Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Khiếu nại, tố cáo trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.46 KB, 112 trang )

















































đại học quốc gia hà nội
khoa luật






Trịnh Công Sơn







khiếu nại, tố cáo trong giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự Thực trạng và giải pháp










Luận văn thạc sỹ luật học











Hà nội năm 2008









đại học quốc gia hà nội
khoa luật
***




Trịnh Công Sơn






khiếu nại, tố cáo trong giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự Thực trạng và giải pháp




Chuyên ngành : Luật hình sự

Mã số : 60 38 40





Luận văn thạc sỹ luật học




Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Đức Thuận





Hà nội năm 2008

Mục lục

Trang
Lời cam đoan

Danh mục các từ viết tắt

Mở đầu
01
1.
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
01
2.
Mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài
03
3.

Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
04
4.
Ph-ơng pháp nghiên cứu
04
5.
ý nghĩa lý luận và thực tiễn của kết quả nghiên cứu
04
6.
Bố cục của luận văn
05
Ch-ơng 1: Nhận thức chung về khiếu nại, tố cáo trong giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự
06
1.1.
Khái niệm về giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
06
1.2.
Khái niệm về khiếu nại, tố cáo trong giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự

14
1.2.1.
Khái niệm về khiếu nại, tố cáo
14
1.2.2.
Khái niệm khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự và khiếu
nại, tố cáo trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự

15

1.2.3.
Các dạng khiếu nại, tố cáo có thể phát sinh trong giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự

16
1.2.4.
Phân biệt khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự với kháng
cáo bản án, quyết định của Toà án ch-a có hiệu lực pháp luật


18
1.3.
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về khiếu nại trong
giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự

22
1.3.1.
Ng-ời có quyền khiếu nại và quyền, nghĩa vụ của ng-ời
khiếu nại đối với hoạt động của Cơ quan điều tra trong giai
đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự


22
1.3.2.
Ng-ời bị khiếu nại và quyền, nghĩa vụ của ng-ời bị khiếu nại
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự

27
1.3.3.
Thời hiệu khiếu nại

31
1.3.4
Thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại đối với Điều tra
viên, Phó Thủ tr-ởng Cơ quan điều tra và Thủ tr-ởng Cơ


quan điều tra
33
1.4.
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tố cáo trong giai
đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự

35
1.4.1.
Ng-ời có quyền tố cáo và quyền, nghĩa vụ của ng-ời tố cáo
35
1.4.2.
Quyền và nghĩa vụ của ng-ời bị tố cáo
40
1.4.3.
Thẩm quyền và thời hạn giải quyết tố cáo trong giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự

43
1.5.
Trách nhiệm của ng-ời có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại, tố cáo và nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong quá trình kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự




44

Kết luận Ch-ơng 1
47
Ch-ơng 2: Thực trạng khiếu nại, tố cáo trong giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự và thực tế giải quyết khiếu nại, tố cáo của
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an các cấp


48
2.1.
Thực trạng khiếu nại, tố cáo về hoạt động tố tụng hình sự
của Cơ quan Cảnh sát điều tra trong giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự


48
2.2.
Thực trạng công tác tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố
cáo về hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự ở Cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an các cấp


61
2.2.1.
Về thực trạng đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất phục vụ giải
quyết khiếu nại, tố cáo


61
2.2.2.
Về thực trạng quy trình giải quyết đơn th- khiếu nại, tố cáo
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự

64
2.3.
Một số khó khăn v-ớng mắc trong quá trình giải quyết
khiếu nại, tố cáo về khởi tố, điều tra vụ án hình sự trên
thực tế


66
2.3.1.
Khó khăn v-ớng mắc trong thực hiện pháp luật về khiếu nại,
tố cáo trong điều tra

66
2.3.2.
Khó khăn về tổ chức và chế độ, kinh phí phục vụ công tác
70
2.4.
Nguyên nhân của những khó khăn v-ớng mắc tồn tại
trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo trong giai
đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự


71
2.4.1.
Do quy định của pháp luật.

71
2.4.2
Do sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo cơ quan chủ quản
73
2.4.3
Do ý thức trách nhiệm của cán bộ làm công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo

74
2.4.4
Do nhận thức của ng-ời dân về pháp luật khiếu nại, tố cáo
75
2.4.5
Do công tác kiểm tra, đôn đốc của cấp uỷ Đảng, Chính
quyền và công tác kiểm sát của Viện kiểm sát

75

Kết luận Ch-ơng 2
77
Ch-ơng 3: Một số giải pháp góp phần hạn chế khiếu nại, tố cáo và
nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự


78
3.1.
Dự báo tình hình khiếu nại, tố cáo về hoạt động khởi tố,
điều tra và những yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong những năm tới.



