Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

CHUYÊN ĐỀ TỘI PHẠM CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.97 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ


CHUYÊN ĐỀ MÔN HỌC

TÊN ĐỀ TÀI

TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

SVTH: Phạm Lâm Đồng
Lớp: KT33D
SBD: 075

Hà Nội, tháng 12 năm 2010

1


MỤC LỤC
Mở đầu…………………………………………………………………………...1
Chương 1: Thực trạng tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin..............3
1.1. Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin.............................................3
1.1.1. Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin..............................................3
1.1.2. Các quy định trong bộ Luật Hình Sự về phòng, chống tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin ở nước ta........................................................................10
1.1.3. Các quy định pháp luật về tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin của
một số nước trên thế giới………………………………………………………..11
1.2. Thực trạng tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin ở nước ta hiện


nay........................................................................................................................14
1.2.1. Tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin ở nước ta hiện nay.
..............................................................................................................................14
1.2.2. Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
..............................................................................................................................
17Chương 2: Dự báo và giải pháp phòng chống tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin.....................................................................................................22
2.1. Dự báo..........................................................................................................22
2.1.1. Xu hướng phát triển của tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin ở
nước ta ngày càng gia tăng một cách đột biến.....................................................22
2.1.2. Tính chất các vụ việc vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công nghệ thông tin
có mức độ nghiêm trọng ngày càng cao...............................................................23
2.2. Giải pháp nhằm hạn chế tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
..............................................................................................................................24
2.2.1. Bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
..............................................................................................................................24
2.2.2. Tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin.......................................................................................26
2.2.2.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ và người dân về công nghệ thông tin.. .26
2.2.2.2. Tăng cường công tác quản lý trong lĩnh vực công nghệ thông tin..........27
2.2.2.3. Đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ quản lý lĩnh vực công nghệ thông
tin..........................................................................................................................27
2.2.2.4. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin................................................................................29
Kết luận...............................................................................................................31
2


1. Tính cấp thiết của đề tài.
Thế giới ngày nay đang từng ngày từng giờ chứng kiến và thụ hưởng

những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới - cách
mạng công nghệ thông tin. Cuộc cách mạng này mới chỉ khởi đầu từ những
năm cuối của thế kỷ 20, bắt nguồn bằng việc phát minh ra máy tính điện tử và
thực sự bùng nổ khi mạng thông tin toàn cầu (Internet) được ứng dụng rộng
rãi. Cùng với một số ngành công nghệ khác như công nghệ vật liệu mới, công
nghệ gen, công nghệ vũ trụ… công nghệ thông tin đã và đang đưa xã hội loài
người đang tiến vào một kỷ nguyên mới, một thời kỳ mới của nền kinh tế tri
thức - một nền kinh tế được dự đoán sẽ phát triển gấp nhiều lần so với cuộc
cách mạng công nghiệp đã từng đem lại cho nền kinh tế nhân loại trước đây.
Nếu thế kỷ 20 được coi là thế kỷ của công nghiệp thì thế kỷ 21 được xem là
thế kỷ của công nghệ thông tin. Máy tính và công nghệ kỹ thuật số, công nghệ
sinh học, công nghệ gen, công nghệ nano đã và đang thay thế các công nghệ
trước đây trên khắp mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhanh chóng hiện diện
rộng khắp trong xã hội, với những mục đích trong lĩnh vực hết sức đa dạng, từ
sản xuất, kinh doanh, ứng dụng khoa học kỹ thuật cho đến giải trí đơn thuần.
Tuy mới chỉ hình thành và phát triển vài chục năm nhưng cuộc cách mạng
mới này đã thúc đẩy nhiều ngành kinh tế, xã hội và văn hoá phát triển một
cách vượt bậc bằng các công nghệ mới của nó, trong đó đặc biệt phải kể đến
vai trò của máy tính điện tử và mạng Internet. Bên cạnh đó công nghệ thông
tin cũng hình thành một thế hệ con người mới (thế hệ 8X, 9X), khác xa thế hệ
cách họ chỉ vài chục năm ở chỗ họ phụ thuộc vào công nghệ thông tin và xem
máy tính, Internet, E-mail, điện thoại di động, máy ảnh kỹ thuật số, máy nghe
nhạc… là những thứ thiết yếu trong cuộc sống và sinh hoạt. Cuộc cách mạng
cũng phát triển những khái niệm, những từ ngữ mới đã trở nên quen thuộc
trong đời sống hàng ngày như: Mạng Internet, thư điện tử, điện thoại di động,
thương mại điện tử, giao dịch điện tử, công nghệ số, công nghệ không dây,
chat yahoo, game online…Và cũng như bất kỳ một thành tựu khoa học khác
của nhân loại, khi càng được ứng dụng rộng rãi trong đời sống xã hội sẽ càng
dễ bị lợi dụng, sử dụng hoặc là mục tiêu của bọn tội phạm. Trong đó phổ biến
nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin và đang có xu hướng ngày càng gia

tăng một cách đột biến trong những năm gần đây gây hậu quả nghiêm trọng
cho toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, giáo dục, an ninh
quốc phòng… Xuất phát từ thực trạng trên, nhằm góp phần đấu tranh phòng
3


chống loại tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin em mạnh dạn chọn đề
tài “ Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Thực trạng và giải pháp”
làm đề tài để nghiên cứu.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
3. Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian: Từ năm 2006 đến nay.
- Không gian: Trên cả nước.
4. Mục tiêu nghiên cứu:
- Phân tích, làm rõ thực trạng tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông
tin ở nước ta hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm phòng chống tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin ở nước ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận, thế giới quan của
chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời kết hợp các phương pháp tổng hợp, phân
tích tài liệu…
6. Bố cục:
Chương 1: Thực trạng tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
Chương 2: Dự báo và giải pháp nhằm phòng, chống tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin.

4



Chương 1
THỰC TRẠNG TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

1.1. Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
1.1.1. Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin:
Hiện nay, theo các chuyên gia về tội phạm học Việt Nam thì khái niệm
tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin được sử dụng với nội hàm gồm
hai nhóm tội phạm (Nguồn: Tìm hiểu về tội phạm khủng bố trong lĩnh vực
công nghệ thông tin - Nguyễn Mạnh Cường - Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư
pháp):
- Nhóm thứ nhất: Tội phạm công nghệ thông tin là các tội phạm mà
khách thể của tội phạm xâm hại đến hoạt động bình thường của máy tính và
mạng máy tính được quy định tại các điều 224, 225, 226, 226a Bộ luật Hình
sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm
2009).
- Nhóm thứ hai: Tội phạm sử dụng công nghệ thông tin gồm các tội
phạm truyền thống được quy định trong Bộ luật Hình sự nước cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009), khi thực hiện hành
vi phạm tội, người phạm tội sử dụng công nghệ thông tin làm công cụ,
phương tiện thực hiện hành vi phạm tội.
Các loại tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, đặc biệt là các
hành vi phạm tội thực hiện qua mạng máy tính chủ yếu là: trộm cắp cước phí
viễn thông, đánh cắp tiền trong tài khoản ngân hàng, lừa đảo trong thanh toán,
đánh cắp dữ liệu trái phép, xâm nhập, theo dõi hoạt động của hệ thống máy
tính khác trái phép, lợi dụng mạng máy tính để tiêu thụ ma tuý, hoạt động mại
dâm, tham gia thao túng thị trường chứng khoán, viết, phát tán và tấn công
khủng bố bằng virus đến các hệ thống máy tính khác, tuyên truyền thông tin
đồn nhảm, thất thiệt, tuyên truyền văn hoá phẩm độc hại, đồi trụy... Có thể nói

công nghệ thông tin có vai trò, mức độ nhất định trong việc thực hiện, che
giấu và gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Nhìn một cách tổng thể,
đối với loại tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, chúng ta thấy máy
tính và mạng máy tính đóng một số vai trò quan trọng trong quá trình phạm
tội. Dưới góc độ như là khách thể, hiểu theo nghĩa thông thường máy tính và
5


