ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ LAN
HOµN THIÖN QUY CHÕ THùC HIÖN D¢N CHñ ë CÊP X·
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ LAN
HOµN THIÖN QUY CHÕ THùC HIÖN D¢N CHñ ë CÊP X·
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. BÙI XUÂN ĐỨC
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Lan
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN
CHỦ Ở CẤP XÃ .................................................................................. 6
1.1.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở và quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã ...... 6
1.1.1. Thực hiện dân chủ ở cơ sở .................................................................... 6
1.1.2. Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã ................................................... 17
1.2.
Nội dung quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã ................................ 27
1.2.1. Hệ thống văn bản, quy định của quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã ..... 27
1.2.2. Nội dung quy định quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã ..................... 28
1.3.
Các tiêu chí hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã ........ 42
1.3.1. Tiêu chí chung của việc hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở
cấp xã ................................................................................................... 42
1.3.2. Tiêu chí riêng của hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã .......... 45
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở
CẤP XÃ .............................................................................................. 48
2.1.
Thực trạng quy định về quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã. ...... 48
2.1.1. Thực trạng về văn bản quy định thực hiện dân chủ ở cấp xã.............. 48
2.1.2. Thực trạng về quy định thực hiện dân chủ ở cấp xã ........................... 50
2.2.
Thực trạng thực hiện các nội dung thực hiện dân chủ ở cấp xã ....... 51
2.2.1. Thực trạng thực hiện công khai để dân biết ........................................ 51
2.2.2. Thực trạng thực hiện dân bàn, dân tham gia ý kiến ............................ 56
2.2.3. Thực trạng thực hiện dân giám sát ...................................................... 58
Chương 3: HOÀN THIỆN QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở
CẤP XÃ .............................................................................................. 61
3.1.
Nhu cầu hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã .............. 61
3.1.1.
Nhu cầu xuất phát từ quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN......... 61
3.1.2. Nhu cầu xuất phát từ quá trình hội nhập quốc tế ................................ 63
3.1.3. Nhu cầu của cải cách nền hành chính quốc gia................................... 64
3.1.4. Nhu cầu của quá trình dân chủ ............................................................ 65
3.2.
Quan điểm, phương hướng hoàn thiện quy chế thực hiện dân
chủ ở cấp xã........................................................................................ 68
3.2.1. Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã cần đầy đủ và cụ thể ................. 68
3.2.2. Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã cần hoàn thiện, đổi mới phù
hợp với điều kiện mới và cần được điều chỉnh ở cấp độ Luật ............ 70
3.3.
Giải pháp hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã ........... 70
3.3.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản về thực hiện dân chủ ở cấp xã .............. 70
3.3.2. Hoàn thiện quy định về thực hiện dân chủ ở cấp xã ........................... 75
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 94
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐND:
Hội đồng nhân dân
KTTT:
Kinh tế thị trường
LHQ:
Liên Hiệp Quốc
MTTQ:
Mặt trận tổ quốc
QCDC:
Quy chế dân chủ
UBND:
Ủy ban nhân dân
UBTUMTTQVN: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta rất coi trọng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, dựa vào dân. Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30
CT/TW về xây dựng quy chế dân chủ (QCDC) ở cơ sở. Thể chế hóa Chỉ thi ̣của
Bô ̣ Chin
́ h tri,̣ Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29-NQ/CP ngày 11/5/1998
và sau đó là Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 kèm theo Quy chế
thực hiện dân chủ ở xã . Trước yêu cầ u về viê ̣c thực hiê ̣n dân chủ ở cấp xã , để
đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện, ngày 20/4/2007 Ủy ban Thường
vụ Quốc hội khóa XI đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11, về
việc thực hiê ̣n dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Tiế p đó, Ban Bí thư Trung ương
Đảng, khóa X đã ban hành Kết luận số 65-KL/TW, ngày 04/3/2010 về tiế p tục
thực hiê ̣n Chỉ thi ̣số 30-CT/TW của Bô ̣ Chiń h tri ̣khóa VIII về thực hiê ̣n quy
chế dân chủ ở cơ sở. Hiện nay Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong việc thực hiện dân chủ của nhân dân ở
cấp xã. Thực tế cho thấy việc ban hành Pháp lệnh đã đạt được những kết quả rất
rất lớn, góp phần quan trọng củng cố quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức
sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng
cường đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, thực hiện mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy vậy, quá trình
thực hiện vẫn còn bộc lộ những thiếu sót, yếu kém như: Quyền làm chủ của nhân
dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, cửa quyền, hách
dịch, mệnh lệnh, tham nhũng, gây phiền hà cho dân vẫn còn khá phổ biến và
nghiêm trọng mà chưa đẩy lùi được; phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” chậm đi vào cuộc sống. Ở Việt Nam, xã, phường, thị trấn là đơn vị
hành chính cơ sở trực tiếp nhất, gần dân nhất trong hệ thống chính trị; là nơi người
1
dân thực hiện quyền dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi nhằm giải quyết các
công việc trong cộng đồng dân cư, bảo đảm đoàn kết, giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội; là nơi dân sản xuất, kinh doanh, lao động, và học tập. Xã, phường, thị trấn
cũng là nơi nảy sinh và giải quyết những công việc hàng ngày trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị - xã hội; cũng là nơi hiện thực hóa mọi đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị
đã khẳng định: Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm
chủ của nhân dân ở cơ sở. Dân chủ ở xã, phường, thị trấn là thực hiện những
nội dung dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi, đến với từng người dân nhằm
phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân trong đời sống chính trị, kinh tế,
xã hội, an ninh, trật tự công cộng. Do đó, để người dân địa phương phát huy
tối đa quyền làm chủ của mình, đòi hỏi các văn bản, quy định của pháp luật
về thực hiện dân chủ ở cấp xã phải được hoàn thiện.