78
3.1.1.
Cơ sở của việc dự báo
78
3.1.2.
Nội dung dự báo
80
3.2.
Một số giải pháp góp phần hạn chế khiếu nại, tố cáo
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự

82
3.2.1.
Không ngừng nâng cao hiệu quả, chất l-ợng khởi tố, điều tra
vụ án hình sự

82
3.2.2.
Chú trọng tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về khiếu
nại, tố cáo và về tố tụng hình sự cho mọi ng-ời dân trong xã
hội


84
3.2.3.
Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo
85
3.3.

Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án
hình sự


85
3.3.1.
Hoàn thiện quy định của BLTTHS và các đạo luật có liên
quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo

85
3.3.2.
Hoàn thiện các văn bản quy định về tổ chức và cán bộ làm
công tác giải quyết đơn th- khiếu nại, tố cáo về tố tụng hình
sự


92
3.3.3.
Ban hành quy trình công tác, quy chế tiếp nhận giải quyết
đơn th- khiếu nại, tố cáo về tố tụng hình sự và hệ thống sổ
sách, biểu mẫu cần thiết


93
3.3.4.
Kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo về tố tụng hình sự và th-ờng xuyên bồi d-ỡng, tập
huấn nghiệp vụ chuyên sâu



95
3.3.5.
Tăng c-ờng sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng và
Chính quyền đối với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

95

Kết luận Ch-ơng 3
97

Kết luận
98

Danh mục tài liệu tham khảo
101










































1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:

Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân
đã được quy định tại Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1998, Quốc hội nước ta đã
thông qua Luật khiếu nại, tố cáo và tiếp tục sửa đổi, bổ sung vào các năm gần
đây để đảm bảo phù hợp thực tế. Đây là cơ sở pháp lý để cơ quan, tổ chức, cá
nhân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nếu bị các cơ quan nhà nước
hoặc cá nhân có thẩm quyền có hành vi xâm phạm trong khi thi hành công
vụ.
Về lĩnh vực tố tụng hình sự, ngay trong Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) đầu tiên của Nhà nước ta (BLTTHS năm 1988) cũng đã có một số
điều quy định về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đối với hành vi hoặc
quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
BLTTHS năm 2003 đã dành cả một chương trong Phần Thủ tục đặc biệt để
quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Các quy định này đã tạo
một số điều kiện thuận lợi nhất định cho quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo
phát sinh trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta
trong những năm qua cho thấy tình hình khiếu nại, tố cáo về tố tụng hình sự
nói chung, khiếu nại, tố cáo phát sinh trong quá trình khởi tố, điều tra các vụ
án hình sự nói riêng có những diễn biến phức tạp. Tình trạng khiếu nại, tố cáo
vượt cấp, kéo dài vẫn thường xuyên xảy ra, trong đó có những vụ đã có quyết
định giải quyết cuối cùng của người có thẩm quyền theo luật định, có những
vụ khiếu kiện gây xôn xao dư luận, làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng.

2
Sở dĩ có tình trạng trên là do nhiều nguyên nhân. Ngoài nguyên nhân do
chất lượng hiệu quả công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng, do tác phong,
đạo đức nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng, còn có nguyên nhân do bất
cập của hệ thống pháp luật hiện hành quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Mặc dù Quốc hội đã thông qua một đạo luật riêng về giải quyết khiếu nại, tố
cáo, nhưng luật này mới chỉ điều chỉnh trong lĩnh vực dân sự và hành chính,
không quy định trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Chương 35 của BLTTHS quy
định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự nhưng cũng mới chỉ quy định
về quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, người tố cáo, người bị khiếu nại,
người bị tố cáo, thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tiếp đó,
mặc dù Liên ngành tư pháp Trung ương cũng đã có Thông tư liên tịch hướng
dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS về khiếu nại, tố cáo[7] và Bộ Công
an cũng đã có đến hai Thông tư hướng dẫn giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
Công an nhân dân[9,10], nhưng tất cả các thông tư nói trên đều không có nội
dung hướng dẫn về trình tự, thủ tục tiến hành giải quyết khiếu nại, tố cáo nên
các địa phương gặp nhiều lúng túng, thiếu thống nhất trong việc giải quyết.
Cũng chính vì chưa có quy định rõ ràng nên cho đến nay trong ngành Công
an vẫn chưa có lực lượng chuyên trách theo dõi và giải quyết công tác này,
hầu hết là cán bộ kiêm nhiệm. Đây cũng chính là một trong những nguyên
nhân làm cho hiệu quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân về
hoạt động tố tụng hình sự nói chung, về hoạt động khởi tố, điều tra nói riêng
đạt hiệu quả chưa cao, thậm chí lại tiếp tục phát sinh khiếu kiện về công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, của cơ
quan điều tra nói riêng.
Về tình hình nghiên cứu, mặc dù thực trạng công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo về tố tụng hình sự là như vậy, nhưng cho đến nay vẫn chưa có tác
giả nào có công trình nghiên cứu về lĩnh vực này. Duy nhất chỉ có một đề tài

