực phóng viên trong công tác truyền thông về biến đổi khí hậu
và các biện pháp giảm thiểu tác hại thiên tai.Dịp này, các học viên đã được
truyền đạt về biến đổi khí hậu trên toàn cầu, trong cả nước và tại khu vực
Duyên hải miền Trung. Đồng thời, thông tin về kết quả bước đầu và tiến độ
thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về triển khai chương trình

mục tiêu quốc gia ứng phóvới biến đổi khí hậu.
- Dự án nghiên cứu “Truyền thông về rủi ro biến đổi khí hậu nhằm nâng
cao năng lực thích ứng cho cộng đồng khu vực duyên hải và đồng bằng tại
Việt Nam”, do Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc tế (IDRC), Canada tài
trợ, do Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ (NISTPASS)
7


thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ và Trung tâm Nghiên cứu Giảm nhẹ rủi ro
thảm họa và Biến đổi khí hậu thuộc Viện Quản lý và Phát triển Châu Á
(AMDI), cùng phối hợp thực hiện. Dự án nghiên cứu bắt đầu từ ngày 1 tháng
1 năm 2012 và sẽ tiến hành nghiên cứu ở các thành phố Đà Nẵng, Quy Nhơn,
và Cần Thơ trong vòng 3 năm. Sáng ngày 7/11, tại Hà Nội, Bộ Tài nguyên và
Môi trường đã tổ chức hội thảo Cập nhật và chia sẻ thông tin về Biến đổi khí
hậu (BĐKH) toàn cầu và ở Việt Nam với báo chí .Việt Nam được đánh giá là
một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH. Ở Việt
Nam trong vòng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình đã tăng khoảng 0,5 độ C,
mực nước biển đã dâng khoảng 20cm, thiên tai, đặc biệt bão, lũ và hạn hán
ngày càng khốc liệt. Đến năm 2100, nhiệt độ trung bình có thể tăng từ 2 đến
3ºC; mực nước biển trung bình có thể dâng lên 1 m. Các hiện tượng khí hậu
cực đoan như bão, áp thấp nhiệt đới, mưa lớn gây lũ, hạn hán nắng nóng, rét
đậm… sẽ diễn biến ngày càng phức tạp.Phần lớn dân số Việt Nam nằm trong
các vùng bị ảnh hưởng nặng, nhất là vùng ĐBSCL, đồng bằng sông Hồng và
vùng ven biển. Hậu quả của BĐKH đối với Việt Nam là nghiêm trọng và là
một nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo, cho việc thực hiện
các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước.Đến năm
2100, Việt Nam phấn đấu trở thành một quốc gia thịnh vượng, văn minh, phát
triển bền vững với nền kinh tế các-bon thấp, ứng phó thành công với BĐKH
và có vai trò quan trọng trong khu vực và trên thế giới.Mục tiêu tổng quát là
tăng cường năng lực thích ứng với BĐKH của con người và các hệ thống tự

nhiên, phát triển nền kinh tế các-bon thấp nhằm bảo vệ và nâng cao chất
lượng cuộc sống, bảo đảm an ninh và phát triển bền vững quốc gia trong bối
cảnh BĐKH toàn cầu và tích cực cùng cộng đồng quốc tế bảo vệ hệ thống khí
hậu trái đất
III/ Mục đích nghiên cứu
•Thấy được mức độ của truyền thông báo chí đối với thực trạng của
biến đổi khí hậu toàn cầu với cuộc sống của nhân loại.
8


•Thấy được sức ảnh hưởng của những thông điệp mà báo chí đưa ra đã
tác động đến nhận thức của công chúng ra sao?
*Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đọc tài liệu và các đề tài liên quan
Phân tích,đánh giá nội dung các bài viết liên quan
IV/ Đối tượng,khách thể,phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:thông điệp về biến đổi khí hậu trên báo chí hiện
nay
Khách thể nghiên cứu:3 tờ báo in: tuổi trẻ TPHCM,Thanh Niên,Tiền
Phong năm 2011.
Phạm vi nghiên cứu: thư viện quốc gia
Phần 2 Câu hỏi nghiên cứu của đề tài
-Vì sao công tác tuyên truyền của Nhà nước về BDKH đã được xúc tiến
nhưng nhận thức của người dân về BDKH còn rất hạn chế?
+Báo in đã thực sự đến tay từng người dân?
-Tại sao con người lại vội và ứng phó với hậu quả từ những vệc mình
đang làm?
+Mở nhiều hội nghj về BDKH để tìm biện pháp ứng phó với BDKH.
+BDKH tác động ngày càng lớn đến đời sống con người.
Câu hỏi nghiên cứu báo cáo

- Các bài báo về thực trạng biến đổi khí hậu như thế nào?
- Các tờ báo, bài báo thường đề cập tới khía cạnh gì của biến đổi khí
hậu
- Từ thực trạng được đề cập trên Báo in có tác động, ảnh hưởng đến
điều chỉnh hành vi của người dân hay không?