các thiết bị có liên quan là một loại tài sản có giá trị, do vậy nó có thể trở
thành đối tượng của các tội về xâm phạm quyền sở hữu như trộm, cướp hay
phá hoại tài sản. Hiểu theo một góc độ phức tạp hơn, máy tính với vai trò như
là khách thể còn được thể hiện trong việc tội phạm cố tình phá hoại hay ăn
cắp chúng nhằm xoá bỏ hoặc lấy cắp các thông tin mà nó chứa đựng. Dưới
góc độ là công cụ phạm tội, máy tính và mạng máy tính với những khả năng
ưu việt ngày càng được các loại tội phạm khác nhau sử dụng để thực hiện các
tội phạm truyền thống như tội đánh bạc, tội lừa đảo... hoặc sử dụng máy tính
làm trung gian chuyển tiền bất hợp pháp phục vụ cho các mục đích phi pháp
khác. Mặc dù, chúng ta phân chia vai trò của công nghệ thông tin đối với từng
quá trình diễn biến của tội phạm như trên, nhưng thực tiễn nhận thức về vấn
đề này rất khác nhau ở từng quốc gia, khu vực và phụ thuộc vào ý chí chính
trị, trình độ phát triển khoa học công nghệ của mỗi quốc gia, khu vực đó. Do
vậy, tuỳ thuộc vào nhận thức, khái niệm về tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin có thể hiểu rất rộng cũng có thể rất hẹp. Tiếp cận trên phạm vi rộng,
theo quan điểm này thì tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin gồm
những tội phạm sử dụng công nghệ thông tin làm mục đích của tội phạm, sử
dụng công nghệ thông tin làm công cụ phạm tội, sử dụng công nghệ thông tin
là vật trung gian để cất giấu, lưu trữ, phát tán những tư tưởng đối lập, tuyên
truyền thông tin đồn nhảm, thất thiệt, tuyên truyền văn hoá phẩm độc hại, đồi
truỵ... Quan điểm hiểu tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin theo phạm
vi này vấp phải một vấn đề khó khăn đó là cụ thể hoá các hành vi phạm tội để

từ đó xác định tội danh cụ thể cho các hành vi này. Đây là công việc không dễ
dàng vì đối với tội trong lĩnh vực công nghệ thông tin, khi định tội danh, xét
về bản chất nhiều tội danh lại trùng với các tội danh truyền thống như tội lừa
đảo, trộm cắp, đánh bạc…, có khác chăng ở đây là việc sử dụng mạng máy
tính làm công cụ phạm tội. Tiếp cận trên phạm vi hẹp, có nhà nghiên cứu cho
rằng tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin chỉ là tội phạm được thực
hiện và gây hậu quả trên môi trường ảo, thế giới ảo do thành tựu của khoa học
công nghệ tin học đem lại và nó hoàn toàn khác với các loại tội phạm truyền
thống trước kia. Bộ luật Hình sự năm 1999 (chưa sửa đổi) đã tiếp cận theo
quan điểm này. Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự 1999 (chưa sửa đổi) chỉ mới đề
cập đến 3 tội danh có liên quan đến máy tính (Điều 224, 225, 226). Trên thế
giới hiện nay đã xuất hiện thêm nhiều hành vi khác được coi là tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin hiểu theo nghĩa hẹp như: Tội đột nhập qua cửa
6


bằng mật khẩu ăn cắp, tội sao chép bất hợp pháp các chương trình phần mềm,
tội đe doạ tấn công hệ thống máy tính… Phương pháp tiếp cận theo phạm vi
hẹp này tuy có ưu điểm là định rõ được tội danh cần xử lý nhưng lại có nhược
điểm là rất dễ bỏ sót tội phạm, nhất là trong bối cảnh công nghệ thông tin
đang phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua. Một ví dụ điển hình là hiện nay
trên thế giới cũng như ngay tại Việt Nam đang tranh cãi về việc có coi hành vi
trộm cắp, lừa đảo tài sản mà người chơi (các game thủ) có được khi chơi trò
chơi trực tuyến hay không (trò chơi Võ lâm truyền kỳ ở Việt Nam là một điển
hình, game thủ có thể sở hữu những chiếc áo giáp, kiếm… nếu đánh thắng đối
thủ trong trò chơi). Nếu nhìn dưới góc độ thế nào là tài sản theo quy định của
pháp luật hiện hành, thì các “tài sản ảo” này hoàn toàn không có giá trị vì nó
thực chất không phải là tài sản thực mà chỉ là sản phẩm được tạo ra trong thế
giới ảo do những người xây dựng trò chơi trực tuyến nghĩ ra và xây dựng lên
thông qua phần mềm máy tính. Tuy nhiên, nếu xét dưới góc độ các tài sản này

do game thủ đã bỏ nhiều công sức để tạo lập được, cùng với tính chất có thể
“chiếm hữu, sử dụng và định đoạt” (thực chất chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt ở đây cũng chỉ là tương đối) và đặc biệt là những tài sản này có thể quy
đổi sang giá trị thực (có thể bán lại cho những người chơi khác với giá tiền rất
cao) thì chúng lại thực sự cần được coi là một tài sản thực và cần được pháp
luật bảo vệ trước các hành vi như lừa đảo, trộm cắp như đối với các tài sản
hữu hình khác. Mặt khác, nếu chỉ coi tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin giới hạn trong phạm vi thế giới ảo, môi trường điện tử do công nghệ
thông tin đem lại thì đối với những tội phạm truyền thống sử dụng thành tựu
công nghệ thông tin đem lại để thực hiện hành vi phạm tội, việc truy tìm dấu
vết, chính sách phòng ngừa, đấu tranh đối với hành vi này sẽ không có gì
khác so với phương pháp xử lý truyền thống, trong khi về bản chất thì các
hành vi phạm tội này khác hẳn, như kẻ phạm tội tống tiền trên mạng trong và
sau khi thực hiện hoàn toàn có thể xoá sạch dấu vết tội phạm bằng kỹ thuật
công nghệ tin học gây không ít khó khăn cho hoạt động điều tra, xử lý nếu các
phương pháp thu thập, bảo quản chứng cứ không được thay đổi cho phù hợp.
Chính vì mỗi quan điểm có những khiếm khuyết nhất định, nên hiện nay trên
thế giới vẫn chưa đi tới được một khái niệm hoàn chỉnh về tội phạm trong
lĩnh vực công nghê thông tin. Ngay về tên gọi có rất nhiều thuật ngữ khác
nhau, có tài liệu dùng thuật ngữ “tội phạm công nghệ thông tin”, “tội phạm sử
dụng công nghệ thông tin”, có trường hợp gọi là “tội phạm lợi dụng công
7


nghệ cao” hoặc “tội phạm máy tính”, “tin tặc”, “tội phạm mạng”, cũng có tác
giả gọi là “tội phạm khủng bố trong lĩnh vực công nghệ thông tin”... Đây là
những khái niệm mới không chỉ đối với Việt Nam chúng ta mà cả với nhiều
nước trên thế giới. Do vậy ngay từ việc sử dụng thuật ngữ đến việc đưa ra
khái niệm, đặc điểm đến việc xếp những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào
vào danh sách của loại tội phạm mới này cũng còn có nhiều ý kiến chưa đồng

nhất. Đây hiện được xem là một trong những mối quan ngại của cả cộng đồng
quốc tế và là thách thức mới đối với các nhà làm luật cũng như các cơ quan
thực thi pháp luật trong việc định ra những quy định phù hợp để có thể phòng
ngừa, đấu tranh một cách có hiệu quả loại tội phạm mới đặc biệt nguy hiểm
này. Ngay trong Chỉ thị 37/2004/CT-TTg ngày 08/11/2004 của Thủ tướng
Chính phủ về chỉ đạo tiếp tục thực hiện NQ09/CP và Chương trình “Quốc gia
phòng chống tội phạm”, giao Bộ Công an chủ trì xây dựng bổ sung 4 đề án
mới thuộc Chương trình “Quốc gia phòng chống tội phạm”, trong đó có đề
án: “Phòng chống các loại tội phạm sử dụng công nghệ cao”. Xét về bản chất
thì tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin là một bộ phận của tội phạm
công nghệ cao, cũng có đầy đủ các tính chất, đặc điểm như mọi tội phạm
truyền thống khác, nghĩa là cũng được coi là những hành vi nguy hiểm cho xã
hội và có 4 yếu tố cấu thành (khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ
quan của tội phạm).
- Khách thể của tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin: Tội phạm
trong lĩnh vực công nghệ thông tin sử dụng máy tính và mạng máy tính như là
công cụ để xâm phạm đến lợi ích chính đáng của cá nhân, pháp nhân, tổ chức,
ảnh hưởng đến trật tự công cộng. Đây là khách thể rất rộng và liên quan đến
các tội phạm truyền thống nhưng đã sử dụng các thành tựu của công nghệ
thông tin để thực hiện hành vi phạm tội. Với sự trợ giúp của khoa học kỹ
thuật mới, tội phạm này có thể gây ra những thiệt hại vô cùng nghiêm trọng
về nhiều mặt cho hoạt động bình thường của các cơ quan Nhà nước, các tổ
chức và đời sống xã hội, không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia.
Đồng thời tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin xâm phạm, làm ảnh
hưởng đến hoạt động bình thường của hệ thống máy tính, mạng máy tính và
thiết bị liên quan. Sự xâm phạm ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, từ việc làm
hỏng hóc, chiếm đoạt, làm sai lệch thông tin của máy tính, mạng máy tính,
các thiết bị liên quan cũng như các thông tin trong hệ thống máy tính và mạng
máy tính của các quốc gia (từ chiếc máy tính đơn nhất, các thiết bị của mạng
8