3
khoa học cấp cơ sở do Tổng cục Cảnh sát Bộ Công an vừa đăng ký nghiên
cứu với tên gọi là “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo của lực lượng cảnh sát nhân dân”, thời gian hoàn thành vào
cuối năm 2009.
Với thực trạng quy định của pháp luật và tình hình nghiên cứu đã nêu

trên; xuất phát từ thực tiễn giải quyết khiếu nại, tố cáo về tố tụng hình sự nói
chung, khiếu nại, tố cáo phát sinh trong giai đoạn khởi tố, điều tra tội phạm
nói riêng, chúng tôi chọn đề tài này để nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ của
mình nhằm góp phần đáp ứng đòi hỏi của thực tế công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân hiện nay.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu:
a. Mục đích nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích làm rõ thực trạng khiếu nại, tố
cáo trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự và thực tế giải quyết khiếu
nại, tố cáo của Cơ quan điều tra. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp góp
phần hạn chế đến mức tối đa các trường hợp khiếu nại, tố cáo phát sinh trong
quá trình khởi tố, điều tra vụ án hình sự và nâng cao hiệu quả giải quyết các
trường hợp khiếu nại, tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động
tố tụng hình sự của Cơ quan điều tra trong giai đoạn khởi tố và điều tra vụ án
hình sự.
b. Phạm vi nghiên cứu:
Theo quy định của BLTTHS, việc khởi tố và điều tra vụ án hình sự có
thể do nhiều cơ quan có chức năng tiến hành. Do vậy, việc khiếu nại, tố cáo
về hoạt động của các cơ quan chức năng trong quá trình khởi tố, điều tra vụ
án hình sự đều có thể xảy ra. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, chúng
tôi chỉ nghiên cứu về thực trạng khiếu nại, tố cáo đối với hoạt động của cơ

4
quan Cảnh sát điều tra các cấp trong quá trình khởi tố, điều tra các vụ án hình
sự và công tác giải quyết của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an các cấp theo
quy định của BLTTHS.
Việc nghiên cứu được dựa trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành
và thực tế giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
các cấp thể hiện qua các báo cáo định kỳ, báo cáo chuyên đề về giải quyết
khiếu nại, tố cáo về tư pháp trong các năm từ 2005 đến 2007 và kết quả khảo

sát thực tế ở một số địa phương.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được các mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả của luận văn có
các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật
về khiếu nại, tố cáo trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
- Làm rõ thực trạng khiếu nại, tố cáo về hoạt động của Cơ quan Cảnh
sát điều tra trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự và thực tiễn giải
quyết của Cơ quan Cảnh sát điều tra đối với các khiếu nại, tố cáo đó.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận, nghiên cứu pháp luật hiện
hành và thực tế giải quyết khiếu nại, tố cáo sẽ đề xuất một số giải pháp
góp phần hạn chế khiếu nại, tố cáo và nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài được dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về các quyền cơ bản của công
dân, về công bằng, dân chủ trong hoạt động tư pháp.

5
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong quá trình
nghiên cứu đề tài là khảo sát thực tế; nghiên cứu phân tích, so sánh, tổng hợp;
quy nạp, diễn giải.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn:
- Về lý luận: Việc nghiên cứu đề tài sẽ làm sáng tỏ thêm một số vấn
đề lý luận về giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự và khiếu nại, tố cáo
trong quá trình khởi tố và điều tra vụ án hình sự.
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài là tài liệu tham khảo cho
những người làm công tác nghiên cứu lý luận và nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung BLTTHS năm 2003 về vấn đề khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự,

đồng thời cũng là tài liệu cần thiết cho những người đang làm thực tế công
tác khởi tố, điều tra các vụ án hình sự và giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an các cấp.
6. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được chia làm 3 chương, 12 mục lớn.