Trước yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước. Việc triển
khai nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã" là
việc làm cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, đáp ứng
yêu cầu bức xúc hiện nay là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam của dân, do dân và vì dân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quy chế về thực hiện dân chủ ở cấp xã là tập hợp những văn bản,
quy định đã và đang được triển khai thực hiện trên thực tế. Hiện nay việc
thực hiện dân chủ ở cấp xã được quy định cụ thể nhất trong Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số
34/2007/PL-UBTVQH11, ngày 20/4/2007 và một số văn bản, quy định đó là:
Nghị quyết liên tịch 09/2008/NQLT-CP-UBTUMTTQVN, ngày 17/4/2008
Hướng dẫn thi hành các Điều 11, Điều 14, Điều 16, Điều 22 và Điều 26 của
Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; các quy định về Ban
2
thanh tra nhân dân cấp xã được quy định tại Điều 68, Điều 69, Điều 70 và
Điều 71 Luật Thanh tra 2010; Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT/BTPBVHTT-BTTUBTUMTTQVN, ngày 31/3/2000 của Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa
Thông tin, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Hướng dẫn việc
xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân
cư; Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg, ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng và Thông tư liên
tịch số 04/2006/ TTLT/KH&ĐT-UBTUMTTQVN-TC, ngày 04/12/2006 của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
Bộ Tài chính.
Do nội dung của việc thực hiện dân chủ ở cấp xã rất sâu, rộng, ngoài
các văn bản, quy định trên còn được quy định tản mạn ở nhiều văn bản, quy
định khác. Vì vậy bài viết, công trình nghiên cứu chỉ dừng lại ở chỗ: Tìm hiểu
và nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc triển khai thực hiện
các nội dung thực hiện dân chủ ở cấp xã như nội dung công khai để nhân dân
biết, nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp hoặc biểu quyết để cấp có
thẩm quyền quyết định, nội dung nhân dân tham gia ý kiến và nội dung nhân
dân giám sát. Đồng thời đánh giá về thực trạng hệ thống các văn bản, quy
định thực hiện dân chủ ở cấp xã và quan điểm, giải pháp hoàn thiện quy chế
thực hiện dân chủ ở cấp xã trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về dân chủ ở cấp xã và đánh giá thực trạng các văn bản, quy định về thực hiện
dân chủ ở cấp xã trong điều kiện hiện nay; luận văn đề xuất phương hướng và
các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện các văn bản, quy định về thực hiện dân
chủ ở cấp xã hiện nay.
Luận văn có nhiệm vụ:
3
- Tìm hiểu, phân tích một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài
nghiên cứu: Khái niệm, đặc điểm nền dân chủ, bản chất, vai trò của dân chủ ở
cơ sở; khái niệm, nội dung, vai trò và tiêu chí hoàn thiện quy chế thực hiện
dân chủ ở cấp xã;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thi hành các nội dung thực hiện dân chủ
ở cấp xã hiện nay;
- Đối chiếu, liên hệ với những yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của
đất nước, trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta, bước đầu đề
xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện các văn bản,
quy định về thực hiện dân chủ ở cấp xã trong điều kiện mới.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Pháp luật về thực hiện dân chủ hiện nay có phạm vi điều chỉnh tương
đối rộng bao gồm việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, cơ quan hành chính, doanh
nghiệp, trường học… Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực
trạng thi hành và quan điểm hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã được
cụ thể trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn số 34/2007/PLUBTVQH11, ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và một số văn
bản, quy định tại Nghị quyết liên tịch 09/2008/NQLT-CP-UBTUMTTQVN,
ngày 17/4/2008 và các quy định về Ban thanh tra nhân dân cấp xã; Thông tư liên
tịch số 03/2000/TTLT/BTP-BVHTT-BTTUBTUMTTQVN, ngày 31/3/2000
Hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản,
thôn, ấp, cụm dân cư; Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg, ngày 18/4/2005 của
Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế giám sát đầu tư của cộng
đồng; Thông tư liên tịch số 04/2006/ TTLT/KH&ĐT-UBTUMTTQVN-TC,
ngày 04/12/2006 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và Bộ Tài chính.