máy tính… đến các chương trình máy tính, các thông tin chứa đựng trong hệ
thống máy tính và hệ thống mạng). Do vậy, chúng ta có thể hiểu các hành vi
phạm tội trong lĩnh vực công nghệ thông tin tương ứng với nhóm khách thể
của các tội danh về tin học (điều 224, 225, 226, 226a, 226b). trong Bộ luật
Hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009).
- Mặt khách quan của tội phạm: Các hành vi của tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin rất đa dạng và phức tạp. Các hành vi này cũng phát
triển, thay đổi không ngừng cùng với sự phát triển của công nghệ mới. Bộ
luật Hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) tuy chưa quy
định khái niệm tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin nhưng có thể đưa
loại tội phạm này vào 5 nhóm hành vi theo 5 tội mà Bộ luật Hình sự 1999
(sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định về công nghê thông tin, đó là:
+ Nhóm hành vi tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình virus
qua mạng máy tính hoặc bằng các phương thức khác. Tạo ra các chương trình
virus là hành vi sản xuất ra các chương trình virus tin học. Lan truyền các
chương trình virus là hành vi truyền đi các chương trình virus tin học thông
qua mạng máy tính trong nước hoặc quốc tế (Internet). Phát tán các chương
trình virus là hành vi truyền các chương trình virus tin học không thông qua
hệ thống mạng máy tính mà bằng các sản phẩm phần mềm máy tính (Điều
224 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009).
+ Nhóm hành cản trở hoặc gây rối loạn mạng máy tính điện tử, mạng
viễn thông, mạng Internet, thiết bị số trái với các quy định của Nhà nước
(Điều 225 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009).
+ Nhóm hành vi đưa hoặc sử dụng thông tin trên mạng và trong máy
tính trái với các quy định của Nhà nước. Sử dụng thông tin trên mạng và
trong máy tính trái quy định là hành vi sử dụng trái phép thông tin trong các
dữ liệu của máy tính không được phép của cơ quan Nhà nước hoặc người có
thẩm quyền. Đưa trái phép vào mạng máy tính các thông tin là hành vi đưa

các thông tin vào trong dữ liệu của máy tính mà không được phép của cơ
quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền (Điều 226 Bộ luật Hình sự năm
1999 sửa đổi bổ sung năm 2009).
+ Nhóm hành vi truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng Internet, thiết bị số của người khác (Điều 226a Bộ luật Hình sự
năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009).
9


+ Nhóm hành vi phạm tội truyền thống như hành vi lừa đảo, khủng bố,
tống tiền, quấy rối tình dục, mại dâm, đánh bạc… qua hệ thống máy tính, sử
dụng công nghệ thông tin vào quá trình thực hiện hành vi phạm tội (Điều
226b Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009).
Thông thường, các hành vi phạm tội trong lĩnh vực công nghệ thông tin phải
gây ra hậu quả nhất định thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví dụ như
Điều 224 Bộ luật Hình sự 1999 quy định nếu chỉ tạo ra các chương trình vi rút
nhưng không lan truyền hoặc phát tán chúng, không gây ra hậu quả thì không
cấu thành tội phạm.
- Chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin: Cũng giống
như các tội phạm truyền thống khác, chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin là những người ở độ tuổi có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định là công dân Việt Nam, người nước ngoài,
người không có quốc tịch từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình
sự. Đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, các chủ thể thường
là những người có hiểu biết về công nghệ máy tính, công nghệ mạng và đã lợi
dụng sự hiểu biết này để thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, cũng có
trường hợp chủ thể là những người không hiểu biết đầy đủ về các quy định
liên quan đến truy cập bất hợp pháp, vận hành, khai thác và sử dụng mạng
máy tính điện tử dẫn đến những thiệt hại. Hiện nay, một vấn đề đáng lưu ý là
đối với chủ thể của nhóm tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin là tình

trạng ngày càng “trẻ hoá” của các tin tặc. Với sự phát triển của công nghệ
thông tin và các chương trình phần mềm, giới trẻ luôn là thế hệ tiếp cận và
nhận biết nhanh nhạy những công nghệ mới cộng với tính cách còn bồng bột,
thích thể hiện mình nên rất dễ dẫn đến việc rơi vào con đường phạm tội với
những động cơ, mục đích hết sức đơn giản, ngây thơ, chẳng hạn tạo ra và phát
tán vi rút tin học để đùa vui, hoặc thâm nhập vào các trang thông tin mật của
quốc gia để thể hiện khả năng của bản thân hoặc do bị xúi giục, mua chuộc…
- Mặt chủ quan của tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin:
Thường được thực hiện do lỗi cố ý. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm xảy ra
các thiệt hại. Trong trường hợp tuy hành vi vi phạm chưa gây ra hậu quả
nghiêm trọng nhưng trước đó đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn
vi phạm thì vẫn cấu thành tội phạm. Các yếu tố về động cơ, mục đích phạm
tội của nhóm các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin thường không
phải là dấu hiệu bắt buộc mà yếu tố quan trọng nhất để xác định hành vi có
10


cấu thành tội phạm là hậu quả xảy ra. Sở dĩ như vậy vì chúng ta có thể thấy
động cơ, mục đích của nhóm tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin có
thể đơn giản nhưng lại gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng. Do đó, đối với
nhóm tội phạm này, chúng ta không thể coi động cơ, mục đích là dấu hiệu bắt
buộc, chỉ nên coi chúng là những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ có liên
quan mà thôi. Từ những nhận thức lý luận trên, có thể đưa ra khái niệm: “Tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin là hành vi vi phạm pháp luật hình sự
do người có năng lực trách nhiệm hình sự sử dụng những thành tựu mới của
công nghệ thông tin làm công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã
hội, gây nguy hiểm cho xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và của
công dân”.
1.1.2. Các quy định trong bộ Luật Hình Sự về phòng, chống tội phạm

trong lĩnh vực công nghệ thông tin ở nước ta:
Trong Bộ Luật Hình Sự năm 1999 (chưa sửa đổi bổ sung) có ba điều
224, 225, 226 quy định tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin:
- Điều 224: Tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình virus.
- Điều 225 Tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng
mạng máy tính điện tử.
- Điều 226: Tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy
tính.
Với ba điều này các tội trong lĩnh vực công nghệ thông tin được khái
quát hóa, vì vậy điều kiện pháp lý để xử lý các tội phạm trong lĩnh vực này
còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng để lọt tội phạm vẫn còn diễn ra khá phổ
biến.
Bộ Luật Hình Sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) có năm điều
224, 225, 226a, 226b quy định tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
- Điều 224: Tội phát tán vi rút, chương trình tin học có tính năng gây
hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet, thiết
bị số.
- Điều 225: Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, mạng Internet, thiết bị số.
- Điều 226: Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trái phép thông tin
trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet.
11


