Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực hành dân chủ ở nước ta trong xu thế hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.61 KB, 60 trang )

Häc viÖn b¸o chÝ tuyªn truyÒn
Khoa chÝnh trÞ hoc
Bài tiểu luận
Môn : Thể chế chính trị thế giới đương đại
Đề tài: Việc xây dựng và hoàn thiện cơ
chế thực hành dân chủ ở nước ta trong xu
thế hội nhập quốc tế
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Trung Thành
Lớp: Chính trị học k27
Hà nội 4/2010
Môc lôc
1
Trang
A, Phần mở đầu…………………………………………….…….4
B, Phần nội dung…………………………………………… 9
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề dân chủ trên thế giới
và Việt Nam…………………………………………………………………9
1.1, Cơ sở lý luận…………………………………………………… 9
1.1.1, Các lý thuyết cổ điển về dân chủ…………………………… 9
1.1.2, Các lý thuyết hiện đại ở phương Tây về dân chủ………… 11
1.1.3, Dân chủ ở Việt Nam……………………………………… 13
1.2, Cơ sở thực tiễn………………………………………………… 16
1.2.1, Tình hình chung…………………………………………….16
1.2.2, Thực tiễn dân chủ ở Việt Nam…………………………… 18
1.3, Khái niệm dân chủ, cơ chế thực hành dân chủ………………… 21
Chương II: Xu thế hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt ra cho việc
xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực hành dân chủ ở nước ta………….25
2.1, Hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan của các nước trong
giai đoạn hiện nay………………………………………………………….25
2.2, Những vấn đề đặt ra cho việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực
hành dân chủ ở nước ta trong xu thế hội nhập quốc tế…………………… 31


2.3, Quan điểm phát triển thực hành dân chủ ở nước ta trong xu thế hội
nhập quốc tế……………………………………………………………… 35
2.4, Phương hướng phát triển nền dân chủ ở nước ta hiện nay………40
2.5, Một số cơ chế thực hành dân chủ đã được triển khai ở
2
nước ta…………………………………………………………………… 43
Chương III: Một số giải pháp đề xuất xây dựng và hoàn thiện cỏ chế
thực hành dân chủ ở nước ta trong xu thế hội nhập quốc tế. Những bài
học kinh ngiệm…………………………………………………………….45
3.1,Một số giải pháp đề xuất…………………………………………45
3.2, Những bài học kinh nghiệm…………………………………… 49
C, Phần kết luận………………………………………………………… 56
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………….59
3
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Dân chủ ngày nay đã trở thành khẩu ngữ hàng ngày trong đời sống chính
trị, xã hội trên toàn thế giới. Không một đảng phái chính trị nào, không một
quốc gia nào không nói tới dân chủ và luôn nêu cao khẩu hiệu dân chủ, coi
đó như là cơ sở cho hoạt động của đảng phái mình. Việc phát triển một lý
luận về dân chủ có ý nghĩa to lớn trong việc vạch ra con đường hướng tới
tương lai tươi sáng hơn của cả loài người và góp phần vào cuộc đấu tranh
cho độc lập dân tộc, giành chủ quyền quốc gia và thiết lập trật tự, bình đẳng
trong các mối quan hệ quốc tế, đặc biệt trong xu thế hội nhập quốc tế hiện
nay.
Ở nước ta, dân chủ là một nội dung quan trọng của cuộc cách mạng do
Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra và lãnh đạo thực hiện từ những năm mới
thành lập, đó là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội mấy chục năm qua, đặc biệt là trong xu thế hội
nhập toàn cầu hiện nay thì dân chủ vẫn luôn là mối quan tâm và được đặc

biệt chú ý. Mặc dù trong những năm qua dân chủ đã có những bước phát
triển và thành công nhưng trong thực tế những hiện tượng vi phạm quyền
dân chủ của dân, tình trạng quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, tham nhũng
đang có xu hướng phát triển. Bộ máy hành chính gây nên nhiều phiền hà cho
nhân dân, nhiều chủ trương, quyết định của các cơ quan có thẩm quyền của
nhà nước chưa có sự tham gia đóng góp của nhân dân, nếu có cũng chỉ mang
tính hình thức, định hướng, do đó đã có những sai sót không đáng có.
Phát huy dân chủ không chỉ góp phần củng cố, kiện toàn tổ chức
Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, không chỉ là giải pháp để
4
hạn chế sự tha hóa quyền lực, chống lại tệ nạn quan liêu, tham nhũng trong
bộ máy nhà nước mà nó còn khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của quần chúng
lao động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của toàn thể nhân dân trong
quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đang tiến hành xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đời sống mọi
mặt của nhân dân được nâng lên, thì vấn đề dân chủ và dân chủ cơ sở ngày
càng có vai trò và ý nghĩa to lớn trong đời sống xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề dân chủ là một vấn đề cấp thiết có tầm quan trọng quyết định tới
ổn định an ninh-chính trị, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Chính vì tầm quan trọng của vấn đề này đang là đối tượng nghiên cứu
và tìm hiểu của nhiều nhà khoa học và độc giả trên cả nước.
Tại đại hội khóa VIII ngày 18/2/1998 Bộ chính trị đã ban hành chỉ thị số
30 CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị 30 của
bộ chính trị sau đó được cụ thể bằng nghị định 29/ NĐ – CP ngày 11/5/1998
và nghị định 79/ NĐ-CP ngày 7/7/2003 ban quy chế thực hiện dân chủ ở xã
thay thế nghị định 29. Tiếp đó, Ban bí thư TW Đảng ( khóa IX ) ban hành
chỉ thị số 10 và thông báo kết luận số 159, ủy ban thường vụ quốc hội ban

