Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 133 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHAN QUỐC VIỆT

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG
GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
Chuyên ngành: Luât hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 6038.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Đỗ Ngọc Quang

Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Phan Quốc Việt


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG


GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................ 10
1.1. Những khái niệm có liên quan đến quyền con người và bảo vệ quyền con người
trong TTHS .................................................................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm quyền con người ............................................................................... 10
1.1.2. Chuẩn mực quốc tế về bảo vệ quyền con người trong TTHS................................... 15
1.1.3. Nhận thức chung về bảo vệ quyền con người trong TTHS Việt Nam ......................... 22
1.2. Nhận thức chung về bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra
vụ án hình sự .................................................................................................................. 28
1.2.1. Nội dung bảo vệ quyền con người đối với người bị buộc tội, người tham gia tố
tụng khác trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự........................................... 31
1.2.2. Chủ thể bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
..................................................................................................................................... 38
1.3. Quá trình phát triển các quy định pháp luật TTHS Việt Nam liên quan bảo vệ
quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự ................................. 41
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1975 .............................................................................. 41
1.3.2. Giai đoạn từ 1976 đến trước khi có Bộ luật TTHS 2003 ................................... 42
1.4. Quy định của Bộ luật TTHS hiện hành về các biện pháp khởi tố, điều tra có
liên quan đến bảo vệ quyền con người ......................................................................... 46
1.4.1. Quy định của Bộ luật TTHS về quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể tiến
hành tố tụng trong giai đoạn khởi tố, điều tra có liên quan đến việc bảo vệ quyền con
người ............................................................................................................................ 46
1.4.2. Quy định của Bộ luật TTHS về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn liên quan đến
quyền con người ........................................................................................................... 50
1.4.3. Một số quy định của Bộ luật TTHS về áp dụng các biện pháp khởi tố, điều tra
có liên quan đến bảo vệ quyền con người .................................................................... 53
Chương 2: THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN
KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ ..................................... 59


2.1.1. Tình hình chung về khởi tố, điều tra tội phạm trên phạm vi toàn quốc từ năm

2010 đến năm 2014 ...................................................................................................... 59
2.1.2. Những tồn tại, vướng mắc trong hoạt động của CQĐT, VKS liên quan vấn đề
bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự .................... 62
2.1.3. Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng quyền con người chưa được bảo vệ tốt nhất
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự .............................................................. 71
2.2. Những kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người trong giai
đoạn khởi tố, điều tra .................................................................................................... 89
2.2.1. Những yêu cầu của cải cách tư pháp về bảo vệ quyền con người trong TTHS
nói chung và trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nói riêng ...................... 89
2.2.2. Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS về khởi tố, điều
tra vụ án hình sự .......................................................................................................... 92
2.2.3. Đề xuất, kiến nghị về nâng cao trình độ, năng lực của ĐTV, KSV ...................... 103
2.2.4. Đề xuất, kiến nghị về công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của
CQĐT, VKS, ĐTV, KSV trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự................ 106
2.2.5. Những đề xuất, kiến nghị khác......................................................................... 107
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 118
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 122


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CAND:

Công an nhân dân

CHXHCN:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CQTHTT:


Cơ quan tiến hành tố tụng

CQĐT:

Cơ quan điều tra

CQCSĐT:

Cơ quan Cảnh sát điều tra

ĐTV:

Điều tra viên

HĐXX:

Hội đồng xét xử

KSV:

Kiểm sát viên

NTHTT:

Người tiến hành tố tụng

NTGTT:

Người tham gia tố tụng


TA:

Tòa án

TAND:

Toà án nhân dân

TANDTC:

Toà án nhân dân tối cao

TT:

Thủ trưởng

TTHS:

Tố tụng hình sự

PTT:

Phó thủ trưởng

PVT:

Phó viện trưởng

VKS:


Viện Kiểm sát

VKSND:

Viện Kiểm sát nhân dân

VKSNDTC:

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

VT:

Viện trưởng

QĐND:

Quân đội nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là một giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm, hiện hữu
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc xác lập, bảo đảm, bảo vệ quyền
con người là mục tiêu, động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội, cũng
là cơ sở chính trị - xã hội đặc biệt quan trọng, quyết định việc lựa chọn thể chế
chính trị, hoạch định đường lối, chính sách xã hội, xây dựng pháp luật. Thừa
nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người là một trong những mục tiêu
chính trị cao nhất của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Điều 14 Hiến pháp 2013
khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công

nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” [42. tr 8].
Quyền con người khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự
(TTHS) nói chung, trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nói riêng
là biểu hiện (dạng) cụ thể của quyền con người trong quan hệ xã hội - pháp
lý TTHS, được ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và đảm bảo thực hiện
trên thực tế.
Khởi tố, điều tra vụ án hình sự là một trong những giai đoạn cơ bản của
quá trình TTHS, luôn thể hiện đậm nét quyền lực, sức mạnh cưỡng chế nhà
nước, sự đối kháng mạnh mẽ về quyền, lợi ích giữa những người tham gia tố
tụng (NTGTT), giữa những NTGTT với Nhà nước mà đại diện là Cơ quan
điều tra (CQĐT), Viện Kiểm sát (VKS); đối kháng và thiếu quân bình về thế
và lực giữa cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) là CQĐT và VKS, người
tiến hành tố tụng (NTHTT) là Điều tra viên (ĐTV), Kiểm sát viên (KSV) với