- Điều 226a: Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy
tính, mạng viễn thông, mạng Internet, thiết bị số.
- Điều 226b: Tội truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng Internet, thiết bị số của người khác.
Với năm điều trên, các tội trong lĩnh vực công nghệ thông tin được cụ
thể hóa hơn, pháp luật Hình sự đã đi sâu hơn vào lĩnh vực công nghệ thông

tin, tạo hành lang pháp lý góp phần hạn chế tội phạm trong lĩnh vực này.
Cũng với việc sửa đổi bổ sung them các điều, khoản mới này, cơ quan chức
năng đã xử lý thêm được nhiều trường hợp với nhiều tội danh mới. Tuy nhiên
để đấu tranh triệt để với loại tội phạm lĩnh vực công nghệ thông tin thì cần
hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này, tạo điều kiện pháp lý
thuận lợi để xử lý các vi phạm.
1.1.3. Các quy định pháp luật về phòng chống tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin của một số nước trên thế giới.
Trước tiên cần khẳng định rằng phạm tội trong môi trường thực, trên
Internet đều giống nhau về bản chất, chỉ khác nhau về phương thức thực hiện.
Vì thế, các luật áp dụng trong môi trường thực đều có thể áp dụng trên môi
trường Internet. Chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng những khái niệm, điều
khoản của môi trường thực để áp dụng vào môi trường Internet. Ở nhiều nước
trên thế giới, các văn bản pháp luật quy định về tội phạm công nghệ cao rất cụ
thể, rõ ràng, nhất là trong Bộ luật Hình sự. Có thể đưa ra một số ví dụ để so
sánh:
- Bộ luật hình sự Liên bang Nga dành hẳn một chương (Chương 28)
quy định về các tội phạm thông tin máy tính, gồm 3 nhóm hành vi: Thâm
nhập vào hệ thống thông tin máy tính trái phép; sản xuất, sử dụng và phát tán
các phần mềm máy tính có hại; vi phạm các quy định về vận hành mạng và hệ
thống máy tính.
- Bộ luật hình sự Belarus quy định các tội phạm này trong Chương 31
“Các tội phạm về an toàn thông tin”, trong đó quy định 6 nhóm hành vi:
Thâm nhập vào hệ thống thông tin máy tính trái phép, sửa đổi các thông tin
của hệ thống máy tính, phá hoại thông tin máy tính, phát triển, sử dụng và
phát tán các chương trình máy tính gây hại, vi phạm các quy định về vận hành
mạng và hệ thống máy tính.
- Theo luật của Liên bang Australia, hành vi phá huỷ, hoá bỏ hoặc làm
thay đổi dữ liệu lưu trữ trong máy tính hoặc đưa thêm dữ liệu vào máy tính
12



một cách bất hợp pháp có thể bị xử phạt đến 10 năm tù hoặc có thể bị phạt
tiền đến 48.000USD.
- Bộ luật hình sự Nhật Bản dành một số điều luật quy định về các hành
vi phạm tội liên quan đến lĩnh vực tin học, như: Điều 162-2 về tội làm giả dữ
liệu điện tử và cung cấp dữ liệu ấy; Điều 234-2 về tội làm hư hại máy tính để
cản trở nghiệp vụ; Điều 246-2 về tội lừa đảo bằng cách sử dụng máy tính...
Trong đó mức hình phạt nghiêm khắc là tù khổ sai đến 10 năm hoặc phạt tiền
với mức cao.
- Bộ luật hình sự của Canada cũng quy định tại Điều 342.1 nhằm điều
chỉnh tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin như: Người nào sử dụng
phương tiện máy tính gây rối loạn chức năng của hệ thống máy tính một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp, sử dụng hoặc cho người khác sử dụng mã số truy cập
để người này thực hiện hành vi gây rối loạn chức năng của hệ thống máy tính
thì bị phạt tù không quá 10 năm.
- Luật số 9.983 ngày 17/7/2000 của Braxin cũng tội phạm hoá hành vi
đưa dữ liệu sai vào hệ thống thông tin, theo đó: Người nào đưa thông tin sai
lệch vào hệ thống thông tin thì có thể bị phạt tù từ 2 đến 12 năm (Điều 313A); Người nào thay đổi trái phép hệ thống thông tin hoặc chương trình máy
tính thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm (Điều 313-B).
- Luật chống lạm dụng máy tính năm 1990 của Vương quốc Anh coi là
tội phạm đối với các hành vi như truy cập trái phép (Người nào truy cập trái
phép vào máy tính hoặc thực hiện các biện pháp để truy cập trái phép vào
mạng máy tính thì bị phạt tù không quá 6 tháng - Điều 1); truy cập trái phép
để thực hiện hành vi phạm tội (Người nào truy cập trái phép vào hệ thống
máy tính để thực hiện các hành vi phạm tội mà luật hình sự đã quy định thì bị
phạt tù không quá 5 năm - Điều 2); thay đổi dữ liệu một cách trái phép
(Người nào thay đổi trái phép các dữ liệu được lưu trữ trong hệ thống máy
tính hoặc ngăn cản người khác truy nhập vào dữ liệu thì bị phạt tù đến không
quá 5 năm - Điều 3).

- Bộ luật hình sự của nước Pháp cũng quy định: Người nào truy cập trái
phép hệ thống xử lý thông tin tự động thì bị phạt tù không quá 1 năm và bị
phạt tiền không quá 100.000 Franc. Trường hợp dữ liệu bị xâm hại bởi hành
vi này thì người thực hiện hành vi sẽ bị phạt tù không quá 2 năm và bị phạt
tiền không quá 200.000 Franc (Điều 323-1); hành vi gây rối sự vận hành của
hệ thống xử lý thông tin tự động thì bị phạt tù không quá 3 năm và bị phạt
13


tiền không quá 300.000 Franc (Điều 323-2); hành vi đưa dữ liệu trái phép vào
hệ thống xử lý thông tin tự động làm dữ liệu trong hệ thống xử lý thông tin bị
xâm hại hoặc thay đổi thì bị phạt tù không quá 3 năm và bị phạt tiền không
quá 300.000 Franc (Điều 323-3).
- Bộ luật hình sự của nước Đức tội phạm hoá hành vi chiếm đoạt dữ
liệu cụ thể như sau: Người nào chiếm đoạt trái phép dữ liệu của người khác
mà dữ liệu này được bảo hộ thì bị phạt tù không quá 3 năm (Điều 202a); hành
vi thay đổi dữ liệu: Người nào xoá, làm hỏng, làm cho không còn giá trị, thay
đổi dữ liệu thì bị phạt tù không quá 2 năm (Điều 303a); hành vi phá hỏng hệ
thống máy tính: Người nào can thiệp trái phép vào quá trình xử lý dữ liệu
quan trọng của doanh nghiệp hoặc cơ quan nhà nước bằng việc phá huỷ, làm
hỏng, xoá bỏ hệ thống máy tính hoặc vật mang dữ liệu thì bị phạt tù không
quá 5 năm (Điều 303b).
- Tại Trung Quốc, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Nghị định số 147
ngày 18/2/1994 về Quy chế an toàn thông tin máy tính quy định trách nhiệm
xử phạt đối với hành vi vi phạm như sau: Tổ chức An ninh công cộng có thể
cảnh cáo hoặc phạt tiền tới 5.000 NDT đối với cá nhân và tới 15.000 NDT đối
với tổ chức trong trường hợp cá nhân, tổ chức đưa virus máy tính hoặc các dữ
liệu độc hại khác làm ảnh hưởng tới an ninh mạng thông tin. Tổ chức, cá nhân
bán trái phép các sản phẩm bảo vệ an ninh máy tính sẽ bị phạt từ 1 đến 3 lần
thu nhập bất hợp phá. Thu nhập bất hợp pháp bị tịch thu (Điều 23).