hành các nghị quyết và pháp lệnh số 34/2007, chính phủ ban hành các nghị
định về quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan hành chính, doanh
nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH đã tạo ra cơ chế cụ thể về
quyền làm chủ của nhân dân. Cùng với việc ban hành các chỉ thị, nghị định
của chính phủ là các bài viết, sách báo đóng góp ý kiến, xây dựng cho việc
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được nâng cao và hoàn thiện.
5
Bà Hà Thị Khiết – Bí thư Trung ương Đảng, trưởng ban dân vận Trung
ương đã có nhiều bài viết được đăng trên các tạp chí của Đảng góp phần tích
cực vào việc xây dựng quy chế dân chủ cơ sở. Bài : “ Thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở kết hợp chặt chẽ các nội dung trong tư tưởng dân vận Hồ Chí
Minh”, trong bài viết này đồng chí đã nêu lên thực trạng, tầm quan trọng
cũng như những yếu kém trong công tác thực hiện dân chủ ở cơ sở. Thông
qua đó đồng chí đã liên hệ với các nội dung trong tư tưởng dân vận của Hồ
Chí Minh, gắn tư tưởng của Hồ Chí Minh vào việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của việc thực hiện dân chủ ở
cơ sở.
Ông Huỳng Đảm - Ủy viên Trung ương Đảng, chủ tịch ủy ban Trung
ương mặt trân Tổ quốc Việt Nam, có bài: “ Nhìn lại 10 năm thực hiện quy
chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn” ( Tạp chí Cộng sản T10/2009 ). Trong
bài viết này ông đã khẳng định : “ Qua 10 năm thực hiện quy chế dân chủ ở
xã, phường, thị trấn quyền làm chủ của nhân dân ở các địa phương trong cả
nước được phát huy mạnh mẽ. Đó là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển,
đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn các cấp ủy, chính quyền và
Mặt trận tổ quốc Việt Nam cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong lãnh
đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện quy chế”.
Bên cạnh các bài viết thì một số cuốn sách nghiên cứu về dân chủ ở cơ
sở cũng đã được xuất bản : Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính
quyền cấp xã ở nước ta hiện nay – TS Nguyễn Văn Sáu, GS Hồ Văn Thông-

Chủ biên NXB Chính trị Quốc Gia-2003; Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông
thôn trong tiến trình đổi mới GS. TS Hoàng Chí Bảo -Chủ biên, NXB
Chính trị Quốc Gia 2007 ; Quy chế dân chủ ở cơ sở- Ý Đảng, lòng dân Ban
dân vận Trung ương Chủ biên. NXB Chính trị Quốc Gia 2005….Nội dung
6
chủ yếu của các cuốn sách trên nói về tầm quan trọng của vấn đề dân chủ cơ
sở, cùng với đó là một số chủ trương, biện pháp góp phần vào việc thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận tập trung chủ yếu vào việc ảnh hưởng
của xu thế hội nhập quốc tế đối với vấn đề dân chủ ở nước ta, hội nhập quốc
tế sẽ đặt ra những lợi thế và thách thức gì cho việc thực hành dân chủ. Ngoài
ra, tiểu luận còn nghiên cứu một số cơ chế thực hành dân chủ đã được thực
hiện ở nước ta trong thời gian qua.
4. Cơ sở nghiên cứu
Cơ sở lý luận: đề tài lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng
một số cơ sở lý luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật
lịch sử làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài.
Cơ sở thực tiễn: đề tài lấy những vấn đề thực tế về dân chủ đang diễn ra
ở các cấp cơ sở trên cả nước, qua đó tổng hợp, phân tích để tìm ra những
nguyên nhân cũng như đề ra những giải pháp cho việc giải quyết những vấn
đề này.
5. Nhiệm vụ, chức năng
Nhiệm vụ: đề tài tiểu luận tập trung vào việc nghiên cứu những vấn đề về
việc xây dựng, hoàn thiện những cơ chế của việc thực hành dân chủ ở nước
ta trong điều kiện hội nhập quốc tế của nền kinh tế thế giới hiện nay.
Chức năng: nhằm giải quyết một số vấn đề cơ bản còn đang tồn tại trong
việc thực hiện cơ chế thực hành dân chủ trong xu thế hội nhập quốc tế, để đề
ra những giải pháp cơ bản nhất cho vấn đề này.

6. Phương pháp nghiên cứu
7
Để giải quyết những vấn đề đặt ra của tiểu luận, tác giả đã sử dụng tổng
hợp những nguyên tắc về phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú ý sử dụng
phương pháp tổng hợp, so sánh, quy nạp, diễn dịch, thống kê, logic…
7. Kết cấu tiểu luận
Kết cấu tiểu luận gồm 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận.
Trong phần nội dung được chia ra thành 3 chương, 10 tiết và 5 tiểu tiết,
ngoài ra còn một số phần như mục lục, danh mục tài liệu tham khảo.
8
Phần nội dung
Chương I
Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề dân chủ

1.1, Cơ sở lý luận
1.1.1, Các lý thuyết cổ điển về dân chủ
a) Lý thuyết dân chủ cổ đại Hy Lạp
Những quan điểm về dân chủ cổ đại đã được Pericle chỉ ra và là nguyên
tắc chủ đạo của nền chính trị Aten. Trên cơ sở đó, Aristot tổng kết nền dân
chủ có những đặc trưng sau đây:
- Tất cả mọi người đều có quyền bầu cử và ứng cử vào các chức vụ của
nhà nước
- Tất cả nhân dân cai trị một người và mọi người cai trị tất cả
- Các công chức phải được chọn bằng rút thăm ( hoặc là tất cả hoặc là một
số công việc không cần đến sự kinh nghiệm, kỹ năng đặc biệt)
- Nhiệm kỳ của các quan chức không phụ thuộc vào việc sở hữu nhiều hay
ít tài sản.
- Một người không thể giữ một chức vụ hai lần, trừ những trường hợp đặc
biệt.