1


người bị buộc tội, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, người bị tạm giam
trong quá trình tham gia quan hệ TTHS.
Hoạt động TTHS trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự với bản
chất là hoạt động thực thi pháp luật, đấu tranh chống tội phạm, trong nhiều
trường hợp được phép hoặc buộc phải áp dụng những biện pháp cưỡng chế
nhà nước nghiêm khắc nhất - cưỡng chế hình sự, hạn chế, làm tiền đề cho
việc hạn chế, tước đoạt những quyền cơ bản, quan trọng nhất của con người:
quyền sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân, quyền bảo
mật thông tin cá nhân, quyền sở hữu… Chính vì vậy, hoạt động TTHS trong
giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, ở bất kỳ thể chế chính trị nào, trong

mọi quốc gia đều liên quan chặt chẽ đến vấn đề quyền con người và bảo vệ
quyền con người. So với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, quyền con
người của người tham gia quan hệ TTHS nói chung, trong giai đoạn khởi tố,
điều tra nói riêng dễ bị xâm hại hơn nhưng lại khó bị phát hiện, ngăn chặn
hơn. Hậu quả của việc xâm hại quyền con người trong quan hệ TTHS nói
chung, giai đoạn khởi tố, điều tra nói riêng bao giờ cũng nghiêm trọng, nặng
nề hơn, khó khắc phục hơn trong các lĩnh vực khác.
Tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh pháp chế xã hội chủ nghĩa là
nguyên tắc chung của các ngành luật. Trong lĩnh vực TTHS, hoạt động khởi
tố, điều tra giữ vai trò quan trọng trong toàn bộ hành trình đi tìm sự thật khách
quan của vụ án. Thực tiễn đã chỉ ra rằng “những kết quả khả quan cũng như
những sai lầm tư pháp nghiêm trọng nhất bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô
tội… thường bắt nguồn từ giai đoạn điều tra. Giai đoạn điều tra nhận đảm
đương công việc thực chất về điều tra sự thật phạm tội. Thành công hay thất
bại của việc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở một mức độ nào đó là do việc
điều tra quyết định. Chỉ có qua điều tra mới có thể biết rõ tình hình vụ án, xác
định có tội phạm hay không” [30, tr.45]. Nhiệm vụ chính của giai đoạn khởi

2


tố, điều tra là phát hiện, thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh dấu hiệu tội
phạm, căn cứ xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể, hậu
quả thiệt hại, nội dung, diễn biến vụ án hình sự, các tình tiết khác có ý nghĩa
đối với việc giải quyết vụ án, làm cơ sở cho hoạt động truy tố, xét xử. Một
trong những yêu cầu mang tính hiến định, có ý nghĩa như nguyên tắc cơ bản
của hoạt động TTHS trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là bảo vệ
quyền con người trong quá trình thực hiện thủ tục, biện pháp, hoạt động khởi
tố, điều tra và kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra.
Thực tiễn TTHS những năm qua ở Việt Nam cho thấy, trong giai đoạn

khởi tố, điều tra các vụ án hình sự còn diễn ra những hoạt động, hành vi tố
tụng của CQTHTT, NTHTT xâm phạm quyền con người, tạo tiền đề cho việc
xâm phạm quyền tự do, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công
dân trong giai đoạn tố tụng sau này (truy tố, xét xử, thi hành án) như vụ án
ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang bị kết án oan, phải chịu 10 năm tù về
tội phạm Giết người, Cướp tài sản, ông Huỳnh Văn Nén bị kết án oan, phải
chịu 17 năm tù trong “Kỳ án vườn điều” về tội phạm Giết người, Cướp tài
sản... Đây là những bài học đắt giá trong lịch sử tư pháp của nước ta.
Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng quyền con người chưa
được bảo vệ tốt nhất trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự gồm: công
tác xây dựng, ban hành, nhận thức, thực thi, áp dụng quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự (Bộ luật TTHS) về bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi
tố, điều tra vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bất cập, sai phạm chậm được phát
hiện, đánh giá, phân tích, điều chỉnh, khắc phục một cách triệt để. Các quy
định về chế độ trách nhiệm của Nhà nước, CQTHTT, NTHTT đối với hậu quả
pháp lý - xã hội do hành vi, hoạt động TTHS xâm phạm quyền con người
chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực thực tế thấp, trình tự, thủ tục tiếp nhận, xử lý,
giải quyết, khắc phục hậu quả còn rườm rà, mang tính hình thức... Nhận thức,

3


thái độ của một bộ phận không nhỏ NTHTT về vấn đề bảo vệ quyền con
người, tính chất, ý nghĩa, hậu quả của hành vi xâm phạm quyền con người,
việc thực hiện trách nhiệm bồi thường, khắc phục hậu quả của cơ quan, cá
nhân có hành vi xâm hại quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra
chưa đúng đắn, đầy đủ, nghiêm túc, thiếu tích cực.
Bảo vệ quyền con người là mục tiêu tối thượng của mọi hoạt động xây
dựng, áp dụng, thực thi pháp luật. Việc thực thi, áp dụng các quy định pháp
luật TTHS về khởi tố, điều tra để bảo vệ quyền con người là yêu cầu bắt buộc