4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng
nền dân chủ XHCN, về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN nói chung và
về lý luận xây dựng pháp luật nói riêng;
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp nghiên cứu của
chủ nghĩa duy vật biện chứng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Lịch
sử - cụ thể; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác: Thống kê, so sánh,
điều tra xã hội học.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn nghiên cứu xác định khái niệm, tiêu chí hoàn thiện quy chế
thực hiện dân chủ ở cấp xã;
- Phân tích, đánh giá một cách tương đối toàn diện thực trạng và những
nguyên nhân tồn tại của quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã;
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quy chế
thực hiện dân chủ ở cấp xã trong điều kiện mới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần giải quyết một số vấn đề lý luận và thực tiễn hiện
nay đang đặt ra đối với hoạt động thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở.
- Luận văn thành công sẽ là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy trong các trường pháp lý cũng như nghiên cứu hoàn thiện pháp luật
thực hiện quyền dân chủ ở Việt Nam trong thời gian tới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Chương 2. Thực trạng quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Chương 3. Hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ
1.1. Thực hiện dân chủ ở cơ sở và quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã
1.1.1. Thực hiện dân chủ ở cơ sở
1.1.1.1. Khái niệm dân chủ
Dân chủ là khái niệm xuất hiện từ thời cổ đại. Theo tiếng Hy Lạp cổ, dân
chủ là do 2 từ hợp thành Demos (dân chúng) và Cratos (quyền lực hay cai trị).
Như vậy, với nguyên nghĩa của từ, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân,
quyền lực của nhân dân, dân chủ là sự cai trị của nhân dân. Từ điển Bách khoa
Việt Nam định nghĩa: "Dân chủ, hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã
hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận
nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và
hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định" [36, tr. 653].
Dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân là một trong những hình
thức tổ chức chính trị Nhà nước của xã hội mà đặc trưng là việc tuyên bố
chính thức nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số, thừa nhận quyền tự do,
bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực. Dân
chủ XHCN là một hình thức dân chủ do nhân dân lao động chủ động thiết lập
trong tiến trình đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân, thông qua đội chính trị tiên phong của nó, là Đảng cộng sản. Trong
"Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" C.Mác và Ph. Ăng - ghen đã cho rằng:
"Trước hết giai cấp công nhân phải tự mình tổ chức thành giai cấp thống trị
và giành lấy dân chủ với ý nghĩa trực tiếp của nó là giành lấy quyền lực Nhà
nước" [38]. Như vậy dân chủ XHCN có mục đích tự thân, giành lấy dân chủ
là để tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội vì
mục tiêu đem lại hạnh phúc, ấm no, tự do, bình đẳng cho mọi người lao động.
6
C.Mác đã dự báo điều đó rằng: "Thay cho xã hội tư bản cũ với những giai
cấp và đối kháng, giai cấp của nó sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự
phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất
cả mọi người" [38, tr. 628]. Sau này, Lênin tiếp tục phát triển tư tưởng ấy
trong điều kiện mới. Theo Lênin thì dân chủ gắn bó hữu cơ, mật thiết với
CNXH. Người viết:
Không có chế độ dân chủ thì CNXH không thể thực hiện
được theo hai nghĩa sau đây: 1. Giai cấp vô sản không thể hoàn
thành được cuộc cách mạng XHCN nếu họ không chuẩn bị cho
cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho dân chủ. 2. Chủ
nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và
sẽ không dần được nhân loại đi đến thủ tiêu Nhà nước, nếu không
thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ.
Nghiên cứu lý thuyết về dân chủ có nhiệm vụ làm sáng tỏ bản chất,
những đặc điểm hình thành, những trình độ phát triển cùng những nhân tố ảnh
hưởng đến sự phát triển của dân chủ trong mỗi thời kỳ nhất định và cuối cùng
là phải vạch ra những điều kiện để thực hiện dân chủ trong xã hội gắn liền với
những quy định tất yếu, khách quan của cơ sở kinh tế và chính trị xã hội của xã
hội đó. Để làm được điều đó phải xác định hướng tiếp cận về dân chủ như sau:
Thứ nhất: Dân chủ là một hiện tượng lịch sử - xã hội, xuất hiện và phát
triển với tư cách là sản phẩm, là kết quả trực tiếp của đời sống chính trị, của
sự vận động chính trị của các giai cấp trong cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải
quyết vấn đề quyền lực thuộc về giai cấp nào trong xã hội. Chế độ dân chủ
của một xã hội thường tìm thấy phương thức biểu hiện phổ biến của nó ở chế
độ nhà nước. Nhà nước như là một thiết chế chính trị để thực hiện dân chủ tuy
không phải bất cứ chế độ nhà nước nào cũng là chế độ dân chủ. Lịch sử đã
từng biết tới các hình thức nhà nước chuyên chế, quân chủ (dưới các triều đại
7
và chế độ phong kiến) cũng như nhà nước phát xít, các khuynh hướng độc tài
và phát xít hoá nhà nước trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Đó là những chế
độ nhà nước phản dân chủ, xung đột gay gắt với quyền dân chủ của công dân
và xã hội nói chung. Sự trùng hợp giữa dân chủ với nhà nước đòi hỏi tổ chức
và bộ máy Nhà nước được xây dựng nên cùng với công cụ của nó là pháp luật
phải ít nhiều mang tính chất tiến bộ, đáp ứng được những mức độ nào đó của
lợi ích nhân dân và nhu cầu xã hội. Do vậy các cuộc đấu tranh cho dân chủ
diễn ra trong lịch sử bao giờ cũng phản ánh và gắn liền với các cuộc đấu tranh
giai cấp và đấu tranh xã hội. Nó đụng chạm trực tiếp tới những cải cách hoặc
phá bỏ chế độ Nhà nước này hay chế độ Nhà nước khác. Quyền thống trị của
giai cấp này hay giai cấp khác. Xét trên bình diện xã hội và quản lý xã hội,
giải quyết vấn đề dân chủ có nội dung căn bản của nó ở chỗ giải quyết vấn đề
Nhà nước. Lênin viết:
…Dân chủ là sự thống trị của đa số. Chừng nào mà ý chí của
đa số vẫn còn mờ tối, chừng nào mà người ta vẫn có thể, dù chỉ là
hơi giống như thế thôi, cho ý chí đó là còn mờ tối, thì chừng đó
người ta vẫn còn đưa ra cho nhân dân một Chính phủ của bọn tư
sản phản cách mạng dưới chiêu bài Chính phủ "dân chủ".