-Tất cả ( hoặc càng nhiều càng tốt) các vị trí công quyền đều có nhiệm kỳ
ngắn hạn.
9
- Hội đồng xét xử được chọn từ tất cả mọi người và có quyền phán xét tất
cả hoặc hầu hết các vấn đề- tức là tất cả những vấn đề tối cao và quan trọng
nhất như Hiến pháp, các vụ án đăc biệt, các hợp đồng giữa các cá nhân…
- Đại hội đồng là cơ quan thẩm quyền tối cao trong mọi vấn đề, hoặc chí ít
là trong những vấn đề quan trọng nhất, các quan chức hành pháp không có
thẩm quyền đối với bất kỳ (hoặc càng ít càng tốt) vấn đề gì…
- Lương cho bộ máy công quyền được phát định kỳ cho tất cả.
- Nguồn gốc xuất thân, của cải và giáo dục là những chuẩn mực xác định
đẳng cấp của chế độ quý tộc vì vậy những cái đối lập với chúng (xuất thân từ
tầng lớp dưới, thu nhập thấp, nghề nghiệp chân tay) lại được xem như là nét
dân chủ điển hình.
- Không có quan chức nào chiếm vị trí công quyền suốt đời.
Theo quan niệm đó và bình đẳng là những điều kiện của dân chủ và là điều
kiện tiền đề của nhau.
b) Chủ nghĩa tự do
Sau thời kỳ cổ đại Hy Lạp – La Mã, phương Tây rơi vào thời kỳ Đêm
trường Trung cổ với sự thống trị của chế độ phong kiến và nhà thờ Thiên
chúa giáo. Vương quyền bị lấn át hẳn bởi thần quyền, tôn giáo, quan điểm
của các giáo sĩ ngự trị toàn xã hội. Mặc dù có một số tư tưởng chính trị tiến
bộ xuất hiện nhưng nhìn chung là không đáng kể. Từ thế kỷ 16 trở đi cùng
với đà phát triển của chủ nghĩa Tư bản, với tiền đề là các chế độ cộng hòa
tồn tại hàng trăn năm trong các đô thị trung cổ, các tư tưởng dân chủ lại có
điều kiện khôi phục, phát triển. Từ đó trong suốt 300 năm, các tư tưởng đó
ngày càng phát triển, đặc biệt vào thế kỷ 18, 19 với sự xuất hiện của nhà
nước Mỹ (1776) . Trong thời kỳ này tư tưởng dân chủ được phân ra làm 2
dòng lớn có ảnh hưởng lẫn nhau, có những điểm chung nhưng cũng có
10

những điểm khác biệt nhau- đó là khuynh hướng dân chủ bảo hộ và khuynh
hướng dân chủ phát triển.
- Các nhà dân chủ bảo hộ với những đại biểu lớn như J.Locke (Anh, 1698-
1764), Mongteskio (Pháp, 1689-1775), Madison ( Mỹ, 1751-1836), Bentham
( Anh, 1773-1836)…Các nhà tư tưởng này đứng trên quan điểm của Hobbes
về vấn đề con người và cho rằng con người với bản tính tư lợi luôn luôn
muốn giành phần lợi về bản thân mình. Họ cho rằng, nếu con người là thực
thể tư lợi thì cách duy nhất không để người khác thống trị là cùng tạo ra các
thể chế có trách nhiệm bao hàm hiến pháp, một nhà nước pháp quyền do dân
bầu theo nhiệm kỳ, mang tính cạnh tranh chính trị.
- Khuynh hướng dân chủ phát triển : điểm chung của các nhà tư tưởng này
so với khuynh hướng dân chủ bảo hộ là cùng xuất phát điểm coi quyền tự
do, bình đẳng của con người là những quyền tự nhiên. Rouseau (1712-1778)
được coi là người đề cập đến quan điểm này rõ nhất, đây cũng chính là quan
điểm của Mác và Angghen sau này. Rouseau cho rằng cần phải tạo ra thể
chế để mỗi công dân có khả năng và nghĩa vụ tham gia vào đời sống chính
trị một cách trực tiếp, tham gia vào việc xây dựng những quy tắc chung có
tính chất quyết định trong việc điều hành xã hội. Nền dân chủ ông đề ra là
nền dân chủ trực tiếp, khác với nền dân chủ gián tiếp của khuyng hướng dân
chủ bảo hộ.
1.1.2, Các lý thuyết hiện đại ở phương Tây về dân chủ
Dù là khuynh hướng bảo hộ hay khuynh hướng thì đều gọi chung là
dân chủ tự do để phân biệt với dân chủ cổ đại, với những nguyên tắc, đặc
trưng và điều kiện chung là thừa nhận các quyền tự do tư hữu, tự do kinh
doanh, tự do theo đuổi hạnh phúc cá nhân, là kinh tế thị trường – đây chính
là lý thuyết hạt nhân của những lý thuyết chính trị nói chung và lý thuyết
11
dân chủ nói riêng. Cho đến đầu thế kỷ XX những lý thuyết về dân chủ vẫn
dựa trên những nền tảng đó.
a, Lý thuyết đa nguyên