đồng thời là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác áp
dụng pháp luật TTHS, đảm bảo hiệu lực pháp luật, củng cố, hoàn thiện hệ
thống pháp luật, đội ngũ cán bộ tư pháp hình sự... Nghiên cứu vấn đề bảo vệ
quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự có vai trò rất
quan trọng đối với việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, từng
bước nâng cao tính nhân văn, nhân đạo của chế độ, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi công cuộc cải cách tư pháp nói
chung, hạn chế, triệt tiêu tình trạng xâm phạm quyền con người, không để xảy
ra oan, sai trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nói riêng. Vì vậy tác
giả lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra
vụ án hình sự” làm luận văn thạc sĩ luâ ̣t ho ̣c.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, bảo vệ quyền con người nói chung và bảo vệ quyền con
người trong hoạt động tư pháp nói riêng là vấn đề đã được Đảng, Nhà nước
cùng các nhà khoa học xã hội hết sức quan tâm nghiên cứu, nhất là trong thời
kỳ đổi mới. Có thể chia các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này thành các
nhóm chính sau đây:
Công trình nghiên cứu là sách giáo trình, sách chuyên khảo gồm có:
“Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người” của tập thể tác giả

4


GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, T.S Vũ Công Giao, ThS. Lã Khánh Tùng (đồng
chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2001; "Giáo trình
Luật tố tụng hình sự Việt Nam" của tác giả Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên), Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013; “Tìm hiểu vấn đề nhân quyền
trong thế giới hiện đại” do TS. Chu Hồng Thanh chủ biên, Nhà xuất bản Lao
động, Hà Nội, 1996; “Cơ quan điều tra, Thủ trưởng cơ quan điều tra và điều
tra viên trong Công an nhân dân” của tác giả Đỗ Ngọc Quang, Nhà xuất bản

Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2000; “Nhà nước và pháp luật triều Hậu Lê
với việc bảo vệ quyền con người” của tác giả Nguyễn Minh Tuấn và Mai Văn
Thắng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; “Bình luận và khuyến
nghị chung của các ủy ban công ước thuộc Liên hợp quốc về quyền con
người”, Viện nghiên cứu quyền con người (2008), Nhà xuất bản Công an
nhân dân, Hà Nội.
Công trình nghiên cứu là đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án.
Tiêu biểu: "Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật
tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam"
của GS.TSKH Lê Cảm, TS Nguyễn Ngọc Chí, GS.TS Trịnh Quốc Toản (đồng
chủ trì), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia, Hà Nội, năm
2005; Báo cáo tổng thuật Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.07-16 nghiên
cứu về “Các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong sự
nghiệp đổi mới đất nước” do GS.TS Hoàng Văn Hảo chủ nhiệm; “Quyền con
người trong lĩnh vực tư pháp hình sự: Lý luận, thực trạng và hướng hoàn thiện
pháp luật” do GS.TSKH. Lê Văn Cảm (chủ trì), Hà Nội, 2013; Luận án tiến sĩ
luật học “Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện
nay” của tác giả Nguyễn Huy Hoàn, bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, năm 2004; “Bảo vệ quyền con người trong TTHS Việt Nam” của tác

5


giả Nguyễn Quang Hiền, Luận án tiến sỹ luật học Viện nhà nước và pháp luật,
Hà Nội, năm 2008.
Công trình nghiên cứu là bài viết đăng trên tạp chí: “Bảo vệ quyền con
người bằng pháp luật tố tụng hình sự” của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, Tạp
chí Khoa học, chuyên san Luật học, số 23(2)/2009; "Bảo vệ quyền con người
bằng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra thông
qua thẩm quyền điều tra" của ThS. Trần Thu Hạnh, Đại học Quốc gia Hà Nội,

năm 2012; “Những vấn đề pháp lý cơ bản về Luật hình sự quốc tế và việc bảo
vệ quyền con người” của tác giả Trịnh Tiến Việt, Tạp chí TAND kỳ II tháng
5/2009 (số10); “Chuẩn mực quốc tế về bảo đảm quyền con người trong hoạt
động tố tụng hình sự”, Tường Duy Kiên, Tạp chí Nghề Luật số 5/2006.
Mặc dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực quyền
con người, nhưng nhìn chung, những công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu
đề cập đến một số vấn đề lý luận chung về quyền con người, từng lĩnh vực
hoạt động cụ thể về quyền con người, về tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước, về việc xây dựng pháp luật liên quan vấn đề bảo đảm quyền con
người nói chung, đề cập một số khía cạnh cụ thể về quyền con người trong
hoạt động tư pháp. Một số công trình khác nghiên cứu về vấn đề quyền con
người trong phạm vi một số chủ thể tham gia tố tụng cụ thể nhưng mở rộng
trong toàn bộ quá trình tố tụng. Vấn đề bảo vệ quyền con người trong giai
đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam chưa được nghiên cứu
một cách toàn diện và trực tiếp về cả lý luận và thực tiễn. Các công trình nêu
trên là những tài liệu tham khảo quan trọng đối với tác giả trong quá trình
thực hiện Luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
Làm rõ những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người trong giai
đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam, đồng thời nghiên cứu