6
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm về giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự:
Trong Lời nói đầu của BLTTHS có đoạn viết: “Bộ luật tố tụng hình sự
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định trình tự, thủ tục khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự”[2, tr8]. Điều đó có nghĩa
rằng, ngay phần mở đầu của BLTTHS đã giới thiệu quá trình tiến hành tố
tụng đối với một vụ án hình sự được trải qua 5 giai đoạn, đó là giai đoạn khởi
tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử và giai đoạn thi hành
án hình sự. Giữa các giai đoạn này có sự liên quan chặt chẽ với nhau, nhưng
mỗi giai đoạn đều có ranh giới của mình. Có thể có những vụ án không được
tiến hành đầy đủ cả 5 giai đoạn mà chỉ được tiến hành ở một vài giai đoạn sau
đó kết thúc. Giai đoạn tiếp theo của quá trình tiến hành tố tụng chỉ có thể xảy

ra nếu giai đoạn trước đó tiến hành đạt hiệu quả và đòi hỏi phải được chuyển
tiếp đến giai đoạn tố tụng tiếp theo. Chẳng hạn, sau một thời gian tiến hành
điều tra vụ án, cơ quan điều tra đã có đủ chứng cứ chứng minh về hành vi
phạm tội của bị can, cho nên đã làm bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị
can trước pháp luật để gửi cùng hồ sơ vụ án sang Viện kiểm sát cùng cấp. Sau
khi Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án cùng bản kết luận điều tra và đề
nghị truy tố của cơ quan điều tra thì giai đoạn truy tố bắt đầu. Ngược lại, nếu
cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án và đình chỉ điều tra bị
can thì sẽ không có giai đoạn truy tố mà vụ án được dừng ở giai đoạn điều tra.
Mặc dù cần phải hiểu đúng đắn như vậy, nhưng cho đến nay vẫn còn
một số người chưa hiểu đúng theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn, còn có

7
quan điểm cho rằng khởi tố và điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng
hình sự. Sở dĩ có quan điểm này là vì họ cho rằng BLTTHS quy định về khởi
tố và điều tra vụ án hình sự trong cùng một phần (Phần thứ hai) và cho rằng
đều do cơ quan điều tra tiến hành. Quan điểm này là sai lầm vì trong phần thứ
hai của BLTTHS không chỉ quy định về khởi tố, điều tra vụ án hình sự mà
còn quy định cả về quyết định việc truy tố; Cơ quan điều tra có thẩm quyền
khởi tố và điều tra vụ án hình sự nhưng ngoài Cơ quan điều tra còn có nhiều
cơ quan chức năng khác cũng có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.
Theo chúng tôi, cần phải thống nhất nhận thức về các giai đoạn tiến
hành tố tụng nói chung, về giai đoạn khởi tố và giai đoạn điều tra vụ án hình
sự nói riêng, vì nhận thức không đúng sẽ có ảnh hưởng đến hiệu quả chất
lượng tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự. Trước hết, cần phải hiểu rõ
khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tiến hành tố tụng.
Đây là giai đoạn độc lập nhưng có liên quan đến giai đoạn tiếp theo là giai
đoạn điều tra. Quyết định khởi tố vụ án hình sự là văn bản kết thúc giai đoạn
khởi tố nhưng cũng đồng thời là văn bản mở đầu của giai đoạn điều tra. Tuy
nhiên không phải bất cứ trường hợp nào sau khi có tin báo, tố giác về tội

phạm, Cơ quan điều tra cũng đều ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Nhiều
trường hợp sau khi kiểm tra xác minh, Cơ quan điều tra xác định không có tội
phạm xảy ra nên đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Đây cũng là
văn bản kết thúc giai đoạn khởi tố vụ án hình sự nhưng với văn bản này sẽ
không có giai đoạn tiếp theo của quá trình tiến hành tố tụng, tức không có giai
đoạn điều tra vụ án vì không có vụ án xảy ra.
Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu từ khi Cơ quan điều tra
nhận được tin báo, tố giác về tội phạm. Các tin báo, tố giác về tội phạm có thể
được gửi đến các cơ quan chức năng để báo cho Cơ quan điều tra hoặc gửi
trực tiếp cho Cơ quan điều tra. Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì Cơ