9


V. BÁO CÁO THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO
IN
Theo kết quả nghiên cứu trên Báo in từ 3 tờ báo Tuổi trẻ thành phố Hồ
Chí Minh, Thanh niên và Tiền Phong trên tất cả các chuyên mục từ năm
Ta được kết quả về vấn đề thực trạng biến đổi khí hậu trên Báo in hiện
nay.
Các tờ báo đề cập đến thực trạng biến đổi khí hậu trên toàn cầu thường
về các vấn đề Nhiệt độ, Lượng mưa, Vùng biến đổi khí hậu.
Bảng 1 Thực trạng biến đổi khí hậu trên báo in
Giá tri
Nhiệt độ
Lượng mưa
Vùng biến đổi khí hậu
Tổng

Số bài viết đề cập

Phần trăm

39
19

32

43.3
21.1
35.6

90

100

- Biến đổi khí hậu về nhiệt độ được nhắc đến trong các bài báo chủ yếu
là hiện tượng thay đổi nhiệt độ của Trái đất đó là Sự ấm lên của trái đất do
nhiệt độ Trái đất ngày càng tăng cao. Niệt độ trung bình của không khí và
cácđại dương trên Trái Đất tăng lên theo các quan sát trong các thập kỷ gần
đây. Trong thế kỉ 20, nhiệt độ trung bình của không khí gần mặt đất đã tăng
0,6 ± 0,2 °C (1,1 ± 0,4 °F). Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí
hậu (IPCC) nghiên cứu sự gia tăng nồng độ khí nhà kính sinh ra từ các hoạt
động của con người như đốt nhiên liệu hóa thạch và phá rừng làm cho nhiệt
độ Trái Đất tăng lên kể từ giữa thế kỷ 20. IPCC cũng nghiên cứu sự biến đổi
các hiện tượng tự nhiên như bức xạ mặt trờivà núi lửa gây ra phần lớn hiện
tượng ấm lên từ giai đoạn tiền công nghiệp đến năm 1950 và có sự ảnh hưởng
lạnh đi sau đó. Các kết luận cơ bản đã được chứng thực bởi hơn 45 tổ chức
khoa học và viện hàn lâm khoa học,bao gồm tất cả các viện hàn lâm của
các nước công nghiệp hàng đầu. Đây là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong
10


thực trạng về biến đổi khí hậu được báo in nhắc đên trong 39 bài chiếm 9%
các bài báo được thống kê nói về thực trạng biến đổi khí hậu. Từ đó cho thấy
dây là vấn đề hết sức cấp bách đang được chú ý quan tâm vì nó ảnh hưởng

trực tiếp đến đời sống con người cả về đời sống sinh hoạt và sản xuất.
Biến đổi khí hậu về lượng mưa : Sự nóng lên toàn cầu gây ra những
biến đổi hoàn lưu khí quyển và đại dương, đặc biệt là hoàn lưu gió mùa và
hoàn lưu nhiệt-muối. Tăng sự bốc hơi trên lục địa và đại dương dẫn đến tăng
hàm lượng ẩm trong khí quyển và tăng hội tụ ẩm vận tải từ đại dương vào lục
địa. Tăng tính biến động tính dị thường và cực đoan của các yếu tố khí hậu và
hiện tượng thời tiết nắng, nóng, rét, bão, lũ, mưa lớn, hạn hán, tố, lốc... Đặc
biệt là trong những trường hợp liên quan đến hoạt động của El nino, La Nina.
Cụ thể là thay đổi về hoàn lưu gió bao gồm cả những nhiễu động khí quyển,
hàm lượng ẩm trong khí quyển và bốc hơi sẽ làm thay đổi về lượng mưa và
phân bố mưa theo không gian và thời gian, dẫn đến những thay đổi trong chế
độ thuỷ văn và tài nguyên nước cũng như thiên tai liên quan đến nước, ảnh
hưởng đến hoạt động của các hồ chứa.rất khác nhau giữa các khu vực và giữa
các tiểu khu vực trên từng giai đoạn. Tần số mưa tăng lên trong các khu vực
kể cả nơi lượng mưa giảm. Biến đổi lượng mưa được đề cập đến trong 19 bài
báo được mã hóa. Các bài báo cho thấy lượng mưa biến đổi không nhất quán,
có nơi tăng, có nơi giảm.
Vùng biến đổi khí hậu khác nhau trên các quốc gia và từng khu vực về
cả mức độ và số lượng. Các bài báo cho thấy 1 nghịch lý các nước tiên tiến là
ảnh hưởng nhiều nhất đến vấn đề biến đổi khí hậu nhưng các nước đang phát
triển lại chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Các quốc gia gần biển thì phạm vi đất
liền đang ngày càng bị thu hẹp do hiện tương băng tan, hạn hán, lũ lụt xảy ra
thương xuyên và mức độ ngày càng trầm trọng ở tất cả các quốc gia trên thế
giới. Ví dụ như Bangladesh người dânnước này đang phải chịu đựng những
hậu quả lớn của biến đổi khí hậu. Những cơn bão, lũ xảy ra thường xuyên hơn
khiến nhà cửa, ruộng vườn, hoa màu bị cuốn theo dòng nước, gieo rắc bệnh
11


tật. Đặc biệt là ở Việt Nam, đe dọa đối với việc hoàn thành mục tiêu giảm

nghèo cũng như các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
Bảng 2. Thực trạng biến đổi khí hậu ở Việt Nam ta thấy bảng thống kê
kết quả
Giá tri
Nhiệt độ
Lượng mưa
Số đợt không khí lạnh
Tổng