6


thực trạng quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về
bảo vệ quyền con người, làm sáng tỏ những bất cập, hạn chế để đưa ra những
kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người trong giai
đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về quyền con người và bảo vệ quyền

con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự.
- Phân tích các quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 liên quan đến
bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự;
tìm ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của hạn chế, bất cập trong
thực tiễn thi hành.
- Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS và những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi
tố, điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận quyền con người và việc bảo vệ
quyền con người của người bị tình nghi phạm tội – người bị buộc tội (người
bị bắt, người bị tạm giữ, bị can) và người bị hại, người làm chứng, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan đến vụ án… trong
giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam. Phân tích, đánh giá
các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS để
đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con
người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn: trong khuôn khổ nghiên cứu đề tài,
Luận văn này chỉ đề cập đến bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự từ 2010 đến 2014.

7


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh
và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về bảo vệ quyền con người. Việc nghiên
cứu được thực hiện từ góc độ lý luận về quyền con người nói chung và từ góc

độ TTHS nói riêng.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng
hợp, so sánh, thống kê, khảo sát… Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã
nghiên cứu hồ sơ một số vụ án cụ thể để có cơ sở thực tiễn.
6. Những điểm mới về mặt khoa học
Đề tài là một trong những công trình nghiên cứu có tính hệ thống về lý
luận và thực tiễn bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các
vụ án hình sự ở Việt Nam và có những điểm nổi bật như sau:
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, đặc điểm và nội dung của quyền con
người được bảo vệ trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam.
- Xác định rõ vai trò, trách nhiệm của CQĐT, VKS trong việc bảo vệ
quyền con người.
- Nhận diện vi phạm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra
các vụ án hình sự, đánh giá thực trạng bảo vệ quyền con người trong giai
đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người trong
giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự.
7. Kết cấu Luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Danh mục từ ngữ viết tắt, Danh mục
tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 2 chương:

8


- Chương 1. Những vấn đề chung về bảo vệ quyền con người trong giai
đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
- Chương 2. Thực tiễn bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự và những đề xuất, kiến nghị.

9



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Những khái niệm có liên quan đến quyền con người và bảo vệ quyền
con người trong TTHS
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Con người là sản phẩm của quá trình chọn lọc, phát triển tự nhiên, xã
hội. Con người và các quyền con người về tự nhiên, xã hội luôn được mỗi cá
nhân, quốc gia, cộng đồng quốc tế quan tâm nghiên cứu, thừa nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm thực hiện.
Những ý niệm về quyền con người xuất hiện từ thời tiền sử, được phát
triển lên thành tư tưởng về quyền con người trong nền văn minh Lưỡng Hà
rực rỡ ở Trung Đông (khoảng năm 3.000 - 1.500 trước Công nguyên - TCN)
với Bộ luật Hammurabi (khoảng năm 1780 TCN) mà tinh thần chủ đạo là:
“… ngăn ngừa những kẻ mạnh áp bức kẻ yếu…”, làm cho người cô quả có
nơi nương tựa, đem lại hạnh phúc chân chính và đặt “nền thống trị nhân từ”
cho mọi thần dân trên vương quốc Babylon. Nhiều văn bản pháp luật cổ khác,
tiêu biểu như Bộ luật của vua Cyrus Đại đế ban hành vào khoảng các năm 576
- 529 TCN; Bộ luật do nhà vua Ashoka (Ashoka’s Edicts) ban hành vào
khoảng các năm 272 - 231; Hiến pháp Medina (The Constitution of Medina)
do nhà tiên tri Muhammad sáng lập vào năm 622; Đại Hiến chương Magna
Carta (1215) và Bộ luật về quyền (1689) của nước Anh; Tuyên ngôn về các
quyền của con người và của công dân (1789) của nước Pháp; Tuyên ngôn độc
lập (1776) và Bộ luật về các quyền (1789) của nước Mỹ, Bộ luật Hồng Đức
(Quốc triều Hình luật (1470 - 1497) thời Hậu Lê của Việt Nam… chứa đựng
những quy định có tính nhân văn sâu sắc về quyền con người. Trong đó bao
gồm cả các quy định cụ thể về quyền của phụ nữ, trẻ em, v.v.. Cùng với sự