Đây là sự phát triển logic của Chủ nghĩa tự do nảy sinh từ thế kỷ 17,
18 ở Châu Âu. Lý thuyết đề cao quyền tự do của con người và coi đó là
điều tự nhiên mà một nhà nước cần phải bảo vệ và phát triển. Lý thuyết đa
nguyên còn được vận dụng bởi quan điểm đa nguyên của triết học trong việc
giải thích thế giới vào lĩnh vực chính trị.
Theo nghĩa rộng, thuật ngữ đa nguyên được hiểu là niềm tin ( hay là
một sự cam kết) về sự đa dạng. Theo nghĩa hẹp, “ đa nguyên” là lý luận về
sự phân bố quyền lực chính trị - cho rằng quyền lực được phân bố rộng rãi
trong xã hội thì tốt hơn là tập trung trong tay giới tinh hoa hay giai cấp cầm
quyền.
Với ý nghĩa như vậy Chủ nghĩa đa nguyên thường được xem như lý
thuyết về chính trị nhóm, trong đó các cá nhân được đại diện một cách rộng
rãi bởi các thành viên của các nhóm có tổ chức. Thuật ngữ “dân chủ đa
nguyên” đôi khi còn được thay cho thuật ngữ “ dân chủ tự do” để chỉ hệ
thống dân chủ dựa trên sự cạnh tranh bầu cử giữa các đảng chính trị.
b, Chủ nghĩa tinh hoa
Chủ nghĩa tinh hoa thực ra không có gì quá mới mẻ đối với chúng ta,
nó đã được đề cập ngay từ thời cổ đại ( đại diện là Platon). Tuy nhiên, nếu
như thực chất của tư tưởng Platon lại là chống lại dân chủ ( quyền lực tập
trung vào một nhóm giàu có, quyền lực), thì chủ nghĩa tinh hoa hiện đại cho
rằng dân chủ chính là thể chế, là cách thức để công dân có thể lựa chọn
những “tinh hoa” đại diện cho mình thông qua bầu cử định kỳ mang tính
cạnh tranh cao. Shumpeter – một trong những đại diện của Chủ nghĩa tinh
12
hoa khẳng định: “Chủ nghĩa tinh hoa cạnh tranh là mô hình phù hợp nhất, có
khả năng vận hành tốt nhất nền dân chủ”.
c, Chủ nghĩa tập đoàn
Khác với những người ủng hộ chủ nghĩa đa nguyên, những người theo
Chủ nghĩa tập đoàn cho rằng thực tế chính trị ở một số nơi thì các tổ chức
đại diện cho giới chủ, giới lao động và giới quan chức nhà nước có tác động

qua lại chi phối lẫn nhau. Những thể chế này bên ngoài Nghị viện nhưng có
vai trò quyết định tới các chính sách của nhà nước chứ không phải Nghị
viện.
Vai trò chính của các nghị sĩ trong nghị viện là đại diện theo chức
năng, nghĩa là đại diện của các tập đoàn, nghiệp đoàn và các cơ quan hữu
trách của nhà nước. Điều này đã làm suy giảm nền chính trị và đảng, song
nó không có nghĩa là không có dân chủ mà là dân chủ được biểu hiện bằng
những hình thức khác, phương thức khác. Nền dân chủ cần phải được thể
hiện trong sự cộng tác giữa các tập đoàn, giới lao động và quan chức nhà
nước.
Tuy nhiên với tư cách là một mô hình lý thuyết định hướng cho thực
tiễn thì Chủ nghĩa tinh hoa và Chủ nghĩa tập đoàn là củng cố thêm lý luận
cho những thế lực Tư bản khác nhau. Nếu chủ nghĩ tinh hoa là bảo vệ nền
chính trị dòng dõi, thì Chủ nghĩa tập đoàn là sự bảo vệ cho sự cấu kết chặt
chẽ giữa các thế lực quan liêu và tập đoàn Tư bản trong đời sống chính trị.
1.1.3, Dân chủ ở Việt Nam
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam ngay từ thời ỳ chưa có Đảng cộng
sản thì các phong trào đấu tranh cho dân chủ đã diễn ra rộng khắp như
phong trào Đông Du nghĩa thục, phong trào Duy Tân… Nhưng chỉ dến khi
Đảng cộng sản Đông Dương ra đời thù các cuộc đấu tranh dân chủ ở nước ta
mới trở thành một bộ phận của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Mục tiêu
13
của cuộc cách mạng do Đảng lãnh đạo là: trước hết, làm cuộc cách mạng Tư
sản dân quyền sau đó tiến thẳng lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát
triển Tư bản chủ nghĩa. Dân chủ trong cuộc cách mạng này là giành lại
quyền độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân mà đại đa số là nông dân.
Với mục tiêu đó, cách mạng có nhiệm vụ đánh đổ ách thống trị của thực dân
và phong kiến – đó là sứ mệnh dân chủ vĩ đại. Sau khi đã giành được dân
chủ về chính trị cho cả dân tộc thì phải tiếp tục giành dân chủ cho nhân dân
từ tay giai cấp bóc lột mà chủ yếu là giai cấp phong kiến. Trong cuộc cách

mạng này, không thực hiện được dân chủ cho nhân dân thì không giải phóng
được dân tộc và nếu không giải phóng được dân tộc thì mục tiêu dân chủ cho
nhân dân cũng trở nên vô nghĩa. Nhưng nếu giành được độc lập cho dân tộc
rồi mà nhân dân không có dân chủ thì độc lập cũng trở nên vô nghĩa. Từ khi
bị mất nước vào tay Thực dân Pháp dân chủ trở thành một phong trào, một
nội dung cơ bản của dân tộc và giải phóng dân tộc trở thành mọt phong trào,
một nội dung cơ bản của dân chủ.
Sau Cách mạng T8 nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – nhà nước
công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Nhân dân ta từ địa vị nô
lệ, làm thuê đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ ruộng đồng của
mình. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 Thực dân Pháp đã hoàn
toàn bị đánh đuổi, miền Bắc đã được giải phóng bước vào thời kỳ tiến lên
Chủ nghĩa xã hội. Lúc này, nhân dân miền Bắc đã trở thành người làm chủ
mọi quyền lực trong đó quan trọng nhất là quyền lực nhà nước. Đây là thời
kỳ dân chủ được chú trọng đặc biệt để tạo niềm tin tưởng của nhân dân vào
nền Chủ nghĩa xã hội mới bắt đầu được hình thành. Sau khi thống nhất đất
nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ( năm 1976) đã tuyên
bố trong đường lối chung một nhiệm vụ có tính chất cương lĩnh là xây dựng
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, sao cho nhân dân xứng đáng
14
là người làm chủ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và
chinh phục tự nhiên.
Quyền làm chủ tập thể, mà tính tất yếu khách quan của nó xuất hiện khi
chính quyền nhà nước thuộc về nhân dân, phải được xây dựng thành chế độ
xã hội mà Nghị quyết Đại hội IV gọi là “ chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ
nghĩa”. Chế độ đó là tổng hợp các mối quan hệ, cơ chế, phương thức, mục
tiêu và lực lượng nhằm xây dựng xã hội nước ta thành một xã hội trong đó
người làm chủ chân chính là cộng đồng xã hội, là tập thể nhân dân lao động
có tổ chức mà nòng cốt là liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh
đạo. Một xã hội có khả năng “kết hợp hữu cơ quyền làm chủ tập thể với