Nhưng tình trạng đó không thể kéo dài được. Trong vài tháng
đã trôi qua kể từ ngày 27/2 trở đi, ý chí của đa số công nhân và
nông dân, tức là tuyệt đại đa số dân cư trong nước, đã thể hiện ra rõ
rệt nhưng không phải chỉ dưới một hình thức chung mà thôi. Ý chí
đó đã biểu hiện rõ trong các tổ chức có tính chất quần chúng - các
Xô - Viết đại biểu công nhân, binh sĩ và nông dân.
Vậy làm sao người ta lại có thể phản đối việc chuyển toàn bộ
chính quyền Nhà nước về tay các Xô - Viết ấy được? Như thế
không có nghĩa khác hơn là từ bỏ dân chủ [57, tr. 515 - 516].
8
Xét từ góc độ lợi ích trong xã hội đã phân chia thành giai cấp và hình
thành Nhà nước thì không thể có dân chủ thuần tuý, dân chủ tuyệt đối và dân
chủ chung cho tất cả mọi người không phân biệt giai cấp. Tính chất giai cấp
của dân chủ đã và sẽ còn tồn tại chừng nào xã hội còn tồn tại giai cấp và Nhà
nước. Dân chủ chủ nô trong chế độ chiến hữu nô lệ, dân chủ tư sản trong chế
độ tư bản chủ nghĩa và dân chủ XHCN trong CNXH là những hình thức và
trình độ khác nhau của sự phát triển dân chủ trong lịch sử. Dân chủ của ai,
quyền lực thuộc về giai cấp hay lực lượng xã hội nào, giải quyết vấn đề lợi
ích và quyền lực trên lập trường giai cấp nào trong những điều kiện lịch sử cụ thể của một chế độ xã hội… Tính xác định có trong những câu hỏi đó cho
thấy không thể có câu trả lời trừu tượng, phi lịch sử, thoát ly khỏi những giới
hạn và ràng buộc giai cấp trong vấn đề dân chủ. Điều này chứng tỏ rằng, mọi
nghiên cứu về dân chủ nếu không tựa vững chắc trên cơ sở kinh tế - xã hội và
có sự nhất quán về quan điểm chính trị, tính thống nhất và sự chi phối lẫn
nhau giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị của một giai cấp xác định thì
không thể chỉ ra bản chất của dân chủ. Lý luận về tính giai cấp của dân chủ, vì
lẽ đó là yếu tố quan trọng nhất, là điểm xuất phát dẫn tới các vấn đề khác có
trong lý thuyết và tư tưởng về dân chủ.
Thứ hai: Dân chủ không chỉ là một hiện tượng lịch sử xã hội, một sản
phẩm của sự vận động chính trị bị chế ước bởi trình độ và trạng thái hiện thực
của kinh tế xã hội mà dân chủ còn là thành tựu của nền văn hoá nhân loại, là
thước đo về trình độ giải phóng con người và xã hội mà loài người đã đạt
được trong mỗi thời đại lịch sử. Mỗi bước tiến của dân chủ và mỗi trình độ
phát triển của dân chủ là những nấc thang khác nhau của tiến bộ xã hội. Phản
ánh những kết quả khác nhau theo xu hướng ngày càng cao hơn và hoàn thiện
hơn của tổ chức xã hội, của quản lý Nhà nước và quản lý xã hội nói chung. Sự
phát triển của dân chủ đồng thời là nhân tố kích thích và cũng là kết quả sự
9
mở rộng và nâng cao tính tích cực chính trị của quần chúng. Việc quần chúng
nhận được nhiều hay ít những khả năng và điều kiện để tham gia vào các hoạt
động của Nhà nước, các công việc quản lý xã hội, các hoạt động chính trị,
điều đó phụ thuộc vào mức độ phát triển thực tế của dân chủ xã hội. Của pháp
luật dân chủ và tiến bộ xã hội. Với dân chủ, con người chuyển từ thế bị động,
lệ thuộc bởi giai cấp bóc lột, thống trị tới chỗ xác lập vai trò chủ thể, tích cực
trong xã hội mà mình trở thành người chủ. Việc nhân dân lao động giành lấy
dân chủ thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội để thay thế chế độ
xã hội cũ bằng chế độ xã hội mới tiên tiến hơn, dân chủ hơn có ý nghĩa tích
cực về chính trị và văn hoá.