10


phát triển của xã hội, các tư tưởng, quan điểm về quyền con người ngày càng
hoàn thiện về mặt lý luận và mang tính thực tiễn cao hơn.
Có rất nhiều định nghĩa về quyền con người, mỗi định nghĩa phản ánh
một khía cạnh khác nhau, xuất phát từ các góc nhìn khác nhau về vấn đề
quyền con người. Tuy nhiên, tổng hợp lại có thể chia thành ba nhóm quan
niệm chủ yếu về quyền con người.
Quan niệm thứ nhất: bắt nguồn từ chỗ coi con người là một thực thể tự
nhiên, nên quyền con người phải là quyền "bẩm sinh", là "đặc quyền", nghĩa
là quyền con người, quyền lợi của con người với tư cách là người, gắn liền
với cá nhân con người, không thể tách rời. Quan điểm này được các đại biểu
tư tưởng của giai cấp tư sản ở Thế kỷ XVII, XVIII như Crotius, Hobbes,
Kant, Locke, Spinoza, Rousseau hoàn thiện và nêu ra trong học thuyết về
pháp luật tự nhiên. Trường phái này cho rằng, quyền tự nhiên, pháp luật tự
nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà nước. Xuất phát từ quan điểm này,
Jacques Mourgon (Giáo sư Đại học khoa học xã hội Toulouse) đưa ra định
nghĩa: "Quyền con người là những đặc quyền được các quy tắc điều khiển mà
con người giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình với các cá nhân và với
chính quyền" [10, tr.12]. Định nghĩa này chủ yếu đề cập đến quyền con người
ở khía cạnh tự nhiên của nó.
Quan niệm thứ hai cho rằng: con người chỉ là một thực thể xã hội, nên
quyền của con người chỉ được xác định trong mối tương quan với các thực thể
xã hội khác và vì là quan hệ xã hội nên quyền con người được chế độ nhà
nước, pháp luật điều chỉnh bảo vệ. Quan niệm này có tính tích cực khi coi
quyền con người là một khái niệm có tính lịch sử, đặt con người trong tổng
hòa các mối quan hệ xã hội. Vì con người là thực thể của xã hội, có mối quan
hệ phổ biến với xã hội nên quyền con người cũng luôn gắn liền với đấu tranh
giai cấp, đấu tranh chống áp bức bóc lột, đấu tranh chống bạo lực, chống bất


11


công trong xã hội. Cơ sở của quyền con người ở đây chính là trình độ phát
triển của nền kinh tế, văn hóa, xã hội và do chế độ kinh tế, chế độ xã hội
quyết định.
Quan niệm thứ ba: quan niệm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề
quyền con người. Xuất phát từ quan niệm coi con người vừa là sản phẩm tự
nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội, Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng quyền
con người: "Về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội" [28, tr.12].
Xét về mặt tự nhiên, C.Mác cho rằng, con người là "động vật xã hội" [16,
tr.155], có khả năng "tái sinh ra con người", con người là động vật cao cấp
nhất trong quá trình tiến hóa. Do đó, về mặt này, quyền con người trước hết là
một thuộc tính tự nhiên. Quyền con người không phải là một "tặng vật", do
giai cấp thống trị ban phát thông qua nhà nước mà quyền con người trong
hình thức lịch sử tự nhiên của nó mang bản chất tự nhiên, được thể hiện ở
quyền được sống, quyền tự do, quyền được sáng tạo, phát triển, quyền được
đối xử như con người, xứng đáng với con người. Xét về mặt xã hội, con
người mặc dù là động vật cao cấp nhất của tự nhiên, nhưng ngay khi tiến hóa
trở thành động vật cao cấp, con người đã sống thành bầy đàn và trở thành sản
phẩm của lịch sử xã hội. Trong Luận cương thứ VI về Phoi-ơ-bắc, C.Mác cho
rằng: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội" [28, tr.21]. Do đó xét về khía cạnh xã hội, thì "quyền con
người, ngay từ khi có xã hội loài người, bên cạnh bản tính tự nhiên còn in
đậm bản tính xã hội" [24, tr.13]. Theo C.Mác: "Quyền con người là những
đặc quyền chỉ có ở con người mới có, với tư cách là con người, là thành viên
xã hội loài người" [24, tr.14].
Khi xã hội hình thành giai cấp, hình thành nhà nước đã tạo ra những
chuyển biến có tính "bước ngoặt" trong sự biến đổi mối quan hệ tương quan

giữa bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của quyền con người. Đi kèm xã hội

12


có giai cấp là mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Do đó, trong điều kiện
xã hội có giai cấp thì bản tính xã hội trở thành bản tính giai cấp. Và ngay cả
bản tính tự nhiên, những giá trị phổ biến của quyền con người cũng tất yếu
chịu sự chi phối của giai cấp thống trị xã hội. Mặt khác, quyền con người, kể
cả quyền tự nhiên, bẩm sinh còn bị ràng buộc, chi phối vào khả năng và trình
độ khám phá, chinh phục tự nhiên của chính con người, nghĩa là phụ thuộc
vào khả năng hoàn thiện, phát triển của con người, sự phát triển của lực lượng
sản xuất, trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Con người càng có khả năng chế
ngự, chinh phục thiên nhiên bao nhiêu thì tự do, quyền con người ngày càng
được mở rộng, ngày càng được đảm bảo bấy nhiêu.
Quyền con người không phải chỉ là phép cộng đơn giản giữa quyền tự
nhiên và quyền xã hội nêu trên. Bản chất hai mặt tự nhiên và xã hội của quyền
con người có những thuộc tính phức tạp và luôn là sự thống nhất giữa hai mặt
đối lập. Để đưa ra khái niệm đúng đắn về quyền con người phải giải quyết
được các quan hệ giữa cá nhân với xã hội; giữa tính nhân loại với tính giai
cấp; giữa các giá trị đạo đức với pháp luật và quyền lực; giữa quan hệ quốc tế
với lợi ích quốc gia; giữa nhu cầu và năng lực cùng với những nỗ lực chủ
quan của mỗi cá nhân, cộng đồng người. Chủ nghĩa Mác về quyền con người
đã khẳng định cơ sở tự nhiên và giá trị nhân loại của quyền, đồng thời cũng
thừa nhận thuộc tính xã hội - chính trị và lịch sử cụ thể của quyền con người
thuộc một quốc gia, một dân tộc [28, tr.12-25]. Theo đó, quyền con người có
các thuộc tính sau:
Quyền con người là những giá trị nhân bản, gắn với mỗi con người, vừa
với tư cách là cá nhân, vừa với tư cách là thành viên xã hội. Vì vậy, nó vừa
mang thuộc tính cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng.