Số bài viết đề cập
33
84
11
128

Phần trăm
25.8
65.6
8.4
100

Như theo bảng dữ liệuvề thực trạng biến đổi khí hậu của Việt Nam trên
tờ báo ta thấy
Biến đổi khí hậu về nhiệt độ có 33 bài đề cập tới chiếm 25.8% số bài.
Đây là vấn đề đang được quan tâm vì nhiệt độ VN sẽ tăng khoảng 0,3-0,5 oC
vào năm 2010; 1 – 2oC vào năm 2050 và 1,5-2,5oC vào năm 2070. Những khu
vực có mức độ tăng nhiệt độ cao nhất là Tây Bắc và Việt Bắc.Nhiệt độ ở các
vùng khí hậu phía Bắc tăng nhanh hơn các vùng phía Nam. Ở các vùng khí
hậu phía Bắc, nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn so với nhiệt độ mùa hè. Còn
ở các vùng khí hậu miền Nam có diễn biến không rõ rệt, thời kỳ có nhiệt độ

tăng nhanh nhất trong năm là các tháng 3, 4 và 5. Cụ thể 1 bài viết trên báo
Thanh niên đưa ra số liệu nhiệt độ KB 2009Vào cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ
trung bình có thể tăng từ 1,6 - 2,8oC.
KB2011: Đến cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ trung bình tăng 2-3 oC trên
phần lớn diện tích cả nước.
Như vậy, sự gia tăng nhiệt độ dự báo hiện nay cao hơn 0,2 - 0,4oC so
với dự báo năm 2009. Tác động chung của biến đổi khí hậu khiến nền nhiệt
độ tăng lên hay nói cách khác là tổng nhiệt độ năm tăng lên nhưng đồng thời
cũng làm gia tăng các hiện tượng cực đoan và không loại trừ cả rét đậm, rét
hại ở phía Bắc.

12


Lượng mưa cũng đang đần thay đổi và đang được báo chí quan tâm đặc
biệt có 84 bài viết chiếm 65.6%. 1 bài viết trên báo Thanh niên đưa ra số liệu
về lưowngj mưa KB 2009
- Tổng lượng mưa năm ở tất cả các vùng khí hậu của nước ta đều tăng.
- Lượng mưa năm vào cuối thế kỷ XXI tăng khoảng 5% (độ dao động
là 2 - 8%).

.

KB2011:

.

- Đến cuối thế kỷ XXI, lượng mưa năm tăng trên hầu khắp lãnh thổ.
- Mức tăng phổ biến từ 2-7%.


.

.

Như vậy, sự gia tăng lượng mưa dự báo hiện nay không thay đổi
nhiều so với dự báo năm 2009.

.

Số đợt không khí lạnh là hiện tượng biến đổi khí hậu vô cùng phức tạp
đang được nhắc đến trên Báo chí. Có 11 bài viết chiếm 8.6% số bài báo nói về
thực trạng biến đổi khí hậu. Theo các chuyên gia khí tượng, nếu không có
những nỗ lực toàn cầu nhằm giảm phát thải khí nhà kính, chúng ta sẽ phải đối
mặt với những tác động khốc liệt của biến đổi khí hậu trong những thập kỷ
tới, mà hậu quả trực tiếp là các đợt nóng lạnh cực đoan. Chúng ta có thể
chứng kiến những mùa Đông ngắn, không lạnh giá, nhưng đồng thời sẽ chứng
kiến những mùa Đông cực kỳ lạnh xảy ra ở những vùng khác nhau. Theo đó,
sẽ có những mùa Đông rất lạnh, mùa Hè rất nóng.
Ta đi phân tích cụ thể về nhiệt độ được nhắc đến trong các bài báo và
cho thấy các bài viết thường quan tâm đến vấn đề gì của nhiệt độ.

13


Thực trạng biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến nhiệt độ
Giá tri
Hiện tượng nóng lên
toàn cầu
Biến đổi nhiệt độ
Khác

Tổng

Số bài viết đề cập
22

Phần trăm
35.5

34
6
62

54.8
9.7
100

- Hiện tượng nóng lên toàn cầu chiếm 22 bài trong tổng số 62 báo nói
về biến đổi khí hậu chiếm 35.5%trong tổng số các bài báo nói về thực trạng
biến đổi khí hậu tác động đến nhiệt độ như thế nào. Sự biến đổi khí hậu ngày
càng trở lên trầm trọng và bằng chứng đáng lo ngại là hai cực của Trái Đất
đang nóng lên nhanh gấp 2 lần so với mức trung bình toàn cầu. Trong lòng
đại dương chứa rất nhiều các dòng hải lưu có tác dụng điều hòa nhiệt độ toàn
cầu. Những dòng nước lạnh từ vùng cực chìm xuống, chảy xuyên suốt đại
dương về phía xích đạo nơi có nhiệt độ cao hơn. Trong quá trình di chuyển,
nó trở nên ấm và loãng hơn rồi sau nổi dần lên bề mặt. Khi đến vùng xích
đạo, dòng hải lưu này đổi chiều, chuyển động ngược về vùng cực tạo thành
một chu trình và mang theo nhiệt. Những dòng đại dương lưu thông như vậy
tạo bởi sự khác nhau về nhiệt độ và độ mặn của nước biển. Nếu không có quá
trình này, nhiệt độ ở vùng cực sẽ ngày càng lạnh dần, và vùng xích đạo sẽ trở
lên nóng hơn. Báo tuổi tre thành phố Hồ chí minh cho vìnước ta có đường bờ

biển kéo dài từ Bắc tới Nam và lại nằm sát ngay đường xích đạo nên được
đánh giá là nước chịu nhiều ảnh hưởng từ vấn đề biến đổi khí hậu. Theo tính
toán của các nhà khoa học từ Viện Khoa học Khí tượng, Thủy văn và Môi
trường cho thấy, nước biển đang dâng lên tại Việt Nam và đến năm 2010,
mực nước biển sẽ tăng thêm 9 cm so với 3 năm trước đó. Mực nước biển sẽ
dâng lên 33 - 45 cm vào năm 2050 và có thể tiếp tục dâng thêm. Khi mực
nước biển dâng thêm 1 m, 14 triệu dân ở đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ảnh
hưởng, 40.000 km2 vùng đồng bằng bị ngập lụt và 1.700 km2 vùng ven biển