1.2. Thực trạng tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin ở
nước ta hiện nay.
1.2.1. Tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin ở nước ta
hiện nay:
Năm 2006 đánh dấu sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào nền
kinh tế thế giới. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế cũng kéo
theo sự xuất hiện các loại tội phạm mới dưới nhiều hình thức và ngày càng
tinh vi. Sự phát triển của nền kinh tế kéo theo sự phát triển vượt bậc của
ngành công nghệ thông tin. Và sự xuất hiện của tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin là điều tất yếu. Đây là loại tội phạm sử dụng công nghệ thông
tin làm công cụ, phương tiện để gây án.
Theo thống kê của cơ quan chức năng, trong tháng 7/2009 đã có
5.345.000 lượt máy tính bị lây nhiễm virus. Trong đó có 89 website của các
cơ quan, doanh nghiệp lớn tại Việt Nam đã bị tin tặc (hacker) xâm nhập, gồm
14


16 trường hợp gây ra bởi hacker trong nước, 73 trường hợp do hacker nước
ngoài. Ngoài ra, các chuyên gia an ninh mạng cũng đã cảnh báo lỗ hổng
nghiêm trọng tại website của 8 doanh nghiệp, cơ quan thuộc Chính phủ.
Trong khi đó, nhiều người sử dụng đã không thể truy cập website của các
công ty cung cấp phần mềm diệt virus, trong khi vẫn vào được báo điện tử
hoặc các trang web tìm kiếm. Theo nghiên cứu của các chuyên gia, nguyên
nhân của hiện tượng này là do máy tính đã bị nhiễm virus, loại virus này đã
cản trở truy cập đến tên miền của các phần mềm diệt virus. Đã có tới 113
dòng virus loại này được phát tán lên mạng trong tháng qua, lây nhiễm trên
183.000 máy tính. Nhiều nhất là các dòng virus DNSChanger, Conficker,
OnlineGame.
Hàng chục ngàn nạn nhân bị lừa đảo đầu tư tài chính qua mạng. Gần
trăm ngàn khách hàng Anh, Mỹ bị thiệt hại số tiền lên đến 160 triệu bảng Anh

do bị hai tin tặc người Việt đánh cắp thông tin thẻ tín dụng bán cho tội phạm
quốc tế. “Với xu hướng rồi đây tất cả các lĩnh vực hoạt động trong cuộc sống
sẽ được thực hiện, giao dịch trên mạng, thì bọn tội phạm cũng sẽ triệt để sử
dụng công nghệ cao làm phương tiện hành động”. Tiến sỹ, thượng tá Trần
Văn Hoà - Trưởng phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm Công nghệ cao
thuộc C15 Bộ Công an nhận định. Theo ông Hoà, từ những loại tội phạm đơn
thuần như trộm cắp, đánh bạc, tổ chức đánh bạc, môi giới mại dâm, lừa đảo...
đến các tội đặc biệt nghiêm trọng như buôn bán ma tuý, khủng bố và rất nhiều
loại tội phạm xâm phạm an ninh - quốc phòng khác đã xuất hiện trên mạng và
có xu hướng phát triển nhanh. Theo dự đoán của cơ quan công an, tội phạm
trong lĩnh vực công nghệ thông tin cũng sẽ xuất hiện trên thị trường chứng
khoán, một lĩnh vực phát triển rất sôi động tại Việt Nam năm vừa qua.
Một loại tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin khác đã và đang phát
triển rất mạnh là sử dụng công nghệ thông tin, máy tính để thực hiện các hành
vi như tấn công hoạt động bình thường và an toàn của máy tính và hệ thống
mạng, tạo ra và phát tán các chương trình virus; tội vi phạm các quy định về
vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính… Với chức năng đúng như tên
gọi, năm qua Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm Công nghệ cao đã khám
phá nhiều vụ án lừa đảo trên mạng, làm giả thẻ tín dụng, trộm cước viễn
thông, đe dọa khủng bố tinh thần qua tin nhắn và thư điện tử nặc danh v.v...
Chưa có cơ quan nào đưa ra con số thống kê thiệt hại do tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin gây ra (có thể lên đến hàng ngàn, hàng triệu hay
15


hàng tỷ USD), bởi theo thượng tá Trần Văn Hòa, những thiệt hại vô hình rất
khó định lượng. Trong các phương thức tấn công website thì tấn công từ chối
dịch vụ (DDOS-Botnet) là phương thức tấn công nguy hiểm nhất của tội
phạm mạng. Kẻ tấn công không trực tiếp ra mặt mà chỉ cần tải một file chứa
lệnh tấn công dưới dạng một hình ảnh bắt mắt, một bài hát hoặc một thông tin

hấp dẫn lên mạng để mọi người click vào đó. Vô tình, các máy tính click vào
file trên trở thành máy tấn công trang web mà người dùng không hay biết.
Hậu quả là có thể có hàng triệu máy tính cùng tấn công, truy cập vào trang
web trên theo tần suất mà tin tặc đã cài lệnh sẵn, khiến trang web này bị tê
liệt. Một thiệt hại khác không tính được bằng tiền đó là uy tín, thương hiệu
của các Công ty, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin,
viễn thông. Mạng Mobifone đã từng bị hacker tấn công cơ sở dữ liệu, đánh
cắp số đẹp v.v... Trang web của Sở Kế hoạch và Đầu tư cũng từng bị hacker
tấn công, hậu quả là các doanh nghiệp không thể đăng ký kinh doanh qua
mạng được. Sau một tuần điều tra, C15 Bộ Công an đã tóm gọn thủ phạm là
Giám đốc một Công ty chuyên tư vấn thành lập doanh nghiệp.
Với thủ đoạn tấn công vào cơ sở dữ liệu của trang web, đối tượng này
đã thu thập được danh sách các cá nhân, đơn vị đang xin cấp đăng ký kinh
doanh qua mạng, rồi gửi email cho những người này, yêu cầu phải thông qua
họ, nộp một khoản lệ phí mới được cấp đăng ký kinh doanh...
Gần đây nhất, vụ nữ diễn viên thủ vai chính trong bộ phim truyền hình giáo
dục giới trẻ “Nhật ký Vàng Anh” bị tung phim sex lên mạng đã gây xôn xao
dư luận và tốn không ít giấy mực của báo chí...cũng không phải là cá biệt.
Năm qua, Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm Công nghệ cao đã từng điều
tra, bắt giữ một số vụ tương tự, song vì lý do tế nhị, các nạn nhân không
muốn để lộ danh tính. Theo thượng tá Trần Văn Hoà, để có thể xử lý hình sự
những vụ việc như thế này thường phải có dấu hiệu vi phạm rõ rệt, đối tượng
lấy trộm được phim, ảnh khỏa thân của nạn nhân và phát tán lên mạng, có đơn
tố cáo của bị hại... Để tránh những vụ việc như vụ “Vàng Anh” tái diễn, ông
Hoà cho rằng, nguyên tắc hàng đầu là các cá nhân không nên sản xuất các
phim, ảnh nhạy cảm. Khi phim đã lưu trong máy tính thì chỉ một sơ suất nhỏ
khi lên mạng cũng có thể trở thành mồi ngon cho các phần mềm gián điệp
chuyên đánh cắp dữ liệu... Đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin là thủ phạm có thể ngồi một chỗ để gây án, tấn công vào bất kỳ nơi
nào trên thế giới, không xuất đầu lộ diện, chỉ để lại rất ít dấu vết (là những

16


chứng cứ điện tử, rất khó phát hiện, thu thập, rất dễ bị tiêu hủy), khâu chuẩn
bị gây án đơn giản, thời gian gây án thường rất ngắn, tính quốc tế hóa rất cao.
1.2.2. Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình điều tra, truy tố, xét
xử.
Tội phạm trên mạng Internet theo như các tính toán của các chuyên gia,
nó gây thiệt hại cho nền kinh tế của các quốc gia không kém bất kỳ một loại
tội phạm nào. Nguy hiểm là vậy nhưng thật đáng báo động là hầu hết các
quốc gia trên thế giới lại vẫn chưa hành động quyết liệt đúng mức để ngăn
chặn nó. Thậm chí thứ “vũ khí” cơ bản nhất là hệ thống luật và các chế
tài vẫn chưa được hoàn thiện và điều chỉnh một cách đầy đủ. Để điều tra
và xử lý loại tội phạm trong lĩnh vực này là một quá trình khó khăn và
phức tạp.
- Quản lý còn lỏng lẻo:
Lừa đảo dưới dạng hoạt động đầu tư tài chính đa cấp qua mạng internet,
điển hình là vụ Colony, xảy ra trên 38 tỉnh, thành phố. Sơ hở trong quản lý và
quản trị hệ thống của ngân hàng cũng đã gây ra một số vụ đối tượng làm trái
quy định trong kinh doanh ngoại tệ trên mạng, gây thiệt hại cho ngân hàng
Việt Nam. Một số trường hợp, đối tượng đột nhập vào mạng ngân hàng, ăn
cắp mật khẩu, tạo lệnh chuyển tiền giả nhằm đánh cắp, tham ô tiền của ngân
hàng. Trong lĩnh vực chứng khoán, đã xảy ra các hành vi thông đồng, cấu kết,
cùng một lúc vừa đặt lệnh mua, vừa đặt lệnh bán với khối lượng lớn để thao
túng giá, vào các website để sửa thông tin doanh nghiệp. Từ năm 2007 đến
nay, Thanh tra Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã phát hiện xử lý hành chính
trên 125 vụ vi phạm theo hình thức này. Theo điều tra, nghiên cứu của Cục
Cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế, có một số nguyên nhân của những vụ vi
phạm trong các lĩnh vực này:
Thứ nhất, đầu tư trang bị công nghệ thông tin của các ngành, các cấp

còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ.
Thứ hai, con người sử dụng công nghệ thông tin còn yếu, cán bộ quản lý
trong lĩnh vực công nghệ thông tin còn thiếu hoặc trình độ nghiệp vụ chưa
cao, chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập.
Thứ ba, Luật pháp về các lĩnh vực chưa đáp ứng khi công nghệ thông tin
ra đời và áp dụng rộng rãi tại Việt Nam. Quản lý Nhà nước về áp dụng công
nghệ thông tin và các văn bản hướng dẫn dưới luật cũng chưa quy định chặt
17


chẽ. Bộ luật hình sự và Tố tụng hình sự cũng chưa quy định về lĩnh vực công
nghệ thông tin.
Thứ tư, Tội phạm lại đánh trúng vào lòng tham của người dân, nhà đầu tư
kinh doanh. Bên cạnh đó nhận thức của người dân về loại tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin còn chưa cao.
Đối với hoạt động kinh doanh đầu tư tài chính, vàng, ngoại tệ qua mạng
internet, theo ông Bùi Văn Hà, Phó cục trưởng Cục Phòng chống tội phạm
công nghệ cao - Bộ Công an, đây thực chất là loại hình kinh doanh tài khoản.
ở các nước có nền kinh tế phát triển, các loại hình kinh doanh trên là bình
thường, do các tập đoàn tài chính được phép thực hiện. Tại Việt Nam, hiện
nay Ngân hàng Nhà nước chỉ thí điểm cấp giấy phép kinh doanh vàng trên tài
khoản cho 15 ngân hàng và doanh nghiệp, còn việc mua bán ngoại tệ trên tài
khoản là nghiệp vụ kinh doanh của các ngân hàng thương mại. “Thời gian qua,
Ngân hàng Nhà nước chưa có biện pháp tích cực và chủ động để giải thích,
hướng dẫn cho doanh nghiệp và nhân dân”, ông Hà nhận xét. Trong thời gian
qua, mặc dù khó khăn về nhiều mặt, lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm kinh
tế đã đấu tranh hiệu quả với những vụ án này. Nhận xét về công tác phối hợp
giữa lực lượng công an và ngân hàng tài chính, Thứ trưởng Bộ Công an,
Thượng tướng Lê Thế Tiệm, cho rằng, sự phối hợp của ngành công an và ngân
hàng tài chính trong thời gian qua bước đầu là khá tốt, ngăn chặn được nhiều

vụ, nhưng với đòi hỏi của tình hình mới, phối hợp của chúng ta chưa đúng,
chưa đúng tầm, số vụ được phát hiện còn thấp so với tiềm ẩn.
- Hệ thống pháp luật về công nghệ thông tin còn thiếu:
Về cơ sở pháp lý, Bộ Luật hình sự năm 1999 đã sửa đổi bổ sung năm
2009 đã thêm ba điều luật liên quan đến lĩnh vực công nghệ thông tin. Tuy
nhiên, chỉ với ba điều luật nói trên, Bộ luật hình sự hiện hành không thể bao
quát hết mọi hành vi phạm tội thực hiện thông qua sử dụng công nghệ thông
tin, nhất là các hành vi phạm tội trong lĩnh vực công nghệ thông tin đang xảy
ra một cách phổ biến. Hành vi lợi dụng hoạt động đầu tư tài chính đa cấp,
mua bán vàng, ngoại tệ thông qua mạng internet để thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản nói riêng cũng như một số tội phạm sử dụng công nghệ thông tin
để chiếm đoạt tài sản nói chung có thể bị xử phạt hình sự theo các quy định
truyền thống của Bộ Luật hình sự về chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, “do các
hành vi này có đặc thù là sử dụng máy tính, mạng internet như một công cụ
phạm tội nên nếu vẫn giữ chính sách, phương pháp truyền thống để xử lý các
18


loại tội phạm này thì sẽ có nhiều điểm bất cập”, bà Đỗ Thúy Vân, Vụ Pháp
luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp cho biết. Bởi vì, về bản chất, các tội
phạm này được thực hiện với nhiều thủ đoạn rất tinh vi, sau khi thực hiện
xong hoàn toàn có thể xóa sạch các chứng cứ bằng cách sử dụng công nghệ
tin học. Theo bà Vân, việc này sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, xét xử
thậm chí nhiều trường hợp có thể bó tay nếu chúng ta cứ áp dụng các phương
pháp điều tra, thu thập chứng cứ truyền thống. Trong lần sửa đổi bổ sung Bộ
luật Hình sự năm 2009 đã nghiên cứu bổ sung tội sử dụng mạng viễn thông,
mạng máy tính, mạng Internet hoặc thiết bị số để thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản vào Dự thảo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình
sự. Về pháp luật tố tụng hình sự, Bộ Tư pháp kiến nghị xem xét đối với loại
tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin với đặc trưng là thực hiện tội

phạm với những phương thức hết sức tinh vi, và dễ dàng sử dụng công nghệ
cao để xóa dấu vết sau khi thực hiện tội phạm, chúng ta nên thay đổi quan
niệm về chứng cứ và cách thức thu thập chứng cứ truyền thông. Nghĩa là, cần
bổ sung loại chứng cứ là dữ liệu điện tử có thể bao gồm hình ảnh, file mềm,
video, các dữ liệu được lưu trong máy tính, mạng máy tính... Bên cạnh đó, đối
với loại tội phạm sử dụng công nghệ thông tin, cơ quan này cũng cho rằng,
cần trao quyền cho cơ quan điều tra được sử dụng các kỹ thuật điều tra đặc
biệt để thu thập chứng cứ, ví dụ, sử dụng kỹ thuật công nghệ máy tính để
phục hồi lại các dữ liệu đã bị xóa..., cũng như quyền hạn ở phạm vi rộng hơn
liên quan đến hoạt động thu thập các chứng cứ ở dạng dữ liệu điện tử. Ví dụ,
quyền yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ mạng cung cấp thông tin, quyền truy
cập máy tính và lấy dữ liệu.
- An ninh mạng còn yếu:
Môi trường mạng của Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập, an ninh
mạng ở Việt Nam rất yếu. Theo điều tra của Trung tâm An ninh mạng –
BKAV, hiện có khoảng 26% website của Việt Nam có thể gặp nguy hiểm với
hình thức tấn công trực tiếp. Có nhiều lỗ hổng trong các website và nhiều
trang đã bị các “hacker” đột nhập. Thực tiễn đã có nhiều cuộc tấn công trên
mạng hướng vào các doanh nghiệp hoạt động thương mại điện tử gây thiệt hại
đáng kể. “Bức tường lửa” của các website các doanh nghiệp, cơ quan nhà
nước dễ dàng bị các hacker vượt qua để chỉnh sửa, lấy thông tin trái phép.
- Tội phạm “hội nhập” nhanh:
19