Quyền con người vừa là thuộc tính tự nhiên của con người, vừa là những giá
trị sản sinh trong đời sống cộng đồng, gắn liền với một nhà nước cụ thể.

13


Thông qua việc quy định quyền con người, pháp luật ghi nhận, phản ánh các
nhu cầu về quyền con người và khả năng khách quan về nhận thức, bảo vệ,
bảo đảm thực hiện quyền con người phù hợp với chế độ chính trị, kinh tế, lịch
sử, dân trí cụ thể… Chỉ có thông qua pháp luật thì các giá trị của con người
với tư cách là giá trị của chủ thể tự nhiên và xã hội mới trở thành quyền được
xác định, được hiện thực hoá.
Ở Việt Nam, đã có nhiều học giả nghiên cứu về quyền con người và
vấn đề bảo vệ quyền con người, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều
định nghĩa khác nhau về quyền con người và bảo vệ quyền con người. Học
giả Nguyễn Quang Hiền cho rằng: "Quyền con người là các khả năng của con
người được đảm bảo bằng pháp luật về sử dụng và chi phối các phúc lợi xã
hội, các giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng quyền tự do trong xã
hội trong phạm vi luật định và quyền quyết định các hoạt động của mình và
của người khác trên cơ sở pháp luật" [37, tr.34]. Có một định nghĩa đang
được sử dụng phổ biến trong giảng dạy, nghiên cứu về nhân quyền ở nước ta
hiện nay: "Nhân quyền (hay quyền con người) là những năng lực và nhu cầu
vốn có và chỉ có ở con người, với tư cách là thành viên cộng đồng nhân loại,
được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế"
[37, tr.10].
Có thể thấy, mặc dù cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều cách nhìn nhận
khác nhau về quyền con người, nhưng rõ ràng quyền con người là những giá
trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và mọi giai đoạn lịch
sử. Trong thời đại ngày nay, quyền con người không thể tách khỏi hòa bình,
dân chủ và phát triển.

Như vậy, từ những phân tích nêu trên, chúng ta có thể hiểu: Quyền con
người là các khả năng của con người được bảo đảm bằng pháp luật về các giá
trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng quyền tự do trong phạm vi luật định

14


và quyền quyết định các hoạt động của mình và của người khác dựa trên cơ sở
pháp luật.
1.1.2. Chuẩn mực quốc tế về bảo vệ quyền con người trong TTHS.
Hoạt động TTHS là hoạt động của các quan chức thi hành pháp luật.
Theo quy định của "Quy ước đạo đức của quan chức thi hành pháp luật" được
Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 17/12/1979, thuật ngữ "quan
chức thi hành pháp luật" gồm tất cả những viên chức pháp luật được bổ nhiệm
hay bầu ra, thực hiện các thẩm quyền của cảnh sát, đặc biệt các thẩm quyền
bắt hay giam giữ. Theo Bộ luật TTHS Việt Nam, hoạt động TTHS là hoạt
động của CQTHTT bao gồm: CQĐT; VKS; TA; và NTHTT bao gồm: TT,
PTT CQĐT, ĐTV, VT, PVT VKS, KSV, CA, HT, TKTA. Mục đích hoạt
động TTHS của CQTHTT và NTHTT là nhằm ngăn ngừa, phát hiện, và xử lý
hành vi phạm tội, đảm bảo mọi tội phạm được phát hiện kịp thời, không để lọt
tội phạm và không xử lý oan người vô tội. Tính chất hoạt động của các chủ
thể này là hoạt động nhân danh nhà nước và mang quyền lực nhà nước. Trong
khi đó, quyền con người trong TTHS là quyền pháp lý của cá nhân, công dân
khi tham gia quan hệ TTHS, được cụ thể hóa thành các quyền của chủ thể
tham gia tố tụng. Nói cách khác, bằng việc quy định về quyền của các chủ thể
tham gia quan hệ TTHS, Nhà nước trao cho các chủ thể này những quyền
pháp lý nhất định, thường được quy định trong Hiến pháp và luật, là hình thức
đặc biệt của quyền con người trong môi trường, hoàn cảnh pháp lý TTHS và
các quyền là công cụ tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp, tránh nguy cơ xâm phạm trái pháp luật từ phía CQTHTT,

NTHTT và các chủ thể tham gia tố tụng khác.
Pháp luật quốc tế về quyền con người có những chuẩn mực tối thiểu
đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong TTHS, được áp
dụng trong phạm vi toàn cầu, không phân biệt hệ thống chính trị, trình độ phát