14


bị chìm. TP. HCM và phần lớn đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập. Khi bị
xâm nhập mặn cùng với thủy triều dâng sẽ làm biến đổi dòng chảy tạo nên
nhiều dòng chảy rối và bất thường tạo nên hiện tượng sạt lở bờ sông.
- Biến đổi nhiệt độ được đề cập nhiều nhất trong các bài viết này. Có 34
bài chiếm 54.8% các bài báo. Mộtbài báo ra tháng 5 trên Tiền Phong cho biết
theodự đoán, nếu nhiệt độ toàn cầu tăng 3-5oC, mỗi năm trên thế giới sẽ có
khoảng từ 50-80 triệu người rơi vào tình trạng nguy hiểm của bệnh sốt rét.
Chất lượng không khí, nguồn nước sinh hoạt giảm, những thành phố lớn với
mức độ ô nhiễm đáng báo động sẽ là nguyên nhân cho những bệnh liên quan
đến hô hấp và truyền nhiễm phát triển như SARS...Ta có thể các biến đổi vầ
nhiệt độ làm lượng mưa, không khí lạnh và các hiện tượng lũ lụt, hạn hán xảy
ra thường xuyên hơn.
Nhận xét về sự tương quan trong các bảng số liệu
Bảng 3 Thực trạng biến đổi khí hậu trên thế giới được đề cập đến
qua 3 tờ báo
Tên báo

Thực trạng biến đổi khí


Tổng

hậu trên thế giới
Lượng Nhiệt Vùng biến
Tuổi trẻ thành phố Hồ
Chí Minh
Thanh niên
Tiền phong

mưa
15

độ
7

đổi
4

26

0
24

2
10

10
18


12
52

Từ bảng Số liệu trên ta thấy Báo Tiền Phongcó 52 bài viết về thực
trạng biến đổi khí hậu trên thế giới chiếm tỷ lệ cao nhất trong 3 báo chiếm
54.8% trong tổng số bài viết. Trong đó có 15 bài viết nói về biến đổi khí hậu
ảnh hưởng tới lượng mưa trên thế giới, 7 bài viết nói về nhiệt độ thay đổi do
biến đổi khí hậu và có 4 bài viết nói về các vùng biến đổi khí hậu. Về báo
Thanh niên có 12 bài viết thực trạng biến đổi khí hậu chiếm 13.3% tổng số

15


bài viết trên 3 báo trong đó không có bài viết nào nói về lượng mưa thay đổi
như thế nào ở biến đổi khí hậu, nhiệt độ thay đổi có 2 bài viết đề cập, 10 bài
viết nói về vùng biến đổi khí hậu. Báo Tuổi trẻ thành phố Hồ chí minh có 26
bài viết 31.9% các bài viết các bài viết trên báo này về biến đổi khí hậu
thường đề cập đến lượng mưa chiếm 15 bài, sau đó là sự thay đổi về nhiệt độ
chiếm 7 bài và 4 bài về vùng biến đổi khí hậu .
Từ bảng số liệu trên ta lập biểu đồ về thực trạng biến đổi khí hậu trên
Thế giưới được 3 từ báo nói đến

-Từ biểu đồ trên ta thấy báo Tiền phong đề cập đến tất cả các vấn đề về
thực trạng biến đổi khí hậu trong đó các bài viết về thực trạng biến đổi khí hậu.
Đây là tờ báo cập nhật tất cả các thông tin về các mặt văn hóa, xã hội nói chung
và không chuyên về giới tre nhiều như báo Thanh niên và Báo Tuổi trẻ thành
phố Hồ Chí Minh. Các bài báo về thực trạng biến đổi khí hậu trên báo Tiền
Phong nhiều và đa dạng về nội dung như 10 bài báo về biến đổi nhiệt độ, 24 bài
báo về biến đổi lượng mưa và 18 bài báo về vùng biến đổi. Có tổng 52 bài báo
chiếm 57.8% tổng số bài báo về thực trạng biến đổi khí hậu trên 3 tờ báo.

-Về sự thay đổi về lượng mưa báo Tiền Phong có 24 bài viết, báo Tuổi
trẻ thành phố Hồ Chí Minh có 15 bài viết nói về vấn đề này trong khi báo

16


Thanh niên không có bài viết nào nói về sự thay đổi này. Cho thấy mức độ
quan tâm vấn đề này của tờ báo này chưa cao và chưa có sự tổng diện về các
vấn đề thay đổi khí hậu
- Các vùng biển đổi đang là đề tài được cả 3 tờ báo quan tâm với 4 bài
viết trên báo Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh, 10 bài trên báo Thanh niên và
18 bào trên báo Tiền phong. Vì các quốc gia có địa hình khác nhau và có khí
hậu khac nhau cũng như cách phòng trang=hs biến đổi khí hậu khác nhau nên
mức độ ảnh hưởng khác nhau giữa các vùng. Tờ Tuổi trẻ thành phố Hồ chí
minh thường nói về đời sống thanh niên ở sài gòn và các thực trạng biến đổi
họ nhắc tới cũng là các khu vức miền nam. 2 tờ báo trên nói về thực trạng
biến đổi chung của các khu vực trên toàn thế giưới. Nhưng hầu như các nước
đang phát triển lại chịu tac hại nặng nề nhât. bốn trong số 12 quốc gia chịu
ảnh hưởng nặng nề nhất từ những mối đe dọa này là những nước nghèo nhất
thế giới. Một Bài báo tháng 7 năm 2010 tren Tiền Phong viết Năm nước ở
Đông Nam Á gồm Indonesia, Myanmar, Việt Nam, Philippines và Campuchia
nằm trong danh sách 30 nước chịu tác động khắc nghiệt của thay đổi khí hậu,
Bảng 5 Thực trạng biến đổi khí hậu ở Việt Nam được đề cập đến
trong báo chí
Tên báo