8
quan điều tra là cơ quan duy nhất có thẩm quyền kiểm tra xác minh tin báo, tố
giác về tội phạm. Viện kiểm sát sau khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm
do công dân hoặc cơ quan, tổ chức chuyển đến hoặc kiến nghị khởi tố do cơ
quan nhà nước chuyển đến phải có trách nhiệm chuyển đến Cơ quan điều tra
có thẩm quyền. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được tin báo, tố giác
về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách
nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố
hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp có nhiều tình
tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để
giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng.
Như vậy thời hạn kiểm tra xác minh của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
là không quá 2 tháng và giai đoạn này được kết thúc khi Cơ quan điều tra ra
quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Việc khởi tố vụ án hình sự không phải thuộc thẩm quyền duy nhất của
Cơ quan điều tra mà có thể do các cơ quan chức năng khác cũng có quyền ra
quyết định khởi tố. Cụ thể là:
- Khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự trong lĩnh vực quản lý của mình thì Bộ đội biên phòng, Hải

quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển có thẩm quyền ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự để tiến hành điều tra.
- Các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trong khi làm nhiệm vụ của
mình nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu của tội phạm thì cũng có quyền khởi
tố vụ án và tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu trong thời hạn nhất
định.

9
- Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp
Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan
có chức năng khởi tố vụ án hình sự và trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu
cầu khởi tố vụ án.
- Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi
tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên toà mà phát hiện được tội phạm
hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra.
Từ những nội dung đã phân tích trên đây dưới góc độ chức năng nhiệm
vụ của Cơ quan điều tra có thể đưa ra khái niệm về giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự như sau: “Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của
quá trình tiến hành tố tụng, được bắt đầu từ khi có tin báo, tố giác về tội
phạm gửi đến Cơ quan điều tra và được kết thúc khi Cơ quan điều tra ra
quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự”.
Ngay sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, giai đoạn điều tra vụ
án hình sự được bắt đầu. Nói cách khác, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được
bắt đầu sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự, Cơ quan điều tra được phép tiến hành các biện pháp điều tra
cần thiết đã được quy định tại BLTTHS để phát hiện, thu thập, củng cố, bảo
vệ và đánh giá chứng cứ, chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi
phạm tội. Các biện pháp điều tra mà BLTTHS quy định bao gồm: hỏi cung bị
can; lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn

dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án; đối chất; nhận dạng;
khám xét (khám người, khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm); thu giữ thư tín,
điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện; tạm giữ đồ vật, tài liệu khi khám
xét; kê biên tài sản; khám nghiệm hiện trường; khám nghiệm tử thi; xem xét
dấu vết trên thân thể; thực nghiệm điều tra; trưng cầu giám định. Không nhất
thiết trong quá trình điều tra một vụ án, Cơ quan điều tra phải tiến hành tất cả

10
các biện pháp điều tra đã nêu trên. Tuỳ theo yêu cầu điều tra từng vụ án cụ
thể, Cơ quan điều tra có thể áp dụng một vài biện pháp điều tra cần thiết trong
tổng số các biện pháp điều tra nêu trên. Việc áp dụng biện pháp điều tra nào
trước, biện pháp điều tra nào sau cũng tuỳ thuộc vào tình huống điều tra từng
vụ án cụ thể. Đối với từng biện pháp điều tra, khi tiến hành phải tuân theo
đúng trình tự và thủ tục mà BLTTHS đã quy định, như chủ thể tiến hành,
thành phần tham gia bắt buộc, trình tự các hoạt động khi tiến hành, việc lập
biên bản về hoạt động điều tra … Vi phạm các trình tự, thủ tục nói trên đều
có thể bị khiếu nại hoặc bị tố cáo.
Các biện pháp điều tra nêu trên chỉ được tiến hành trong thời hạn nhất
định tuỳ thuộc vào loại án, nói cách khác là tuỳ thuộc vào loại tội phạm mà
Cơ quan điều tra đang tiến hành điều tra. Cụ thể là: Thời hạn không quá hai
tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm
nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều
tra.
Trong trường hợp do tính chất phức tạp của vụ án cần phải gia hạn điều
tra thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải
có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra. Việc gia hạn điều tra cũng
phải tuân thủ quy định của BLTTHS về thời hạn nhất định tuỳ theo từng loại
tội phạm. Cụ thể là: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn
điều tra một lần không quá hai tháng; đối với tội phạm nghiêm trọng có thể

được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng và lần thứ hai
không quá hai tháng; đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn
điều tra hai lần, mỗi lần không quá bốn tháng; đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá bốn
tháng. Việc xác định loại tội phạm đang điều tra được dựa trên cơ sở dấu hiệu