Thời gian gần đây, cảnh sát và các cơ quan chức năng ở Việt Nam đã
quen dần với những khiếu nại của người nước ngoài bị tội phạm Việt Nam lấy
mật khẩu tài khoản ngân hàng và sử dụng trái phép số tiền trong tài khoản.
Theo ông Trần Văn Hòa, trưởng phòng Chống Tội Phạm công nghệ cao, cục
Cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế, bộ Công An (C15), mối liên kết giữa tội

phạm trong nước với tội phạm nước ngoài ngày càng rõ nét. Thậm chí phần
lớn các vụ phạm tội có sử dụng công nghệ thông tin và nạn nhân ở Việt Nam
là có sự liên kết với người nước ngoài. Các loại tội phạm công nghệ thông tin
xuất hiện trên thế giới gần như đồng thời xuất hiện ở Việt Nam và gây nguy
hại chung cho nền kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước.
Trong năm 2006, phòng Chống tội phạm công nghệ cao phát hiện được khá
nhiều vụ phạm pháp sử dụng công nghệ thông tin, trong đó điển hình là vụ Vũ
Ngọc Hà (trú tại Hải Phòng) dùng thủ đoạn trộm cắp địa chỉ e-mail, thông tin
cá nhân, thông tin tài khoản tín dụng, mật mã truy cập của người nước ngoài
(chủ yếu là người Úc) qua mạng Internet để ăn cắp tiền trong tài khoản. Ngoài
Hà, 10 đối tượng khác (đều là sinh viên tin học) ăn cắp tiền từ thẻ tín dụng
của người nước ngoài đã bị bắt.
Cũng trong năm 2006, trưởng văn phòng đại diện công ty Golden Rock tại
Thành phố Hồ Chí Minh Stanley Elliot Tan (quốc tịch Canada) và giám đốc
tài chính Patrick Chang đã lừa đảo bằng thủ đoạn mời khách hàng góp vốn
vào tài khoản của công ty mẹ ở Thụy Sĩ. Khoảng 1.000 khách hàng đã bị lừa
với tổng số tiền gần 10 triệu USD.
Các tội phạm đã móc nối, “hội nhập” với nhau rất nhanh qua Internet. Thậm
chí, nhiều thủ đoạn còn được công khai hướng dẫn trên các diễn đàn của giới
hacker. Trong số các hình thức tấn công, nguy hiểm nhất là lấy cắp thông tin
tài khoản, tấn công cơ sở dữ liệu. Trong thời buổi người người kết nối, tội
phạm càng có đất tung hoành. Chúng phá hoại, ăn cắp thông tin đến từng máy
tính cá nhân chứ không chỉ nhắm vào cơ sở dữ liệu của doanh nghiệp.
Bên cạnh loại tội phạm sử dụng công nghệ thông tin vì mục đích kinh tế thì
nguy hiểm hơn là loại tội tội phạm sử dụng công nghê thông tin vì mục đích
chính trị. Lợi dụng Internet để chống phá nhà nước: Vụ do Trần Quốc Hiền
(tức Ba Tam, Ba Dũng, Giám đốc công ty Tư vấn luật Sài Gòn thực hiện.
Hiền sử dụng Internet móc nối với Đỗ Nam Hải và tham gia vào nhóm lập ra
tuyên ngôn: “Tự do dân chủ Việt Nam” (gọi tắt là khối 8406) do Đỗ Nam Hải
làm đại diện phía Nam, miền Trung có linh mục Nguyễn Văn Lý, miền Bắc

20


có Trần Anh Kim. Trần Quốc Hiền đã thể hiện những hành vi gây bất ổn
chính trị, đòi xóa bỏ điều 4 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, đòi thực hiện đa đảng… Mới đây nhất, vào tháng 12/2009 cơ quan chức
năng, tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình đã bắt giữ và xử lý Trần Anh Kim với
tội danh chống chính quyền nhân dân với cách thức móc nối với các đối
tượng nước ngoài, sử dụng mạng internet viết và phát tán tài liệu, bài báo có
nội dung xuyên tạc, phản động.
Chương 2
DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM
TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

2.1. Dự báo.
Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, tội phạm mạng ở Việt
Nam đang gia tăng một cách nhanh chóng. Việc phòng chống loại tội phạm
này đã và đang đặt các cơ quan chức năng cũng như cộng đồng mạng trước
những thách thức mới.
2.1.1. Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin ở nước ta có xu
hướng ngày càng gia tăng một cách đột biến.
Cùng với việc hội nhập, ứng dụng công nghệ thông tin ở Việt Nam
đang được đẩy mạnh trên mọi lĩnh vực, đây cũng là điều kiện làm gia tăng các
loại tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt
là trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Số lượng và các loại án trên mạng đang
ngày càng gia tăng cả về phạm vi, quy mô cũng như hậu quả. Các tội phạm sử
dụng công nghệ thông tin đang là bài toán khá nan giải cho các cơ quan chức
năng, cơ quan tư pháp hình sự mà trước hết là lực lượng trinh sát, các cơ quan
điều tra. Tội phạm liên quan đến máy tính xuất hiện ngày càng nhiều. Việc sử
dụng thành tựu của công nghệ thông tin trong các thủ đoạn tội phạm nhất là

lừa đảo, tham ô, trộm cắp tài sản thông qua hệ thống tín dụng, ngân hàng… là
những vấn đề đang và sẽ đặt ngành công an và các cơ quan tư pháp trước
những thách thức mới. Đối tượng của tội phạm này là hệ thống mạng thông
tin nội bộ, mạng quốc gia, kể cả các cơ quan an ninh, quốc phòng, các cơ sở
dữ liệu về tài chính, ngân hàng, giao thông, năng lượng, thông tin liên lạc, hệ
thống thương mại điện, Hệ thống kinh doanh điện tử, các hệ thống tự động
21


hoá bán hàng, thanh toán (ATM)… Hiện đang hình thành ngày càng rõ nét
hơn sự phối hợp của bọn tội phạm trong nước và quốc tế tấn công vào các
mạng máy tính. Việc xác định, truy tìm dấu vết đối tượng đòi hỏi phải có sự
phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan điều tra trong và ngoài nước.
Thời gian gần đây, số lượng những vụ vi phạm pháp luật trên mạng internet
trong các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, đầu tư tài chính… tăng một cách
đột biến về cả số lượng và tính chất. Trong một nền kinh tế đang phát triển và
hội nhập, đấu tranh với đối tượng tội phạm này là một thách thức đối với lực
lượng cảnh sát kinh tế. Không chỉ thiếu sức người và hạn chế tầm công nghệ,
cơ sở pháp lý còn là cản trở lớn trong công tác đấu tranh phòng chống loại tội
phạm này. Thực tế đã xảy ra khá nhiều vụ vi phạm trong các lĩnh vực nêu
trên. Ở Việt Nam, một số cơ quan đầu não của chính phủ và của các ngành sẽ
phải kết nối mạng trong tiến trình phát triển chung của xã hội cũng như lộ
trình xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam. Do đó, ngoài những mạng máy
tính thuộc lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ tài chính, ngân hàng, thì các mạng
máy tính của các cơ quan chính phủ, bộ, ban, ngành cũng sẽ là đối tượng bị
tấn công từ xa và thiệt hại do mất thông tin bí mật quốc gia sẽ rất khó ước tính
nếu không có sự chuẩn bị đối phó ngay từ bây giờ.
2.1.2. Tính chất các vụ việc vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công nghệ
thông tin có mức độ nghiêm trọng ngày càng cao.
Theo nhận định của các ngành chức năng, hoạt động của tội phạm trong

lĩnh vực công nghệ thông tin ở nước ta ngày càng diễn biến phức tạp. Các đối
tượng đang sử dụng triệt để công nghệ thông tin làm công cụ để thực hiện
phạm tội. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin thì tính chất và mức
độ của loại tội phạm này ngày càng tăng. Phương thức hoạt động ngày càng
tinh vi xảo quyệt, ngày càng cố kết có tính tổ chức, sử dụng nhiều phương
tiện kỹ thuật hiện đại. Đặc biệt tội phạm thường đi trước trong lĩnh vực công
nghệ thông tin và trong việc ứng dụng những thành tựu mới.
Ban đầu khi mới xuất hiện hành vi phạm tội được thực hiện bằng máy tính
như sử dụng máy tính để lưu giữ những thông tin tội phạm, sử dụng máy tính
để tấn công hoạt động bình thường và an toàn của máy tính và hệ thống mạng,
dần chuyển thành hình thức lừa đảo qua mạng thông qua các giao dịch thương
mại điện tử trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng, thị trường chứng khoán,
hải quan, thuế, chuyển cuộc gọi trái phép qua môi trường internet, trộm cắp,
gian lận cước viễn thông, tội buôn bán phụ nữ, trẻ em, tổ chức đánh bạc, cá
22