Tuổi trẻ thành phố Hồ

Thực trạng biến đổi khí hậu
trên thế giới

Lượng Nhiệt
Số đợt
mưa
độ
không khí
lạnh
18

28

0

Tổng

46

Chí Minh
Thanh niên
6
32
8
46
Tiền phong
10
26
1
37
Theo bảng số liệu ta thấy, Về vấn đề thực trạng biến đổi khí hậu ở Việt
Nam thì Báo Thanh niên và Báo Tiên Phong có số bài viết bằng nhau là 46
bài chiếm 38.3% tổng số bài viết cho thấy mức độ quan tâm biển đổi khí hậu


17


ở Việt Nam trên 2 tờ báo này là khá lớn. Trong đó báo Tuổi tre thành phố Hồ
Chí minh có 28 bài viết về nhiệt độ thay đổi do biến đổi khí hậu, tiếp đến là
lượng mưa có 18 bài nhưng không có bài viết nào nói về đợt khong khí lạnh.
Có thể thấy báo này không mâý quan tâm đên vấn đề không khí lạnh ở Việt
Nam hiện nay vì hàng năm ở Việt nam đều có ít nhất 2,3 đợt không khí lạnh
ảnh hưởng trực tiếp đến các tỉnh miền bắc trong khi đây là Báo trong Nam.
Báo Thanh niên thường xuyên đề cập đến thay đổi nhiệt độ ở Việt Nam với
32 bài báo trong tổng số 46 bài nói về biến đổi khí hậu. Sau đó là 8 bài viết về
các đợt không khí lạnh bà 6 bài viết về thay đổi của lượng mưa. Báo Tiên
Phong có 37 bài viết chiếm 23.4% tổng số bài viết của 3 tờ báo. Trong đó có
26 bài đề cập đến nhiệt độ thay đổi và 10 bài ní về lượng mưa, 1 bài nói về số
đợt không khí lạnh.
Vấn đề biến đổi khí hậu về nhiệt độ ở Việt nam được nói đến nhiều
nhất trong các bài viết của 3 báo có 86 bài viết chiếm 66.7% tổng bài viết nói
về thực trạng biến đổi khí hậu ở Việt Nam.
Từ bảng số liệu trên ta thể hiện trên biểu đồ về thưc trạng biến đổi khí
hậu ở việt nam được đề cập đến trên báo in như sau

- Theo biểu đồ trên ta thấy, Báo Thanh niên là báo có cái nhìn toàn diện
với nhiều bài viết nhất về thực trạng biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Với các bài
viết phân bố đều cho các chủ đề với 32 bài về biến đổi nhiệt độ, 6 bài về
18


lượng mưa và 8 bài về các đợt không khí lạnh. Tờ Báo Tiền phong chú trọng
nhiều về các bài về nhiệt độ, lượng mưa với lần lượt là là 26 và 10 bài so với

1 bài về các đợt không khí lạnh. Báo tuổi trẻ thành phố Hồ Cí Minh lại không
có bài viết nào về các đợt không khí lạnh.
- Về sự thay đổi của lượng mưa thì các tờ báo cũng đề cập tới nhiều. Vì
nước ta là nước nhiệt đới ẩm gío mùa nằm bên bờ Biển Đông (thuộc Tây Thái
Bình Dương). Nhờ tác động của Biển Đông, cùng các khối khí xuất phát và
vượt qua các vùng biển nóng-ẩm khác nhau, khi đến nước ta lại gặp các địa
hình chắn gió và các nhiễu động của khí quyển nên đã tạo ra mưa lớn, lượng
mưa trung bình từ 1500-2000mm/năm. Những nơi có sườn đón gió biển hoặc
núi cao-lượng mưa tới 3500-4000 mm/năm. Độ ẩm tương đối trên 80% (trừ
một số vùng khuất gió như: Tây Nghệ An, cực Nam Trung Bộ, có độ ẩm kém
hơn). Cường độ mưa đang có xu hướng tăng lên rõ rệt trên phần lớn lãnh thổ,
lượng mưa có xu hướng giảm đi trong tháng 7, 8 nhưng lại tăng lên trong các
tháng 9, 10, 11. Thời điểm mưa đã thay đổi, mùa khô kéo dài hơn, mùa mưa
nhiều mưa hơn, khiến cho hạn hán và lũ lụt đều có chiều hướng tăng lên. Vì
vậy yếu tố lượng mưa ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt sản xuát như hoạt động
của các nhà máy thủy điện
- Yếu tố về nhiệt độ được các tờ báo đặc biêt quan tâm với số lượng bài
báo cao nhât vớ 86 bài viết chiếm 66.7% trên tổng số bài. Vì nước ta là nước
nhiệt đới ẩm gió mùa Việt Nam ảnh hưởng bởi gió mùa, đó là lý do tại sao
Việt Nam có nhiệt độ trung bình thấp hơn so với các quốc gia khác cùng vĩ độ
ở khu vực châu Á. So sánh với các quốc gia, Việt Nam có mùa đông thường
lạnh hơn và mùa hè thì mát hơn. Dưới sự ảnh hưởng của gió mùa, và hơn nữa
bởi vì sự phức tạp của địa hình, Khí hậu Việt nam luôn thay đổi trong 1 năm,
giữa các năm, hoặc giữa các vùng từ Bắc vào Nam và từ vùng thấp tới vùng
cao). Khí hậu ở Việt Nam cũng chịu nhiều tác động xấu của thời tiết, Như là
các cơn bão (có từ 6->10 cơn bão và áp thấp nhiệt đới hàng năm), lụt và hạn
hán đe doạ cuộc sống và nông nghiệp Việt Nam.)Nhiệt độ ở Việt Nam cao.
19



Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 22oC tới 27oC. Tuy nhiên, Nhiệt
độ trung bình khác nhau giữa các vùng miền. ở Hà Nội nhiệt độ trung bình là
23oC, ở Tp Hồ Chí Minh nhiệt độ trung bình thường là 26oC và ở Huế là
25oC. Một số nơi như Đà Lạt hoặc Sapa có nhiệt độ cao nhất chỉ là 20oC vào
mùa hè. Hàng năm có 100 ngày mưa và lượng mưa trung bình là 1500mm tới
2000mm. Độ ẩm dao động ở mức 80%. Số giờ mặt trời chiếu khoảng 1,500
tới 2,000h và trung bình đạt 100 kcal/cm2 mỗi năm. Báo tuổi trẻ thành phố
Hồ Chí minh viết heo đó hiện tượng nóng lên của khí hậu sẽ đến sớm hơn cả
dự báo. Tại TPHCM và Cần Thơ, số liệu đo đạc cho thấy nhiệt độ đang tăng
lên: từ năm 1960 đến 2005 tăng khoảng 0,020C từ năm 1991 đến 2005 tăng
lên khoảng 0,0330C. Riêng tại TP Vũng Tàu, từ năm 1960 đến nay đã tăng lên
20C. Điều đó không chỉ thể hiện sự ấm lên về nhiệt độ mà sẽ kéo theo nhiều
thứ như nước biển dâng, hiện tượng khí hậu cực đoan và thiên tai bão, lụt, hạn
hán tăng nhanh... Theo đà tăng nhiệt độ trên toàn thế giới, từ năm 1920 đến
nay nhiệt độ tại VN cũng tăng lên từ 0,2 0C đến 10C nhưng tăng nhanh chủ yếu
là từ năm 1980 đến nay. Nhưng điều mà nhiều nhà khoa học thế giới nhận
định là “VN chịu nhiều tác động khí hậu hơn so với lượng CO2 thải ra”.
- Số đợt không khí lạnh đang được báo chí nhắc đến với 9 bài viết trong
tổng số bào của báo Thanh niên và báo Tiền Phong. Báo tuooiet trẻ thành phố
Hồ Chí Minh không có bài viết nào về vấn đề này có thể do đây là tờ bao địa
phương trong khi các khu vực miền nam không chịu tác động của các đợt
không khí lạnh.thủ phạm của đợt lạnh giá đang tấn công không ai khác chính
là do khí hậu toàn cầu ấm lên khiến băng ở Bắc Cực tan ra.do khí hậu ở Bắc
Cực ấm lên, trong vòng 30 năm qua, diện tích băng bao phủ Bắc Cực đã giảm
đi hơn 20%. Khi các đại dương không còn băng bao phủ nữa, chúng sẽ giải
phóng hơi ấm vào không khí, ảnh hưởng đến sự tuần hoàn của khí quyển. Kết
quả là, không khí lạnh ở các vùng cực do tác động của hệ thống áp suất cao
quay ngược trở lại vùng lục địa châu Âu, tạo nên mưa tuyết và thời tiết lạnh

20



giá ở khu vực này. Nó có tác động đến tất cả các quốc gia trong đó có Việt
nam. Hàng năm miền bắc phải gáng chịu không dưới 3 đợt không khí lạnh
Nhận xét chung
Từ các bảng, biểu trên ta thây bái chí đang ngày càng quan tâm sát sao
đến thực trạng biến đổi khí hậu. Thực trạng về biến đổi khí hậu được nhắc
đến trên thế giới cũng như Việt Nam. Các thông tin trên báo chí có tác động
mạnh đến người đọc giúp điều chỉnh hành vi. Từ đó cho thấy biến ddoooir khí
hậu đang là vấn đề cấp bách rất đáng lo ngại của các quốc gia trên thế giới.
Nhưng trên mỗi bài báo không chỉ nêu nội dung mà cần nêu vắn tắt nguyên
nhân và đưa ra 1 số biện pháp cụ thể để khắc phục. Trên Báo tuổi tre thành
phố Hồ chí minh đã viết “viêt nam trong mấy chục năm gần đây thời tiết có
nhiều biến đổi bất thường. Bão, lũ, hạn hán xảy ra khắp cả nước, ảnh hưởng
đến đời sống hàng triệu người dân. Những trận lũ xảy ra liên tục hết đợt này
đến đợt khác ở các tỉnh miền Trung, các đợt triều cường lịch sử ở Thành phố
Hồ Chí Minh, các đợt rét kéo dài ở Bắc Bộ hay trận bão Du-ri-an bất thường
xảy ra tại Nam Bộ tháng 12-2006...là những diễn biến không bình thường của
thời tiết” .Nhiệt độ trên toàn thế giới cũng như Việt nam luôn được quan tâm
trên cả 3 bài báo với số lượng bài khá lớn. Những biến động nhiệt độ mùa hè
dù nhỏ nhất, thậm chí chỉ 1 độ C cũng làm giảm tuổi thọ ở người cao tuổi mắc
bệnh mãn tính, và có thể dẫn đến gia tăng hàng nghìn người tử vong mỗi
nămNhiệt độ thay đổi là tiền đề hạn hán, thiên tai, lũ lụt xảy ra thương xuyên
trên các quốc gia. Tác động lớn và rõ rệt nhất là nhiệt độ tăng làm nước biển
dâng. Khí hậu nóng lên cũng làm tăng tác động tiêu cực đối với sức khỏe con
người. Thời tiết cực đoan làm gia tăng một số bất trắc đối với người già,
người mắc bệnh tim mạch, huyết áp, bệnh thần kinh. Nhiều bệnh truyền
nhiễm nguy hiểm vốn được coi là thịnh hành ở vùng nhiệt đới ẩm càng dễ lây
lan, như bệnh sốt rét, bệnh giun chỉ bạch huyết, viêm não Nhật Bản,… Nhiệt
độ tăng cũng dẫn đến tăng tốc độ sinh trưởng và phát triển nhiều loại vi khuẩn