11
tội phạm được thể hiện ở mặt khách quan theo quy định tại các điều cụ thể
trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Mọi trường hợp vi phạm về thời
hạn điều tra đều có thể bị cơ quan, tổ chức hoặc công dân khiếu nại hoặc tố
cáo.
Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, Cơ quan điều tra có quyền áp
dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn đối với các đối tượng cụ
thể. Việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn phải tuân
thủ đúng quy định của BLTTHS như đối tượng áp dụng, thời hạn áp dụng,
căn cứ, điều kiện áp dụng, trình tự, thủ tục áp dụng. Chẳng hạn, tạm giữ chỉ
có thể được áp dụng đối với một trong 4 đối tượng, đó là người bị bắt trong
trường hợp khẩn cấp, người bị bắt khi phạm tội quả tang, người bị bắt theo
quyết định truy nã và người phạm tội ra tự thú hoặc đầu thú; tạm giam chỉ có
thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm
tội rất nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít
nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn
cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử
hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cần
lưu ý một số đối tượng được hưởng chính sách nhân đạo của Đảng và nhà
nước ta, đó là: bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi; bị can, bị cáo là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú
rõ ràng. Đối với những người này mặc dù đủ điều kiện tạm giam theo quy
định chung nhưng vẫn không bị tạm giam mà chỉ bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn khác. Họ chỉ có thể bị tạm giam nếu bỏ trốn và bị bắt theo quyết định

truy nã của Cơ quan điều tra hoặc được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác
nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc họ phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ

12
cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc
gia.
Mọi trường hợp áp dụng hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn không đúng
đối tượng, không đúng thời hạn, không có căn cứ theo luật định đều có thể bị
khiếu nại hoặc tố cáo.
Trong quá trình điều tra các vụ án hình sự, Cơ quan điều tra phải tuân
thủ các quy định về thông báo về việc bắt, tạm giam, về gửi các quyết định tố
tụng cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn hoặc để kiểm sát việc tuân
theo pháp luật, về thông báo cho Viện kiểm sát biết trước khi tiến hành một
số hoạt động điều tra, về bắt buộc mời luật sư bào chữa cho bị can trong
những trường hợp BLTTHS quy định, về cấp giấy chứng nhận cho người bào
chữa và thông báo trước cho người bào chữa biết về thời gian, địa điểm hỏi
cung bị can khi họ có yêu cầu… Nếu vi phạm các quy định trên đây cũng có
thể bị khiếu nại hoặc tố cáo. Cùng với việc tiến hành các biện pháp điều tra
mà BLTTHS quy định, Cơ quan điều tra được phép áp dụng chiến thuật điều
tra và các biện pháp nghiệp vụ để xác định người phạm tội và điều tra mở
rộng vụ án đảm bảo tính khách quan, toàn diện. Việc áp dụng các biện pháp
nghiệp vụ phải trong khuôn khổ pháp luật quy định trên cơ sở tiến hành các
biện pháp điều tra công khai hợp lý.
Sau khi tiến hành các biện pháp điều tra cần thiết để phát hiện, thu thập
chứng cứ chứng minh về vụ án, nếu hết thời hạn điều tra mà không chứng
minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết
định đình chỉ điều tra vụ án và đình chỉ điều tra bị can. Trường hợp chứng
minh được không có tội phạm xảy ra, hành vi của bị can không cấu thành tội
phạm hoặc có các căn cứ khác quy định tại Điều 107 BLTTHS thì Cơ quan

điều tra cũng phải ra quyết định đình chỉ điều tra. Ngoài ra, Cơ quan điều tra
còn có thể ra quyết định đình chỉ điều tra trong các trường hợp được miễn

13
trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự (BLHS). Đó là trường
hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 19), trường hợp đang điều
tra do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (khoản 1 Điều 25), trường hợp trước khi
hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp
phần có hiệu quả vào việc phát hiện, điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến
mức thấp nhất hậu quả của tội phạm (khoản 2 Điều 25), trường hợp người
chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng, gây
hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ
chức nhận giám sát, giáo dục (khoản 2 Điều 69). Trường hợp khởi tố vụ án
theo yêu cầu của người bị hại, nếu trong khi đang điều tra mà người bị hại rút
yêu cầu thì vụ án cũng phải được đình chỉ nếu không có căn cứ xác định
người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trái với ý muốn của họ do bị ép buộc,
cưỡng bức.
Ngoài các trường hợp có căn cứ đình chỉ điều tra như đã nêu trên, trong
thời hạn điều tra luật định, khi đã có đủ chứng cứ xác định có tội phạm và bị
can thì cơ quan điều tra làm bản kết luận điều tra đề nghị truy tố và gửi cùng
hồ sơ vụ án sang Viện kiểm sát cùng cấp để đề nghị truy tố bị can trước pháp
luật.
Như vậy, thời điểm kết thúc điều tra vụ án là khi Cơ quan điều tra ra bản
kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định
đình chỉ điều tra. Việc đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra nếu không đúng
quy định của pháp luật hoặc không đúng với bản chất nội dung vụ án đề có
thể bị khiếu nại hoặc tố cáo.
Trong BLTTHS có chế định về tạm đình chỉ điều tra nhưng cần lưu ý
rằng quyết định tạm đình chỉ điều tra không phải là văn bản kết thúc điều tra