Để có quan niệm đúng đắn và toàn diện về bản chất của dân chủ XHCN
cần phải khắc phục tính chất phiến diện trước đây thường dẫn tới đồng nhất
giản đơn giữa dân chủ với Nhà nước, với chế độ Nhà nước và từ đó quan
niệm rằng sự tiêu vong của Nhà nước (đến một lúc nào đó trong tiến trình
phát triển của lịch sử) cũng đồng thời là sự tiêu vong của dân chủ. Điều đó
đem lại cảm giác rằng, dường như dân chủ là một vấn đề tạm thời, vấn đề
quyền lực của giai cấp thống trị gắn liền với tổ chức và bộ máy Nhà nước.
Cũng do đó, trong quan niệm truyền thống dân chủ chỉ được xem như một
phạm trù lịch sử. Phương pháp tiếp cận hệ thống khắc phục tình trạng ấy bằng
cách xác định một tập hợp các yếu tố nổi bật và quan trọng nhất dưới đây:
1. Dân chủ được xét với tư cách là hình thức tổ chức xã hội, là phương
thức quản lý và điều hành xã hội được xây dựng thành các thiết chế, Quy chế,
chế độ được bảo đảm về mặt pháp lý và được biểu hiện thành trật tự của tổ
chức, bộ máy Nhà nước. Dân chủ trở thành một hình thức tổ chức Nhà nước,
thông qua tổ chức và quản lý để thực hiện quyền lực đối với xã hội. Lẽ đương
nhiên, chủ thể trực tiếp của quyền lực đó trước hết thuộc về một giai cấp hoặc
lực lượng xã hội nào nắm quyền điều khiển, chi phối xã hội. Trong mối tương
10
quan với quyền lực Nhà nước và chế độ nhà nước, dân chủ ở đây được hiểu là
chế độ dân chủ, là nền dân chủ. Với ý nghĩa này và trong mối quan hệ giữa
chế độ dân chủ với chế độ nhà nước thì dân chủ mới là một phạm trù lịch sử.
Nói cách khác dân chủ chỉ là phạm trù lịch sử và chỉ tiêu vong với nghĩa dân
chủ được xây dựng thành chế độ quyền lực và được tổ chức thành chế độ nhà
nước. Sự tiêu vong của nhà nước chỉ làm mất đi các hình thái biểu hiện quyền
lực bằng Nhà nước của dân chủ chứ không làm mất đi nhu cầu xã hội của dân
chủ mà thực chất của nhu cầu này là nhân dân trở thành người chủ xã hội,
toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân tự quản lý, tự quyết định
mọi vấn đề của chính bản thân họ. Nó cũng không làm mất đi các giá trị của
dân chủ mà trung tâm của các giá trị này là tự do, là thành quả đấu tranh xã
hội để giành lấy tự do cho con người, con người trở thành tự do, làm chủ và
sáng tạo. Nền dân chủ, chế độ dân chủ từng xuất hiện từ thời cổ đại và sẽ còn
tồn tại lâu dài trong lịch sử. Theo dự kiến của các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin, chỉ đến khi chủ nghĩa Cộng sản thắng lợi hoàn toàn, khi ấy Nhà
nước trở nên thừa, nó sẽ tự tiêu vong, lúc ấy mới có thể đi tới sự tiêu vong của
chế độ dân chủ.
Trong tác phẩm "Nhà nước và cách mạng", Lênin đã nhấn mạnh rằng:
Trong những nhận định thông thường về Nhà nước, người ta
luôn luôn phạm một sai lầm mà Ăng ghen đã căn dặn phải đề phòng
ở đây… Sai lầm ấy là: Người ta luôn quên rằng thủ tiêu nhà nước
cũng là thủ tiêu chế độ dân chủ và Nhà nước tiêu vong cũng là chế
độ dân chủ tiêu vong… và chế độ dân chủ là một hình thức Nhà
nước, một trong những hình thái của Nhà nước…. chế độ dân chủ
càng hoàn bị bao nhiêu thì nó càng gần đến lúc trở thành thừa bấy
nhiêu [54, tr. 33, 101].