độ qua mạng và rất nhiều loại tội phạm xâm phạm an ninh, quốc phòng khác.
Và trong tương lai, cùng với trình độ phát triển của công nghệ thông tin ngày
càng nhanh chóng thì loại tội phạm này sẽ còn biến đổi phức tạp và tinh vi
hơn nữa. Vì vậy, việc phòng và chống loại tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đòi hỏi các cơ quan chức
năng có những biện pháp thích hợp để đấu tranh có hiệu quả với loại tội phạm
này.
2.2. Giải pháp nhằm hạn chế tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin.
2.2.1. Bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật Hình sự trong lĩnh vực
công nghệ thông tin.
Hơn 42 vụ án “công nghệ cao” gây thiệt hại gần 2.000 tỷ đồng và 11,3
triệu USD đã bị phanh phui thời gian qua. Tuy nhiên, cảnh sát kinh tế mới

khởi tố được 35 vụ, thu hồi 120 tỷ đồng vì xử lý tội phạm mạng đang thiếu
nhiều… “thuốc” (Báo Dân trí). Con số vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công
nghệ thong tin bị xử lý hình sự tính đến thời điểm này chưa nhiều. Cơ quan
Tòa án xét xử khoảng 35 vụ về công nghệ thông tin trên địa bàn toàn quốc
trong khoảng vài ba năm trở lại đây. Các vụ bị cơ quan công an bắt giữ và xử
lý được xem là điển hình nhất. Song đó là những hành vi dễ xử lý vì có trong
các quy định của pháp luật Còn khá nhiều vi phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin đủ các yếu tố cấu thành tội phạm nhưng do chưa có văn bản áp dụng
nên việc xử lý gặp không ít khó khăn. Nạn hacker đã và đang hoành hành làm
thiệt hại cho không ít doanh nghiệp làm ăn chân chính nhưng chưa thể xử lý
nghiêm vì thiếu luật.
Trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin cũng mang tính toàn cầu. Những loại tội phạm trong
lĩnh này xuất hiện trên thế giới cũng xảy ra và gây nguy hại cho nền kinh tế,
chính trị và xã hội ở Việt Nam cũng như ở các nước khác. Do vậy, tất cả
những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý bằng luật hình sự
với các chế tài nghiêm khắc, đủ để trấn áp, răn đe và phòng ngừa như kinh
nghiệm ở các nước trên thế giới. Muốn vậy, Việt Nam cần bổ sung những
điều luật về phòng chống tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin vào Bộ
luật Hình sự. Hệ thống pháp luật là thước đo cho mọi hoạt động xã hội. Vì thế
hoàn thiện hệ thống pháp luật trong tất cả các lĩnh vực đều có ý nghĩa quan
trọng. Trong lĩnh vực công nghệ thông tin cũng vậy, hoàn thiện hệ thống pháp
23


luật sẽ tạo điều kiện pháp lý thuận lợi trong việc xử lý các vi phạm, tránh tạo
lỗ hổng pháp lý để tội phạm lách luật. Hiện tại trong bộ luật hình sự nước ta
năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) mới có năm điều (224, 225, 226, 226a,
226b) quy định về tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Chưa có điều
khoản nào quy định về quản lý tài sản “ảo” (tài sản ảo là tài nguyên mạng

máy tính được xác định giá trị bằng tiền và có thể chuyển giao trong các giao
dịch dân sự). Do thiếu về cở sở pháp lý nên các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trên mạng phải quy về các loại tội phạm truyền thống mới xử lý được. Có
rất nhiều vấn đề cần phải được quan tâm giải quyết trong tình hình hiện nay,
từ vấn đề an toàn mạng cũng như tạo ra một hành lang pháp lý cần thiết, đầy
đủ cho lĩnh vực này, điều này là một yêu cầu cấp thiết trong khi nước ta đang
hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Vấn đề phát hiện và xử lý chưa triệt để,
chưa có sức răn đe. Đã có nhiều thống kê về thiệt hại do tội phạm trên mạng
gây ra, gây thiệt hại không chỉ về kinh tế mà còn ảnh hưởng không tốt đến uy
tín của giao dịch điện tử và thanh toán quốc tế của Việt Nam. Không dừng lại
ở mục đích vui chơi của một số “tin tặc” như trước đây, hacker “hiện đại” trở
nên thủ đoạn hơn rất nhiều qua mục đích ăn cắp mật khẩu thẻ tín dụng, phá
mã các bộ phận tính cước, xâm nhập vào các trng thông tin của các doanh
nghiệp, cơ quan nhà nước để xuyên tạc nội dung, tuyên truyền phản động…
Vi phạm thì nhiều nhưng phát hiện và xử lý của ta còn nhiều bất cập. Có
nhiều hành vi lẽ ra phải xử lý bằng Luật hình sự nhưng các cơ quan chức
năng chỉ xử lý hành chính, không đủ sức răn đe tội phạm.
Nước ta nên theo xu hướng của thế giới khi quy định về những hành vi liên
quan tới tội phạm mạng: các quy định nên trung lập với công nghệ để có thể
dễ dàng áp dụng và ban hành các văn bản dưới luật điều chỉnh những hành vi
này. Tội phạm mạng có tốc độ phát triển nhanh như tốc độ phát triển của công
nghệ thông tin. Các quy định của pháp luật luôn lạc hậu hơn so với những
thay đổi trong môi trường công nghệ thông tin. Mặc dù các nhà làm luật đã
sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật, nhưng việc sửa đổi các quy định của
luật nhất là Bộ luật Hình sự không thể làm trong một sớm một chiều. Với
những văn bản hướng dẫn, việc điều chỉnh sẽ được thực hiện dễ dàng hơn.
2.2.2. Tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
2.2.2.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ và người dân về công nghệ
thông tin.

24


Hiện nay, nhận thức về nguy cơ, tính rủi ro và hậu quả của tội phạm
trong lĩnh vực công nghệ thông tin của xã hội ta chưa cao. Nhiều người vẫn
coi hành vi xâm phạm an ninh mạng chỉ là trò đùa ác ý, trong khi các hành vi
này cần phải bị lên án và xử lý nghiêm minh. Không chỉ trên phương diện
công nghệ thông tin mà ở cả góc độ luật pháp, vấn đề phòng chống tội phạm
tin học cũng chưa đặt đúng tầm. Những gì đã và đang diễn ra cho thấy hiện
nay chưa có biện pháp hữu hiệu đảm bảo an ninh mạng, hạn chế tội phạm
trong lĩnh vực công nghệ thông tin tại Việt Nam. Tiện ích của mạng internet
thì đã rõ nhưng đi cùng với đó, các vấn đề tiêu cực, các tệ nạn cũng liên tục
phát sinh. Theo quy luật, người dân ngày càng quan tâm hơn đến an ninh
mạng. Vấn đề càng lúc càng nóng bỏng khi nguy cơ mất an toàn mạng hiện
hữu hơn bao giờ hết. Nhiệm vụ của mỗi cơ quan chức năng và người dân lúc
này là phải hiểu rõ lỗ hổng trên môi trường mạng để bịt kín, không để tội
phạm mạng có đất hoạt động.
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật trong
lĩnh vực công nghệ thông tin đối với nhân dân, nhất là trong nhà trường phổ
thông và trong các trường đại học, cao đẳng để sớm trang bị cho tầng lớp học
sinh, sinh viên kiến thức pháp luật, hiểu được những hành vi nào là vi phạm
pháp luật, mức độ nguy hại, chế tài xử lý và học tập ý thức bảo vệ pháp luật
ngay từ trên ghế nhà trường, nhất là đối với học sinh, sinh viên trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, cũng là những “hacker” tiềm tàng. Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền giáo dục để nâng cao hiểu biết của người dân về vấn đề an ninh
mạng, cách tự bảo vệ thông tin, mật khẩu của cá nhân tránh sự xâm nhập của
người khác với mục đích xấu.
2.2.2.2. Tăng cường công tác quản lý trong lĩnh vực công nghệ thông
tin.
Trong công tác phòng, chống tội phạm lĩnh vực công nghệ thông tin thì

tăng cường công tác quản lý đóng vai trò quan trọng không thể thiếu. Công
tác quản lý tốt, với những biện pháp thích hợp cho từng loại tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin sẽ có tác động tích cực tới công tác phòng,
chống loại tội phạm trong lĩnh vực này. Tăng cường công tác quản lý nhằm
hạn chế sự xâm nhập bất hợp pháp của các hacker. Như sử dụng các công cụ
kỹ thuật để ngăn chặn các vụ truy cập trái phép, lây lan virus, lấy cắp dữ
liệu..., phòng ngừa, bảo vệ cho các server, website, cơ sở dữ liệu, bằng các
25


×