quyền tự do chân chính của từng cá nhân” là “một nhà nước kiểu mới, nhà
nước do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tự tổ chức để thực hiện
quyền làm chủ tập thể của mình, nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân,
thông qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với xã hội”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI ( năm 1986) triển khai mạnh
mẽ sự nghiệp dân chủ hóa từ các lĩnh vực tư tưởng, chính trị và đặc biệt là
kinh tế (lĩnh vực mà cho đến bây giờ còn có nhiều nhận thức sai lầm), trao
cho nhân dân quyền chủ động sản xuất kinh doanh, chủ động cải thiện đời
sống của mình. Lúc đó, tinh thần của Nghị quyết Đại hội VI được coi là “cởi
trói”, tạo điều kiện trao cho nhân dân quyền “tự cứu” lấy mình, quyết định
lấy cuộc sống của mình. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI mở ra thời kì
đổi mới đất nước, đối với sự nghiệp dân chủ thì đây là một mốc son chói lọi
đưa sự nghiệp dân chủ của nước ta vào chiều sâu, thành thể chế mà trước hết
là các thể chế kinh tế, đưa ra cách tiếp cận thực tiễn hơn, biện chứng hơn về
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Những thành quả do đổi mới đem lại đã góp phần làm thay đổi đời sống
kinh tế, trên cơ sở đó Đảng và nhân dân có điều kiện để nhìn nhận sâu sắc
15
hơn về các vấn đề dân chủ trong chính trị, trong quản lý nhà nước. Chính vì
thế mà hoạt động của Đảng trong suốt nhiệm kỳ Đại hội VII và Đại hội VIII
đã dành sự chú ý thích đáng đến dân chủ trong chính trị, đã đặt ra một cách
dứt khoát mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, cải cách nền hành chính Việt Nam vốn nặng nề và trì trệ bởi những tàn
tích của nền hành chính quan liêu bao cấp.
Như vậy, dân chủ với tư cách là khát vọng, là quyền tự nhiên của con
người, trong đó có quyền sử dụng tất cả sức mạnh để thực hiện vai trò của
người làm chủ đã được giai cấp thống trị trong lịch sử nhận thức và thể chế
hóa thành những nguyên tắc tổ chức và vận hành của nhà nước cùng với các
thiết chế chính trị khác. Tuy nhiên, cho đến nay trong tất cả các chế độ dân
chủ đã từng tồn tại thì chỉ có chế độ dân chủ Xã họi chủ nghĩa là chế độ thực

sự của dân, do dân và vì dân.
Trong thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa xã hội cùng
với sự phức tạp hóa của các yếu tố cấu thành lên một nền dân chủ thì phạm
vi dân chủ càng được mở rộng, hình thức và biện pháp thực hiện ngày càng
phong phũ, đa dạng. Để những giá trị dân chủ thực sự phát huy vai trò là
động lực cho sự phát triển, đòi hỏi khái niệm dân chủ phải được nhận thức
một cách đúng đắn, khoa học, phải được thể chế hóa thành những quy định,
quy chế cụ thể. Đặc biệt, trong việc tổ chức và kiện toàn bộ máy nhà nước
làm sao cho dân chủ thực sự vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu của quá
trình dân chủ hóa xã hội, phát triển kinh tế và hội nhập xu thế quốc tế.
1.2, Cơ sở thực tiễn
1.2.1, Tình hình chung
Từ nửa cuối thế kỷ XX do sự lớn mạnh của hệ thống Xã hội chủ nghĩa
trên toàn thế giới cùng với đó là sự sụp đổ từng mảng của chủ nghĩa thực
dân cũ và được thúc đẩy bởi những thắng lợi của cách mạng Việt Nam, trào
16
lưu đấu tranh cho dân chủ ngay trong bản thân các nước Tư bản chủ nghĩa
đã có những bước phát triển hết sức mạnh mẽ như các phong trào dân chủ
hóa ở Đông Âu và Liên Xô, phong trào dân chủ hóa ở Châu Phi và Mĩ
Lating, phong trào dân chủ hóa ở Châu Á…Trong nhiều văn kiện của Đảng
từ những năm 60, Đảng ta đã coi phong trào đấu tranh cho hòa bình, dân chủ
và tiến bộ xã hội trong các nước Tư bản chủ nghĩa là một trong ba dòng thác
của thế kỷ XX, cùng với hai dòng thác khác là đấu tranh cho Chủ nghĩa xã
hội và đấu tranh cho độc lập và giải phóng dân tộc.
Tuy nhiên, do các Đảng cộng sản cầm quyền ở các nước đã không có sự
nhận thức và giải quyết đúng mức các vấn đề về dân chủ trong xã hội chủ
nghĩa, cùng với đó là sự nôn nóng, đốt cháy giai đoạn, sự quan liêu, xa rời
quần chúng của một bộ phận đứng đầu làm méo mó bản chất của Chủ nghĩa
xã hội. Nên từ những năm 60, 70 của thế kỷ XX tại một số nước Xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu đã xuất hiện những mầm mống đầu tiên của phong trào