2. Dân chủ còn được hiểu là một giá trị xã hội. Dân chủ với tư cách
11
quyền lực của nhân dân được coi như một giá trị đứng ngang hàng với các giá
trị cơ bản khác của con người, như tự do, bình đẳng, tôn trọng phẩm giá con
người. Giá trị xã hội đích thực của dân chủ là ở chỗ giành về cho đại đa số
nhân dân lao động những quyền lực của chính họ thông qua đấu tranh cải tạo
xã hội cũ và xây dựng xã hội mới của chính bản thân quần chúng nhân dân.
Sự kết hợp tất yếu và tự nhiên giữa dân chủ và CNXH là ở đó. CNXH tìm
thấy dân chủ một thuộc tính bản chất, một trong những động lực phát triển nội
tại của mình. Dân chủ trên con đường tiến hoá và phát triển tìm thấy ở hình
thức tổ chức xã hội XHCN những khả năng và điều kiện tốt nhất để bộc lộ
đầy đủ tiềm lực, sức mạnh bản chất, chân giá trị của mình.
1.1.1.2. Thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Trong lao động và sinh sống, nhân dân luôn gắn bó mật thiết với một
đơn vị, một tổ chức, một địa bàn dân cư nhất định. Bất cứ một tổ chức nào,
xét theo hệ thống cấu trúc, cũng bao gồm hệ thống cấu trúc từ nhỏ đến lớn.
Những cấu trúc nhỏ nhất trên một hệ thống có tư cách như một chỉnh thể
tương đối hoàn chỉnh, độc lập, là nền tảng cho toàn bộ hệ thống được gọi là
cơ sở. Cơ sở là “tế bào” của hệ thống. Bất cứ một công dân, một thành viên
nào của tổ chức cũng đều gắn bó và sinh sống, lao động, học tập ở một cơ sở
nhất định trong hệ thống. Đó chính là xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế cơ sở… nơi diễn ra các quan hệ nhiều mặt giữa các
tầng lớp nhân dân. Hệ thống chính trị của nước ta được tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ XHCN,
được tổ chức thành 04 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện và xã (cơ sở) là cấp cuối
cùng. Xã, phường, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, là nơi kiểm nghiệm một cách chính xác
nhất đường lối của Đảng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa trong
thực tiễn khách quan. Dân chủ, với ý nghĩa tối cao nhất là quyền tự nhiên của
12
con người được thực hiện trước hết là ở cơ sở. Nhân dân có quyền được biết,
được bàn và tham gia giải quyết và kiểm tra giám sát mọi hoạt động diễn ra ở
cơ sở được thực hiện dưới hình thức gián tiếp và dân chủ trực tiếp, là hình
thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể hiện
ý chí, nguyện vọng đối với những vấn đề về tổ chức và hoạt động ở cơ sở.
Dân chủ trực tiếp là hệ thống báo động nhạy cảm nhất những vấn đề chính trị,
kinh tế, văn hóa. Dân chủ trực tiếp giúp cho Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm
chính sách pháp luật một cách nhanh nhất, sát với thực tế khách quan, khắc
phục bệnh chủ quan, duy ý chí, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa chính
quyền với nhân dân. Tăng cường, hoàn thiện và thực hiện dân chủ thực sự là
mục tiêu lâu dài và thường xuyên của Đảng và Nhà nước. Mỗi bước phát triển
của dân chủ phải được ghi nhận bởi các quy định của pháp luật. Dân chủ phải
gắn liền với pháp luật và thực hiện pháp luật. Song việc phát huy và mở rộng
dân chủ phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí,
truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của mỗi cộng đồng, dân chủ gắn
liền với kỷ cương. Hiện tại, các quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở của
Nhà nước ta mới chỉ thể chế đối với cơ sở xã, phường, thị trấn, cơ quan doanh
nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong đó,
dân chủ ở xã, phường, thị trấn là một nội dung quan trọng chủ yếu đề cập đến
thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trong hệ thống chính quyền 04 cấp ở nước ta
theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Còn rất nhiều
loại hình cơ sở khác chưa có quy định về thực hiện dân chủ đặt ra cho Đảng.
Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp
luật về dân chủ ở cơ sở.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là quyền trực tiếp của người dân (mặc dù
gồm cả dân chủ đại diện) được tiến hành từ cấp xã trở xuống (đến cấp thôn,
xóm, đơn vị, cơ quan, nhà máy, xí nghiệp) theo phương châm dân biết, dân
13
bàn, dân làm, dân kiểm tra. Dân chủ ở cơ sở trước hết là dân chủ trực tiếp, là
hình thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể
hiện ý chí, nguyện vọng của mình đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan
chính quyền ở cơ sở.
1.1.1.3. Các phương thức thực hiện dân chủ ở cơ sở:
Pháp luật ghi nhận các quyền dân chủ của công dân trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội, song dù ghi nhận đầy đủ đến đâu cũng trở nên không có
ý nghĩa nếu không có các phương thức thực hiện nó trong cuộc sống.
Phương thức thực hiện quyền dân chủ là cách thức, phương pháp để đưa các
giá trị dân chủ vào cuộc sống, làm cho nó trở thành hiện thực trực tiếp và
phổ biến trong đời sống cộng đồng và của quản lý xã hội. Vai trò quyết định
đối với việc thực hành dân chủ thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện
quyền lực Nhà nước thông qua hai hình thức là dân chủ đại diện (dân chủ
gián tiếp) và dân chủ trực tiếp.