14
vụ án. Vụ án sẽ được tiếp tục điều tra khi Cơ quan điều tra có căn cứ phục hồi
điều tra.
Từ những phân tích trên đây, chúng tôi xin đưa ra khái niệm về giai
đoạn điều tra vụ án hình sự như sau:
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tiến hành tố tụng,
được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi Cơ
quan điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận
điều tra và quyết định đình chỉ điều tra.
Điều tra vụ án hình sự là hoạt động tố tụng, đồng thời là hoạt động
nghiệp vụ, do những người có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS tiến
hành bằng cách áp dụng các biện pháp điều tra và các biện pháp ngăn chặn
cần thiết để phát hiện, thu thập củng cố chứng cứ chứng minh làm rõ các vấn
đề cần chứng minh trong vụ án, đảm bảo cho việc xử lý được khách quan,
đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
1.2. Khái niệm về khiếu nại, tố cáo trong giai đoạn khởi tố, điều
tra vụ án hình sự.
1.2.1. Khái niệm về khiếu nại, tố cáo.
Theo Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, khiếu nại là việc
công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do pháp luật quy
định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định
hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có
căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền,
lợi ích hợp pháp của mình[19, tr346].


Giải quyết khiếu nại là việc xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết
của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.


15
Cũng theo Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, tố cáo là việc
công dân, theo quy định của pháp luật, báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá
nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức[19, tr607].

Theo quy định tại Điều 74 Hiến pháp năm 1992: Công dân có quyền khiếu
nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái
pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà
nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.
Theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo: Công dân có quyền tố cáo với cơ
quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi trái pháp luật của bất
cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích
của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức[4, tr5].
1.2.2. Khái niệm khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự và khiếu nại, tố cáo
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
Khiếu nại trong tố tụng hình sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức, theo thủ
tục quy định tại Chương XXXV của BLTTHS, đề nghị cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền xem xét lại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng khi có căn cứ cho rằng
quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp
của mình.

Quyết định tố tụng là quyết định của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan
điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án,
Thẩm phán Toà án được phân công chủ tọa phiên toà hoặc người có thẩm quyền
tiến hành một số hoạt động điều tra ban hành theo quy định của BLTTHS.

16

Quyết định tố tụng bị khiếu nại là các quyết định tố tụng nêu trên bị cơ
quan, tổ chức, cá nhân khiếu nại vì có căn cứ cho rằng các quyết định đó là trái
pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Hành vi tố tụng là hành vi của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, điều tra viên
Cơ quan điều tra; của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm
sát; của Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án được phân công Chủ tọa
phiên toà trước khi mở phiên toà, được thực hiện trong quá trình tiến hành tố
tụng đối với vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS.
Hành vi tố tụng bị khiếu nại là các hành vi nêu trên bị cơ quan, tổ chức, cá
nhân khiếu nại vì họ cho rằng các hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền,
lợi ích hợp pháp của họ.
Khiếu nại trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là khiếu nại của cơ
quan, tổ chức, cá nhân đối với quyết định tố tụng của Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm
sát ban hành trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự theo quy định của
BLTTHS hoặc khiếu nại đối với hành vi tố tụng của Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng, điều tra viên Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng, kiểm sát
viên Viện kiểm sát được tiến hành trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
theo quy định của BLTTHS vì họ có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó
là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Tố cáo trong tố tụng hình sự là việc công dân báo cho cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự
của người tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động
điều tra mà họ cho rằng hành vi đó gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích
của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

17
Tố cáo trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là tố cáo của công dân
về hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình khởi tố, điều tra vụ án hình sự của
người tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều

tra vì họ cho rằng hành vi vi phạm đó gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho
lợi ích của nhà nước và quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
1.2.3. Các dạng khiếu nại, tố cáo có thể phát sinh trong giai đoạn khởi tố
điều tra vụ án hình sự.
Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có thể có các khiếu nại sau đây:
- Khiếu nại việc bắt khẩn cấp của Cơ quan điều tra;
- Khiếu nại việc tạm giữ người không đúng quy định của pháp luật;

- Khiếu nại việc không khởi tố vụ án hình sự;

- Khiếu nại việc vi phạm thời hạn kiểm tra xác minh tin báo, tố giác tội
phạm;

- Khiếu nại kết luận giải quyết khiếu nại của Cơ quan điều tra hoặc Viện
kiểm sát về việc khởi tố vụ án hình sự.

Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có thể có các dạng tố cáo sau đây:
- Tố cáo vi phạm pháp luật trong việc lấy lời khai;
-
Tố cáo hành vi tiêu cực trong việc trưng cầu giám định thương tích,
giám định chữ ký, chữ viết, con dấu …;

-
Tố cáo việc bỏ lọt tội phạm, bao che cho người vi phạm;

-
Tố cáo việc làm sai lệch hồ sơ, bắt giữ người oan, sai;

-
Tố cáo hình sự hoá các quan hệ dân sự.


Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự có thể có các khiếu nại sau đây:
- Khiếu nại việc áp dụng biện pháp ngăn chặn;

18
-
Khiếu nại kết quả giám định và đề nghị giám định lại;

-
Khiếu nại việc xử lý vật chứng của vụ án;

-
Khiếu nại quyết định khởi tố bị can và kêu oan;

-
Khiếu nại bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố;

-
Khiếu nại quyết định tạm đình chỉ điều tra vì cho rằng có tiêu cực
nên cố ý kéo dài vụ án không xử lý dứt điểm;

-
Khiếu nại quyết định đình chỉ điều tra vì cho rằng có dấu hiệu bỏ lọt
tội phạm.

Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự có thể phát sinh các dạng tố cáo
sau đây:
- Tố cáo hành vi bức cung, dùng nhục hình, đánh đập, xỉ nhục bị can
trong khi hỏi cung bị can;
- Tố cáo hành vi tiêu cực trong việc trưng cầu giám định;

- Tố cáo hành vi vi phạm quy chế điều tra của điều tra viên như tiếp
xúc với bị can hoặc bị hại tại nhà riêng, tại hàng quán; nhận hối lộ trong
quá trình điều tra;

-
Tố cáo hành vi thiếu trách nhiệm trong quá trình điều tra, tam giam
bị can kéo dài nhưng không hỏi cung bị can dẫn đến phải xin gia hạn tạm
giam;

-
Tố cáo hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án, tạo chứng cứ giả vì mục
đích vụ lợi;

-
Tố cáo hành vi bỏ lọt tội phạm hoặc tạo điều kiện cho bị can lẩn
tránh trách nhiệm thông qua việc quyết định tạm đình chỉ điều tra không
đúng, đình chỉ điều tra không có căn cứ hoặc không đúng căn cứ pháp luật

19
quy định, ra quyết định truy nã nhưng không tổ chức truy bắt, để bị can
nhởn nhơ ngoài xã hội …

1.2.4. Phân biệt khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự với kháng
cáo bản án, quyết định của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật và khiếu nại
bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.

Như trên đã trình bày, khiếu nại trong tố tụng hình sự là việc cá nhân,
cơ quan, tổ chức đề nghị cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong tố tụng
hình sự xem xét lại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng khi có căn cứ cho
rằng quyết định hoặc hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và

lợi ích hợp pháp của họ.
Tố cáo trong tố tụng hình sự là việc công dân tố cáo trước cơ quan,
cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố
tụng hình sự của người tiến hành tố tụng hoặc người có thẩm quyền tiến
hành một số hoạt động điều tra vì những hành vi đó gây thiệt hại hoặc đe
doạ gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước hoặc của cơ quan, tổ chức, công
dân.
Kháng cáo là việc bị cáo, người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp
của họ, người bào chữa, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại
diện hợp pháp của họ, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và
người đại diện hợp pháp của họ làm đơn gửi đến Toà án đã xử sơ thẩm
hoặc Toà án cấp phúc thẩm hoặc đến trình bày trực tiếp với Toà án đã xử
sơ thẩm trong thời hạn nhất định để đề nghị xét xử lại vụ án theo trình tự
phúc thẩm vì cho rằng bản án hoặc quyết định sơ thẩm không khách quan,
không chính xác, làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của họ.
Kháng nghị của Viện kiểm sát đối với bản án hoặc quyết định sơ
thẩm là việc Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp

×