phản kháng tiêu cực mà sau này đã trở thành các phong trào đòi tự do dân
chủ theo hướng bất lợi cho phe Xã hội chủ nghĩa. Nhiều Đảng cộng sản đã
mù quáng coi đó hoàn toàn là những âm mưu chống phá của các thế lực Đế
quốc bên ngoài và đã thẳng tay đàn áp các phong trào này, điển hình là ở
Tiệp Khắc năm 1968 ( biến cố “mùa xuân 1968” và kết thúc bằng việc 500
ngàn Hồng quân Liên Xô và quân đội 4 nước Đông Âu tiến vào Tiệp Khắc
ngày 20-08-1968). Song sự phản kháng đó vẫn âm ỉ để đến cuối những năm
80 lợi dụng sự suy yếu nền kinh tế xã hội ở các nước này cùng với những bất
ổn về chính trị những phong trào này đã phát triển mạnh mẽ đã dẫn đến sự
sụp đổ của chế độ Xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu, trước tiên là Ba
Lan tiếp theo là Đức và các nước khác và cuối cùng là sự sụp đổ và tan rã
của Liên bang Xô Viết. Sự sụp đổ này có sự tiếp tay của các thế lực đế quốc
bên ngoài, lợi dụng tình trạng bất ổn đã xúi giục nhân dân các nước nay đòi
17
dân chủ. Nhưng chúng ta cũng phải khẳng định rằng nguyên nhân sâu xa
chính là sự yếu kém của các nước Xã hội chủ nghĩa, sự tha hóa của đội ngũ
cán bộ và sự yếu kém về dân chủ.
Cùng trong thời gian này thì từ những năm 80, đặc biệt là những năm 90
phong trào đấu tranh cho dân chủ đã phát triển mạnh mẽ và quá trình triển
khai thực hành dân chủ đã diễn ra ở nhiều nước và vùng lãnh thổ thuộc Châu
Á như Đài Loan, Hàn Quốc, các nước Asean…, ở Châu Mỹ Latinh như
Chile, Braxin, Achentina…, ở Châu Phi như Nam Phi. Trong cuộc đấu tranh
cho dân chủ này đã có nhiều nước thành công và được cộng đồng quốc tế
thừa nhận như Trung Quốc, Việt Nam. Nhưng bên cạnh đó là những nước
chưa thành công, có thể nói là là thất bại hoàn toàn đã để lại những hậu quả
về cả kinh tế, chính trị cũng như xã hội hết sức nặng nề, làm biến dạng hẳn
Chủ nghĩa xã hội. Do đó, quá trình dân chủ hóa vẫn còn đang tiếp tục với
những diễn biến phức tạp, khó lường.
1.2.2, Thực tiến dân chủ ở Viêt Nam
Nến dân chủ ở Việt Nam thực sự ra đời gắn liền với thắng lợi của cuộc

Cách mạng T8 -1975. Nó được mở đầu bằng việc lần đầu tiên sau hàng
nghìn năm dưới chế độ phong kiến và gần 100 năm dưới ách thống trị của
Đế quốc, Thực dân, toàn thể nhân dân Việt Nam không kể già-trẻ, gái-trai,
giàu-nghèo, dân tộc tôn giáo…đã đi bỏ phiếu để bầu lên Quốc hội khóa I (6-
1-1946). Ngay từ cuộc bầu cử đầu tiên này đã thực hiện theo nguyên tắc phổ
thông đầu phiếu và bình đẳng. Đây là những nguyên tắc bầu cử tiến bộ mà
cho đến thời kỳ này không phải quốc gia nào cũng thực hiện được.
Sau bầu cử, trong kỳ họp đầu tiên (3-1946), Quốc hội đã bầu cử ra ủy
ban soạn thảo hiến pháp và Hiến pháp đã được thông qua vào tháng 12 năm
đó. Đây là bản Hiến pháp đầu tiên đã khẳng định những nguyên tắc của nền
dân chủ: “ trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mọi quyền hành đều
18
thuộc về nhân dân”. Tiếp theo HIến pháp, dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ
Chí Minh, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tiếp tục được hoàn thiện.
Nhiều thể chế chính trị đã ra đời, chẳng hạn các ủy ban hành chính ở các
tỉnh mà nòng cốt chính là nông dân và công nhân cùng với nhiều thành phần
đa dạng đại diện cho tát cả các giới miễn là có tinh thần yêu nước chống đế
quốc. Đặc biệt, Quốc hội đã trở thành cơ quan đại diện cho nhân dân với
thành phần bao gồm tất cả các đảng chính trị ở Việt Nam khi đó. Ủy ban
thường vụ quốc hội đã bản hành nhiều văn bản luật mang tính cách mạng và
dân chủ trong đó quan trọng nhất là Luật Cải cách ruộng đất (1953) đáp ứng
nguyện vọng của đông đảo nhân dân lúc đó là “ sử hữu ruộng đất”.
Sau 2 năm khôi phục kinh tế (1954-1956), theo chủ trương của Đảng và
chính phủ miền Bắc bước vào những năm cải tạo kinh tế. Đến những năm 60
về cơ bản cả miền Bắc đã không còn những cơ sở kinh tế Tư bản tư nhân,
quan hệ sản xuất Tư bản bị xóa bỏ, giai cấp Tư sản biến mất, thay vào đó là
kinh tế tập thể, quốc doanh. Với những kết quả đó, Hiến pháp năm 1959 đã
khẳng định Việt Nam dân chủ cộng hòa là nhà nước dân chủ nhân dân, thực
hiện chức năng chuyên chính vô sản. Tính chất này kéo dài cho đến sau khi
thống nhất nước nhà đi lên Chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp năm 1980 một lần