- Dân chủ đại diện:
Dân chủ đại diện là hình thức thể hiện ý chí không trực tiếp từ chủ thể
quyền lực mà thông qua đại diện có thẩm quyền do chủ thể bầu ra. Chủ
thể quyền lực (tức nhân dân) vẫn giữ cho mình quyền và chức năng tác
động, giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ quan đại diện. Dân chủ đại
diện là một hình thức thực hiện dân chủ quan trọng, có ý nghĩa to lớn
trong quy trình thực hiện quyền lực của nhân dân và đã được thực tiễn
hoạt động Nhà nước trong các quốc gia dân chủ ghi nhận. Hình thức đầu
tiên của chế độ dân chủ đại diện là chế độ đại nghị tư sản, ra đời trong
lòng chế độ quân chủ phong kiến chuyên chế, trở thành công cụ của giai
cấp tư sản trong quá trình đang lên. Ở Việt Nam, dân chủ đại diện với các
quan điểm của chế độ "dân uỷ" đã được khẳng định ngay trong Hiến pháp
đầu tiên (Hiến pháp 1946) và tiếp tục khẳng định trong tất cả các bản
14
Hiến pháp sau này. Điều 6, Hiến pháp 1992 quy định: "Nhân dân sử dụng
quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ
quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và
chịu trách nhiệm trước nhân dân" [42, Điều 6]. Như vậy, hình thức chủ yếu
của dân chủ đại diện ở nước ta là thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp. Ngoài ra nhân dân còn làm chủ thông qua các tổ chức chính trị - xã
hội, các hội nghề nghiệp của nhân dân được lập nên theo nguyên tắc tự nguyện.
Tuy nhiên, dân chủ đại diện dù có ý nghĩa quan trọng đến mấy vẫn
không thể khắc phục được những hạn chế của chế độ Nhà nước với tính cách
là chủ thể quyền lực được uỷ quyền nhưng lại trực tiếp thực hiện quyền năng
của người uỷ quyền là nhân dân. Do vậy, trong một phạm vi, mức độ đáng kể
nhân dân vẫn bị tách khỏi quyền lực nước và không phải lúc nào những uỷ
quyền của nhân dân cũng được thực thi đúng. Vẫn có nguy cơ về căn bệnh tha
hoá quyền lực, quan liêu hoá bộ máy Nhà nước, sự cồng kềnh, kém hiệu quả
của các thiết chế quyền lực, sự xuất hiện một bộ phận cán bộ đặc quyền, đặc
lợi trong bộ máy Nhà nước sẽ khó khắc phục nổi nếu thiếu các nỗ lực của các
lực lượng quần chúng nhân dân. Để khắc phục tình trạng đó cần phải có sự
tham gia tích cực và chủ động của nhân dân với tư cách là chủ thể duy nhất và
tối cao của quyền lực Nhà nước - Đó chính là chế độ dân chủ trực tiếp.
- Dân chủ trực tiếp:
Dân chủ trực tiếp là hình thức thể hiện ý chí trực tiếp của chủ thể quyền
lực về những vấn đề cơ bản, chính yếu của một tập thể, một cộng đồng. Cơ
quan quản lý có trách nhiệm ghi nhận ý chí đó và bảo đảm đưa nó vào thực
thi trong cuộc sống.
Dân chủ trực tiếp có vị trí, vai trò và ý nghĩa vô cùng to lớn đối với
toàn bộ đời sống dân chủ của đất nước được thể hiện trên những điểm
chính sau đây:
15
Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là phát huy cao độ mọi tiềm
năng, trí tuệ của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước và xã hội, giải
quyết những vấn đề lớn từ quốc kế dân sinh đến những việc của đời sống
cộng đồng, dân cư. Thông qua hình thức dân chủ trực tiếp, nhân dân có điều
kiện tham gia ý kiến, có điều kiện để tập dượt, trưởng thành, trở thành người
chủ đích thực. Một nhà nước biết lắng nghe và học hỏi dân, biết bồi dưỡng và
nâng cao đời sống của dân thì nhân dân không chỉ nói lên điều mình mong
muốn mà còn gợi ý, kiến nghị và chỉ ra rằng nhà nước cần phải hành động
như thế nào, bằng phương pháp và công cụ nào để giải quyết các vấn đề kinh
tế - xã hội. Thực tiễn của những năm đổi mới vừa qua đã chứng tỏ rằng,
những sáng kiến đầy tâm huyết của nhân dân đã tạo nên nguồn trí tuệ quý giá
không gì thay thế cho những chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước, tạo ra những bước phát triển vững chắc của đất nước trên
con đường phát triển và hội nhập.
Dân chủ trực tiếp tạo nên cơ chế đối trọng, kiểm tra, giám sát đối với
hình thức dân chủ đại diện, với bộ máy Nhà nước, giảm bớt sự tuỳ tiện, lộng
quyền, phát huy được tính tự giác, tích cực của mỗi thành viên trong một tập
thể, một cộng đồng. Khắc phục thói quen trí tuệ, ỷ lại, trông chờ người khác.