và côn trùng vật chủ mang bệnh. Các loại bệnh nhiễm khuẩn dễ mắc phải,
21


như các bệnh thuộc đường tiêu hóa, hô hấp, hay các bệnh do vi - rút có xu thế
tăng cao cả về số lượng người nhiễm, cũng như tử vong.Một phần đáng kể
diện tích đất trồng trọt vùng châu thổ sông Cửu Long và sông Hồng sẽ bị
ngập.Hiện tượng sa mạc hóa đang rất đáng lo ngại. Các lượng mưa, vùng biến
đổi, số đợt không khí lạnh dang ược quan tâm trên báo chí do tình hình của nó
đang diễn biến phức tạp gây hâu quả hết sức nghiêm trọng là vấn đề cần khắc
phục ngay từ bây giờ. nhiều hiện tượng thay đổi bất thường khí hậu ở Việt
Nam đã được ghi nhận như nhiệt độ tăng, lượng mưa tăng và thất thường,
mực nước biển dâng, các đợt không khí lạnh giảm, số lượng bão có cường độ
mạnh lên. . Lượng mưa cũng ngày càng tăng lên (khoảng 12% -19%), lưu
lượng đỉnh lũ tăng lên đáng kể và chu kỳ tái diễn cũng giảm đi. Với đỉnh lũ
trước đây tương ứng chu kỳ tái diễn 100 năm thì nay còn 20 năm, thậm chí
còn 5 năm tức là tần suất xuất hiện lũ sẽ lớn hơn.
Cường độ mưa quá lớn cũng ảnh hướng đến điều tiết hồ chứa, gây lũ
lụt và đe dọa an toàn các vùng hạ lưu, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Hồng
và sông Cửu Long.Mưa nhiều trong bão càng gây thêm ngập úng. Mưa nhiều
có thể dẫn đến lũ quét, sạt lở đất, phá hủy các công trình đập và hệthống thủy
điện lớn, nhỏ. Lũ lụt cũng là nguyên nhân tiềm tàng phá hủy kết cấu hạ tầng
và hệ thống phân phối năng lượng.Nước biển dâng có thể còn làm cho hàng
loạt khu rừng ngập mặn bị chìm hẳn và có tác động xấu đến rừng tràm và
rừng trồng trên đất bị nhiễm phèn ở các tỉnh Nam Bộ. Sự phân bố ranh giới
các kiểu rừng nguyên sinh, cũng như rừng thứ sinh có thể chuyển dịch. Chẳng
hạn, rừng cây gỗ họ dầu sẽ mở rộng lên phía Bắc và lên các vùng đất cao hơn.
Chính những bài báo đó sẽ làm cho người dân nâng cao ý thức bảo vệ
môi trường. Các bài báo nói về biện pháp khắc phục cụ thể làm dân học tập
theo. Từ đó phần nào hạn chế những tá động xấu đến môi trường

IV. KẾT LUẬN

22


Nhận thức của công chúng về biến đổi khí hậu được xem như một
trong những chiến lược then chốt để dẫn đến chuyển biến của toàn xã hội sẵn
sàng cho những hành động ứng phó. Trong 1 cuộc khảo sát gần đây, người ta
thấy số lượng các bài báo vầ BĐKH do con người tạo ra tại các nước đang
phát triển ít hơn nhiều sơ với nước phát triển. Tại Mỹ hơn 1/3 số bài viết vế
vấn đề liên quan được xuất bản trong thời gian nghiên cứu, trong khi đó tại
Ấn Độ, Brazil và TQ con số không đến 8%. Các tờ báo của Brazil và Ấn Độ
và TQ chỉ đưa r a3 bài xã luận trong khi chỉ riêng tờ báo tạo tại Mỹ lại đưa
tới 13 bài xã luận. Qua khảo sát trên 3 tờ báo Thanh niên, Tiền Phong, Tuổi
tre thành phố hồ Chí minh ta thấy Chúng ta có thể trông đợi vào công nghệ,
chính sách, nhưng điều quan trọng hơn cả là cần phải có những thay đổi trong
lối sống và hành vi. Xây dựng một kênh truyền thông riêng nhằm cung cấp
thông tin đầy đủ nhất về các vấn đề biến đổi khí hậu nghiêm trọng là một giải
pháp đối với nước ta. . Qua khảo sát trên 3 tờ báo Thanh niên, Tiền Phong,
Tuổi tre thành phố hồ Chí minh ta thấy họ đang quan tâm đến vấn đê thực
trạng của biến đổi khí hậu. Truyền thông báo chí sẽ đóng vai trò quan trọng
để nâng cao nhận thức của công chúng cũng như tác động đến các nhà hoạch
định chính sách. Báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng như
truyền hình cũng cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong công tác tuyên
truyền về bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu. Các báo nên có
chuyên mục về riêng về các vấn đề môi trường liên quan đến biến đổi khí hậu,
trong khi truyền hình và phát thanh đã có các chuyên mục này. Các bản tin dự
báo cũng cần được đưa đến công chúng một cách nhanh chóng và chính xác
hơn. Ngoài ra, cũng cần xem xét việc đưa các vấn đề về biến đổi khí hậu vào
các chương trình giảng dạy để học sinh nắm bắt được những kiến thức cơ bản