nữa khẳng định nhà nước ta là nhà nước chuyên chính vô sản. Với nền
chuyên chính vô sản, nhà nước tấn công quyết liệt vào mọi tàn dư cùa chế độ
kinh tế phong kiến còn xót lại, đặc biệt là thẳng tay đối với giai cấp Tư sản
miền Nam.
Về mặt chính trị, văn kiện Đại hội IV (1976) và sau đó là Đại hội V
(1981) tiếp tục phát triển, khẳng định việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể,
thực hiện chuyên chính vô sản. Đây thực chất là được coi là 2 mặt gắn bó
hữu cơ của nền dân chủ trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội. Hay
nói cách khác là nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ. Chế độ
19
làm chủ tập thể được Đảng ta quan niệm là chế độ trong đó mọi người làm
chủ bản thân, làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ trong sản xuất,
phân phối và tiêu dùng. Văn kiện Đại hôi Đảng nhấn mạnh: nhân dân làm
chủ chủ yếu thông qua nhà nước, trước hết là quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp. Như vậy, cơ chế làm chủ về chính trị ở đây là cơ chế giao tiếp,
đề cao vai trò của nhà nước, cụ thể là các cơ quan dân cử. Theo quan niệm
đó, bộ máy nhà nước được hoàn thành nhằm để phục vụ quyền làm chủ của
nhân dân.
Văn kiện của Đảng cũng như Hiến pháp và Pháp luật luôn nhấn mạnh
tới vai trò của nhà nước, coi nhà nước như là người đại diện chủ yếu của
nhân dân, là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Nhưng thực tế chứng tỏ nhà nước không làm được như thế, Quốc hôi và Hội
đồng nhân dân là những cơ quan được dân bầu ra chỉ hoạt đọng nhiều khi
mang tính hình thức, vai trò hết sức mờ nhạt. Bộ mày hành chính nhà nước
ngày càng phình to, ngày càng quan liêu, cồng kềnh. Thời kỳ 1977 -1988 là
thời kỳ nhà nước có nhiều bộ và cơ qua ngang bộ nhất (44 cơ quan), nhưng
hiệu lực hoạt động quân sự thì không tương xứng. Văn kiện Đại hội Đảng
lần VI -1986 đã chỉ ra nhược điểm của nhà nước ta thời kỳ này là trong khi
quản lý theo kiểu tập chung với bộ máy cồng kềnh thì đã rơi vào tình trạng
buông lỏng, quan liêu, không sâu sát với yêu cầu của thực tiễn. Không

những thế chính quyền ở những nơi này, nơi khác còn có nhiều biểu hiện vi
phạm nghiêm trọng quyền công dân, trong đó có quyền dân chủ. Cùng với
đó là các đoàn thể nhân dân, đặc biệt là vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt
Nam không được coi trọng và phát huy đúng. Đường lối chủ trương của
Đảng thể hiện sự nóng vội, chủ quan, duy ý chí, giáo điều không phản ánh
và đáp ứng đúng nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân.
20
Chính vì vậy, vấn đề dân chủ, mở rộng dân chủ Xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo thực hiện quyền làm chủ của nhân dân để phát huy động lực to lớn, thực
hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
vừa là đòi hỏi khách quan, vừa là yêu cầu cấp bách của thực tiễn cách mạng
nước ta, đồng thời là biện pháp chiến lược để phòng chống tham nhũng,
quan liêu có hiệu quả, để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Trên cơ sở đó tiếp tục
tạo thế và lực cho đất nước bước vào thế kỷ XXI một cách vững chắc.
1.3, Khái niệm dân chủ, cơ chế thực hành dân chủ
Phạm trù “dân chủ” mà chúng ta đang sử dụng có nguồn gốc từ tiếng Hy
Lạp “demos” nghĩa là nhân dân và “kratos” nghĩa là chính quyền, quyền lực.
“Demokratia” có nghĩa là quyền lực của nhân dân, chính quyền của nhân
dân. Dân chủ có nghĩa là dân làm chủ mọi quyền lực xã hội, đó là ước mơ từ
xưa của nhân loại và được các nhà tư tưởng tiến bộ nêu ra rất sớm trong lịch
sử xã hội. Trải qua hàng ngàn năm tiến hóa, đến thời đại chúng ta dân chủ
đang là đòi hỏi bức xúc, là nhu cầu và là động lực xã hội.
Phạm trù “dân chủ” có một lịch sử tiến hóa lâu dài, thể hiện khát vọng của
nhân dân làm chủ vận mệnh của mình. Qua mỗi thời đại, mỗi hình thái kinh
tế - xã hội khái niệm dân chủ ngày càng được triển khai phong phú hơn từ
chiều rộng, chiều sâu đến quy mô, liên quan đến nhận thức, hành vi con
người , các cộng đồng xã hội và hoạt động của nhà nước. Ở mỗi thời đại,
dân chủ mang những đặc trưng và hình thức khác nhau.
Mọi quyền lực xã hội vốn thuộc về nhân dân mà trước hết là nhân dân lao
động, bởi vì nhân dân là nguồn lực xã hội và tạo ra mọi nguồn lực xã hội.

Hơn nữa, xã hội loài người sống thành cộng đồng có tổ chức cần có quyền
lực chung của cộng đồng để phối hợp hoạt động và điều chỉnh hành vi của
mọi thành viên xã hội, biểu hiện thành những chuẩn mực về đạo đức, phong
tục tập quán, pháp luật mà mọi người phải tuân theo. Quyền lực này này là
21
của chung mọi người nhưng nó lại được giao cho một số người thực hiện.
Khi xã hội chưa có sự phân chia giai cấp, còn sống thành những cộng đồng
thị tộc, bộ lạc nguyên thủy thì quyền lực cộng đồng là quyền lực của Hội
đồng công xã trao cho người thủ lĩnh điều hành.
Khi xã hội nô lệ ra đời thay thế xã hội nguyên thủy thì sự phân chia giai
cấp bắt đầu xuất hiện bao gồm chủ nô và nô lệ. Quyền lực cộng đồng được
tổ chức thành nhà nước do giai cấp chủ nô nắm giữ. Giai cấp nô lệ tạo ra hầu
hết mọi nguồn lực xã hội nhưng lại không được quyền sống làm người. Từ
xã hội nguyên thủy sang xã hội nô lệ là một bước tiến từ mông muội, dã man
sang văn minh nhưng người lao động chính lại bị tước đoạt hêt quyền lực.
Nghịch lý lớn nhất của chế độ dân chủ nô lệ là lực lượng sản xuất lớn nhất
tạo ra gần như hầu hết mọi của cải xã hội – giai cấp nô lệ lại bị coi là những
công cụ biết nói và không được hưởng bất cứ quyền lợi chính trị nào.
Chuyển sang xã hội phong kiến nông dân, nông nô có quyền “tự do”
nhưng chỉ là thần dân, là bầy tôi của các ông vua. Quyền lực chính trị, quyền
lực nhà nước nằm trong tay chúa đất và nhà thờ - tức thần quyền và thế
quyền. Đến khi bước sang xã hội Tư bản, giai cấp tư sản đã đưa ra khẩu hiệu
“tự do, bình đẳng, bác ái”, mọi công dân đều có quyền bình đẳng trước pháp
luật, nhưng thực ra trong xã hội này nếu ai không có tiền hoặc ít tiền thì khó
có được sự bình đẳng ấy. Nhưng dù sao thì đây cũng là một sự tiến bộ, nền
dân chủ tư sản đã mở rộng các quyền tự nhiên của cong người. Lần đầu tiên
trong lịch sử, nền dân chủ đã được một giai cấp xây dựng thành thể chế, quy
tắc đê thực thi các quyền lực của nhà nước bằng các cách thức tiến bộ.
Nhưng thực tế của nền dân chủ này đã mở đường cho sự thống trị của các
giai cấp nắm nhiều tài sản trong tay, những người giàu có, nhiều của đối với