Phát huy truyền thống tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau, tăng cường sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh".
Dân chủ trực tiếp là hệ thống báo động nhạy cảm nhất, những thông tin
phản hồi nhanh nhất về hiệu lực, hiệu quả của các đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Giúp cho Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm
lại đường lối, chính sách của mình một cách nhanh nhất, kịp thời sửa chữa, bổ
sung, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, xa với thực tế, tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
16
Dưới góc độ pháp lý, dân chủ trực tiếp được thể hiện ở ba nhóm
quyền năng cơ bản của nhân dân là: Các quyền năng thể hiện, xác lập ý chí
trực tiếp của nhân dân đối với các vấn đề quốc gia, dân tộc (đưa ra các sáng
kiến, thỉnh nguyện, trưng cầu ý dân…); các quyền năng đối với tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước trong khuôn khổ phạm vi được uỷ quyền
theo luật định (quyền lập ra bộ máy nhà nước; quyền giám sát các hoạt
động của bộ máy Nhà nước; quyền bãi miễn các đại biểu do nhân dân bầu
vào cơ quan đại diện và quyền lực Nhà nước…); Các quyền năng của nhân
dân trực tiếp giải quyết các công việc của cộng đồng mà không cần có sự
can thiệp trực tiếp của công quyền.
Tăng cường và hoàn thiện các chế độ thực hiện dân chủ của nhân dân là
việc làm lâu dài và thường xuyên của Đảng và Nhà nước để bảo đảm mỗi
bước phát triển của dân chủ phải được ghi nhận bởi các quy định của pháp
luật có tính chất mở đường định hướng cho sự phát triển của mỗi quốc gia,
dân tộc. Nhưng việc phát huy và mở rộng dân chủ phải phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế xã hội, trình độ dân trí, truyền thống văn hoá, phong tục, tập
quán của mỗi quốc gia, dân chủ đi đôi với kỷ cương, quyền hạn gắn với trách
nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ.
1.1.2. Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã
1.1.2.1. Khái niệm
Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã là tập hợp các văn bản, quy định
pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa chính quyền cơ sở
với công dân trong việc phải công khai những việc để dân biết; những việc
dân bàn và quyết định hoặc biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định;
những việc dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
quyết định và những việc dân giám sát.
17
1.1.2.2. Vai trò của quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã
- Vai trò của quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã với việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam:
Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổng thể các
quy phạm pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, được quy
định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện
trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành theo
những trình tự, thủ tục và hình thức nhất định [28, tr. 173].
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã được ban hành kèm theo Nghị định số
29/1998/ND-CP ngày 11/5/1998; Quy chế thực hiện dân chủ ở xã được ban
hành kèm theo Nghị định số 79/2003/NĐ-CP, ngày 07/07/2003 và Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn số 34/2007/PL-UBTVQH của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, ngày 20/4/2007 và các văn bản, quy định trên là
một chế định pháp luật hợp thành của hệ thống pháp luật Việt Nam. Sự ra đời
của các văn bản, quy định của quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã, đặc biệt là
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã góp phần hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật, phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội
của đất nước trong thời kỳ mới. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN, là
những quan hệ xã hội quan trọng phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Quy
chế thực hiện dân chủ ở cấp xã đã thể chế hoá các chủ trương lớn của Đảng
là: Quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh
vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà
cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa đẩy lùi, ngăn
chặn được. Phương châm:
Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra chưa được cụ thể hoá
và thể chế hoá thành luật pháp, chậm đi vào cuộc sống… phải phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý
18
nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình
trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng [16].
Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã góp phần nâng cao hiệu quả tác
động của các ngành luật khác như: "Luật tổ chức HĐND – UBND; Luật giải
quyết khiếu nại, tố cáo; Luật bầu cử Quốc hội; Luật bầu cử HĐND các cấp",
nó đã thúc đẩy các cơ quan Nhà nước, các nhà chức trách thực hiện nghiêm
chỉnh các nghĩa vụ pháp lý để bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân
theo quy định của pháp luật.
Như vậy quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã đã góp phần hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam, "nó" không chỉ là công cụ thể chế hoá một số chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển
đất nước mà còn đóng góp tích cực vào việc nâng cao hiệu quả tác động của
các ngành luật khác.
- Vai trò của quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã trong đời sống xã hội:
Với các quan điểm chỉ đạo trong quá trình xây dựng quy chế thực hiện
dân chủ ở cấp xã là:
Đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong
cơ chế tổng thể của hệ thống chính trị Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ, coi trọng cả ba mặt nói trên, không vì
nhấn một mặt mà coi nhẹ, hạ thấp các mặt khác. Vừa phát huy tốt
chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động
của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
các cấp vừa thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để
nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan
trọng thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình. Phát huy dân chủ
phải gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao dân trí, tạo
điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả [16].
19