15


triển kinh tế, xã hội. Hệ thống các chuẩn mực tối thiểu về quyền con người
trong TTHS được quy định trong nhiều văn kiện quốc tế, đáng chú ý nhất là
Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền
dân sự, chính trị năm 1966; Những nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù
nhân; Công ước chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con người năm
1985 và một loạt các chuẩn mực tối thiểu khác về vai trò của luật sư, các quan
chức thực thi pháp luật, cơ quan công tố; về tính độc lập của cơ quan tư
pháp.vv.. Các quy định trong các văn kiện này tạo thành hệ thống các chuẩn
mực tối thiểu về quy tắc ứng xử của CQTHTT và NTHTT trong hoạt động
thực thi pháp luật cũng như đảm bảo cho các chủ thể tham gia tố tụng có các
quyền pháp lý nhất định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, giảm thiểu
nguy cơ xâm hại từ CQTHTT, NTHTT cũng như các chủ thể tham gia tố tụng
khác. Các chuẩn mực pháp lý tối thiểu đảm bảo quyền con người trong hoạt
động tố tụng được quy định trong các văn bản pháp lý quốc tế đều dựa trên
các nguyên tắc có tính chất nền tảng, xuyên suốt quá trình tố tụng như:
nguyên tắc suy đoán vô tội; nguyên tắc không phân biệt đối xử; nguyên tắc
bình đẳng; không bị tra tấn, nhục hình; nguyên tắc đối xử nhân đạo và tôn
trọng nhân phẩm con người...
Trong đó, các quyền con người của bị can, bị cáo, do đang ở vào tình
thế bất lợi vì có hành vi vi phạm pháp luật hình sự hoặc đang bị buộc tội là
đối tượng được pháp luật hình sự đặc biệt quan tâm, bảo vệ. Do tính chất hoạt
động của CQTHTT, NTHTT trong TTHS nói chung, trong giai đoạn khởi tố,

điều tra nói riêng là nhân danh nhà nước và mang quyền lực nhà nước. Quan
hệ giữa các chủ thể tiến hành tố tụng với bị can, bị cáo là quan hệ bất bình
đẳng. Vì vậy, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, giảm
thiểu nguy cơ xâm hại quyền con người của các chủ thể này là mối quan tâm
hàng đầu của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền con người trong hoạt động

16


TTHS. Trong quá trình tố tụng, những người bị tình nghi phạm tội có thể bị
áp dụng biện pháp cưỡng chế hình sự như bắt, tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên
cho đến khi đã bị xét xử và bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật, dù có đủ
chứng cứ để chứng minh họ phạm tội hay chưa, thì người bị tình nghi phạm
tội vẫn không thể bị coi là có tội. Theo chuẩn mực quốc tế, người bị tình nghi
phạm tội có các quyền pháp lý sau đây:
Trước hết đó là: quyền được coi là vô tội và phải được đối xử như là
người vô tội. Đây là quyền pháp lý rất quan trọng, xuyên suốt quá trình tố
tụng từ khi phát hiện tội phạm, khởi tố đến khi đã xét xử và bản án có hiệu lực
pháp luật. Nhận thức đầy đủ quyền này có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo
vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng. Người bị tình nghi phải được đối
xử thích hợp theo Nguyên tắc 8, Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả
những người bị giam hay tù dưới bất kỳ hình thức nào được Đại hội đồng
Liên hợp quốc thông qua ngày 9/12/1988 theo Nghị quyết số 43/173: Những
người đang bị giam phải được đối xử đúng với địa vị chưa bị kết án của họ.
Do vậy bất cứ khi nào có thể, họ phải được tách riêng khỏi những người đang
bị tù. Trong giai đoạn này, các quy định quốc tế đều khẳng định phải tránh áp
dụng biện pháp giam, giữ. Các biện pháp này chỉ được áp dụng khi không thể
áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn. Và theo Quy tắc tiêu
chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân quy định những tù nhân chưa xét xử
phải được hưởng chế độ đặc biệt mà những yêu cầu căn bản của nó được thể

hiện trong các nguyên tắc sau đây:
Chuẩn mực quốc tế bảo đảm quyền con người tại giai đoạn chưa xét xử
- Những tù nhân bị bắt giữ hay đang chờ xét xử phải được giam giữ
riêng (không giữ, giam cùng tù nhân đã tuyên án).

17


- Những tù nhân trẻ tuổi chưa xét xử phải được giam giữ riêng (không
chung với những người lớn tuổi) và về nguyên tắc phải được giam giữ trong
những nhà tù riêng (nhà tù giam giữ người chưa thành niên).
- Những tù nhân chưa xét xử phải được ngủ một mình trong những
buồng riêng, có chú ý đến phong tục địa phương, phong tục, tập quán của họ.
- Và trong chừng mực có thể, nếu muốn, người bị giữ, giam được mua
thức ăn từ bên ngoài bằng tiền của họ, hoặc nhờ ban quản lý nhà tù hoặc qua
gia đình hay bạn bè của họ. Nếu không thì ban quản lý nhà tù phải cung cấp
thức ăn cho họ.
- Tù nhân chưa xét xử phải được phép mặc quần áo của mình nếu nó
sạch và phù hợp; nếu tù nhân đó mặc quần áo tù, thì nó phải khác với quần áo
cấp cho những tù nhân đã tuyên án.
- Tù nhân chưa xét xử phải luôn được tạo cơ hội việc làm, nhưng không
bị yêu cầu làm việc. Nếu tù nhân đó lựa chọn làm việc thì người đó phải được
trả công.
- Tù nhân chưa xét xử được phép tìm kiếm, mua những thứ như sách
báo, tài liệu viết và những phương tiện nghề nghiệp khác phù hợp với lợi ích
của việc quản lý tư pháp và an ninh, với trật tự của nhà tù, bằng tiền của tù
nhân đó hay của một bên thứ ba.
- Tù nhân chưa xét xử được phép cho bác sĩ hay nha sĩ riêng của tù
nhân đó khám và điều trị nếu đề nghị của người đó là chính đáng và nếu
người đó có khả năng chi trả những khoản chi phí phát sinh.