từ đó có thái độ và hành động đúng với môi trường và tài nguyên thiên nhiên.
Các tờ báo nói chung và 3 tờ báo trên đây nói riêng cần có những bài
viết sâu sắc phân tích chung về thực trạng biến đổi khí hậu từ đó đưa ra những
nguyên nhân giải pháp cụ thể. Việc nghiên cứu về các bài viết về biến đổi khí
23


hậu trên báo in của nhóm tôi hi vọng sẽ góp phần thay đổi cách suy nghĩ của
người dân đến vấn đề biến đổi khí hậu. Đưa những biện pháp cụ thể như 1.
Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục làm chuyển biến một cách cơ bản
nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, chủ thể các thành phần kinh tế
và các tầng lớp nhân dân về chính sách phát triển bền vững đi đôi với bảo vệ
môi trường của Đảng và Nhà nước. Từng cán bộ, đảng viên, từng người dân,
mọi tổ chức và cá nhân phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường, coi việc bảo
vệ môi trường trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên và là đạo đức, nếp
sống văn hoá, trách nhiệm công dân.2. Xây dựng chương trình quốc gia về
bảo vệ môi trường và gấp rút triển khai thực hiện. Đưa vấn đề bảo vệ môi
trường vào trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển quốc gia, coi bảo
vệ môi trường là một ngành kinh tế, vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện để kinh
tế - xã hội phát triển bền vững. Ưu tiên tập trung xây dựng và triển khai kế
hoạch (hay chiến lược) ứng phó với tình trạng nước biển dâng cao ở khu vực
đồng bằng sông Cửu Long, sau đó là các huyện, xã duyên hải Bắc Bộ và miền
Trung; nâng độ che phủ của rừng, trả lại những gì vốn thuộc về thiên
nhiên.Đẩy nhanh tiến độ xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường, phòng
chống và khắc phục hậu quả thiên tai, huy động mọi nguồn lực của đất nước
vào nhiệm vụ khắc phục biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường.3. Rà soát lại
các dự án đầu tư, đưa mục tiêu bảo vệ môi trường trong đầu tư, sản xuất là
điều kiện bắt buộc tiên quyết trong phê duyệt các dự án đầu tư. Khắc phục tư
tưởng công nghiệp hóa bằng mọi giá, chạy theo lợi nhuận mù quáng, trải thảm
đỏ để tiếp nhận đầu tư một cách tràn lan, không tính đến hậu quả về môi

trường. Kiên quyết không chấp nhận những dự án gây ô nhiễm môi trường,
cho dù nó có đem lại siêu lợi nhuận. Ưu tiên các dự án thân thiện với môi
trường, phát triển công nghệ sạch. Tăng cường quản lý, bảo đảm khai thác tài
nguyên hợp lý và tiết kiệm, nhất là tài nguyên đất, nước, biển, rừng, khoáng
sản, đi đôi với phục hồi môi trường các khu khai thác tài nguyên, đảm bảo cân
bằng sinh thái.4- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, điều tra, xử lý
24


nghiêm trước pháp luật những hành vi hủy hoại môi trường và hành vi bao
che, dung túng cho những cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung pháp luật về bảo vệ môi trường, đặc biệt
là các chế tài xử lý hình sự còn đang bị bỏ trống, tạo hành lang pháp lý cho
hoạt động bảo vệ môi trường.5- Đẩy mạnh mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ
môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên, tranh thủ sự giúp đỡ của cộng
đồng quốc tế về vốn, khoa học - công nghệ.6- Quan tâm chăm lo xây dựng,
nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan chức năng quản lý, bảo vệ môi
trường và nghiên cứu dự báo các hiểm họa thiên tai, nhất là lực lượng thanh
tra môi trường, cảnh sát môi trường, kiểm lâm và dự báo khí hậu - thủy văn.
Nghiên cứu, xem xét khả năng tổ chức cơ quan phòng, chống, khắc phục
hiểm họa thiên tai và bảo vệ môi trường theo hướng tập trung, thống nhất,
một đầu mối trên cơ sở các lực lượng đang nằm rải rác ở các bộ, ngành hiện
nay
Các tờ báo qua phần khảo sát trên cần có những bài viết cụ thể về thực
trạng biến đổi khí hậu trên thế giới và việt nam. Các bài viết trên 1 tờ báo nên
khái quát, đấy đủ về các vấn đê biến đổi khí hậu không nên thiên về 1 vấm đề
biến đổi khí hậu nào như Báo Tiền phong nói về thực trạng biến đổi khí hậu ở
Việt nam thì có 26 bài về nhiệt độ và 1 bài về số đợt không khí lạnh. Phần
biên tập của tòa soạn nên chú ý đến việc đôn đốc phóng viên chú ý đến vấn dề
biến đổi khí hậu và quan tâm đến các hội thảo về vấn đề này.


25


×