- Tù nhân chưa xét xử được phép thông báo ngay cho gia đình tù nhân
đó về việc bắt giữ và phải có điều kiện hợp lý để giao tiếp với gia đình, bạn bè
người đó, được tiếp những cuộc tới thăm của họ và chỉ chịu sự hạn chế, giám
sát nếu cần thiết, vì lợi ích của sự quản lý tư pháp và an ninh, để bảo đảm tốt
trật tự của nhà tù.

18


- Tù nhân chưa xét xử được quyền có luật sư bào chữa và được thường
xuyên tiếp xúc với luật sư của mình; được phép tiếp đón các luật sư của mình.
Cảnh sát và các cán bộ nhân viên nhà tù có thể quan sát, chứ không được
nghe những trao đổi giữa tù nhân đó với luật sư.
Chuẩn mực quốc tế bảo đảm quyền con người tại giai đoạn xét xử:
Tại giai đoạn xét xử, các quy định quốc tế về quyền con người trong
quản lý tư pháp đề cao tính độc lập của toà án. Nguyên tắc độc lập xét xử của
TA cho phép và yêu cầu toà án bảo đảm các thủ tục xét xử phải được tiến hành
một cách đúng đắn và tôn trọng quyền con người trong hoạt động xét xử.
Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 quy
định: tất cả mọi người đều bình đẳng trước TA; có quyền được xét xử công bằng
và công khai do một toà án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập
ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về bất kỳ lời buộc tội hình sự nào, hoặc
quyền và nghĩa vụ của người đó trong một vụ kiện trước pháp luật [5].
Ở giai đoạn này, người bị đưa ra xét xử trước toà án vẫn có quyền được
coi là vô tội cho tới khi tội của họ được chứng minh theo pháp luật. Việc
quyết định về một tội hình sự, mọi người đều có quyền được có một cách
hoàn toàn bình đẳng – những bảo đảm pháp lý tối thiểu sau đây:
- Được thông báo không chậm chễ và chi tiết, bằng một ngôn ngữ mà
người đó hiểu, bản chất và lý do buộc tội mình; được thông báo về tội danh,
tức được biết mình bị xét xử về tội gì.

- Quyền được có mặt khi xét xử và được tự bào chữa hoặc nhờ sự giúp
đỡ về pháp lý do mình lựa chọn; nếu chưa có sự giúp đỡ về mặt pháp lý thì
phải được thông báo về quyền này; trong trường hợp do lợi ích của công lý
đòi hỏi, phải bố trí người đó một sự giúp đỡ về mặt pháp lý mà không phải trả
tiền nếu người đó không có đủ điều kiện trả.

19


- Được thẩm vấn hoặc nhờ người thẩm vấn những nhân chứng buộc tội
mình và được mời người làm chứng, người đại diện cho mình tới phiên toà và
thẩm vấn tại toà với những điều kiện giống như đối với những người làm
chứng buộc tội mình.
- Được giúp đỡ về phiên dịch không phải trả tiền nếu người đó không
hiểu hoặc không nói được ngôn ngữ sử dụng trong phiên toà.
- Không bị ép buộc phải chứng minh chống lại chính mình hoặc buộc
tự thú là mình có tội.
- Xét xử người chưa thành niên phải theo thủ tục đặc biệt có tính tới độ
tuổi của các em.
- Khi bị kết án là phạm tội, có quyền yêu cầu toà án cấp cao hơn xem
xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo pháp luật.
- Được bồi thường thiệt hại nếu có sự nhầm lẫn tư pháp, trừ trường hợp
được chứng minh rằng việc không kịp thời làm sáng tỏ sự thật một phần hoặc
toàn bộ vụ án do chính bản thân người bị kết án gây ra.
- Không bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một
hành vi phạm tội mà một bản án đã tuyên, đã có hiệu lực pháp luật, hoặc về
một tội phạm mà người đó được tuyên trắng án phù hợp với pháp luật tố tụng
của mỗi nước.
Chuẩn mực quốc tế bảo đảm quyền con người sau khi xét xử
Sau khi xét xử, bản án có hiệu lực pháp luật, người phạm tội phải chấp

hành bản án do TA tuyên. Ở giai đoạn này, các văn kiện pháp lý về bảo đảm
quyền con người trong quản lý tư pháp đề cao vai trò, trách nhiệm của nhà tù,
cán bộ trại giam. Theo đó, việc giam tù và các biện pháp khác là tách một
người phạm tội ra khỏi thế giới bên ngoài, là một nỗi khổ vì nó tước bỏ quyền
tự do của người đó. Vì vậy, nguyên tắc áp dụng cho các loại tù nhân chịu án,
theo Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu đối xử với tù nhân quy định:

20


×