những người ít tài sản hoặc không có mà đại đa số những người này lại là
nhân dân. Ngày nay, nhờ áp lực đấu tranh của các lực lượng tiến bộ, đối lập
22
với chủ nghĩa tư bản nên nền dân chủ của giai cấp tư sản đã có những tiến
bộ đáng kể. Sự xã hội hóa cao độ đời sống kinh tế xã hội đã làm xuất hiện
những hình thức dân chủ tham dự, chuyển cho xã hội một số dịch vụ nhà
nước, xuất hiện mô hình “ nhà nước doang nghiệp”… đã làm xói mòn, thay
đổi nhiều kết cấu cổ điển của nền dân chủ tư sản phương Tây. Để khắc phục
những hạn chế của nền dân chủ tư sản, nhân loại đã và đang tìm con đường
khác thay thế, trong đó tiến bộ nhất là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, vấn đề tự do, bình đẳng, quyền công dân, quyền con người đang
là một nhu cầu bức thiết, một động lực to lớn của sự phát triển xã hội mà
mọi thể chế chính trị cần phải quan tâm giải quyết. Cùng với sự tiến hóa của
dân chủ, nhân dân ngày càng có quyền nhiều hơn thì quyền lực nhà nước
ngày càng bị kiểm soát. Trong thể chế quân chủ chuyên chế quyền lực của
người đứng đầu quốc gia, của vua là tối thượng, không có sự kiểm soát.
Nhưng do sử dụng quyền lực một cách tùy tiện nên nhiều khi chính những
ông vua này lại gây nên tội các với chính những thần dân của mình. Đến khi
chế độ quân chủ lập hiến ra đời thì điều này đã được khắc phục, đây là một
bước tiến văn minh chính trị đáng kể.Chế độ quân chủ lập hiến đã hình
thành cơ chế kiểm soát quyền lực ngay trong bộ máy quyền lực nhà nước,
hạn chế đáng kể việc sử dụng quyền lực của vua một cách đáng kể. Đây
cũng chính là xu hướng tiến hóa của nhân loại là ngày càng tiến rới tự do
dân chủ, nhân dân làm chủ và kiểm soát quyền lực nhà nước. Cách mạng xã
hội chủ nghĩa là bước tiến cơ bản về dân chủ, bởi vì cuộc cách mạng ấy với
mục tiêu là dành dân chủ cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dân
chủ cho đa số, dân chủ hơn nhiều lần dân chủ của giai cấp tư sản . Dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa nhân dân được làm chủ và kiểm soát mọi quyền lực xã
hội, nhà nước. Đây chính là sự tiến bộ, là mục tiêu của xã hội chủ nghĩa, là
xu hướng tiến bộ của xã hội. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là tiến xã hội “ nhân

23
đạo hoàn bị” – một xã hội không còn sự tha hóa, áp bức, bóc lột, bất công,
một cộng đồng lao động tự do, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện phát triển của mỗi người.
Xây dựng một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có thời gian và
tuân theo những điều kiện nghiêm ngặt của lịch sử. Xét về bản chất của dân
chủ thì khi còn nhà nước thì dân chủ ở mỗi nước có nhiều hơn hay ít hơn mà
thôi, nói dân chủ hay không dân chủ cũng theo tinh thần ấy, giới hạn ấy.
Ngày nay nội dung của dân chủ vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, là mục
tiêu phấn đấu của mỗi quốc gia và của toàn nhân loại.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong giai đoạn mà sự tồn tại của nhà nước
như là một tất yếu và vấn đề đặt ra chỉ là làm thế nào để có dân chủ. Lúc
này, dân chủ ít hay nhiều chỉ phụ thuộc vào sự tham gia của nhân dân vào
công việc chung của nhà nước nhiều hay ít. Nói cách khác là “cổ phần chính
trị” trong nhà nước được bao nhiêu.
Để dân có “cổ phần chính trị” trong nhà nước cần hai điều kiện:
Một là, sự cấu kết của nhà nước đó, nguyên tắc hoạt động của nhà
nước đó là luôn rộng mở đối với sự tham gia của nhân dân.
Hai là, nhân dân phải chuẩn bị để có một vốn hiểu biết về chính trị,
nghĩa là phải có các hiểu biết kinh tế, văn hóa, văn hóa chính trị và văn hóa
pháp luật để thực hiện vai trò làm chủ của mình.
Tóm lại, dân chủ là xu hướng tiến bộ của xã hội và vừa là mục tiêu vừa là
động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một khi nhân dân làm
chủ mọi quyền lực xã hội trong công cuộc xây dựng đất nước thì mọi sự
sáng tạo của nhân dân sẽ được khơi dậy. Và như thế, chế độ chính trị sẽ ổn
định, bền vững, phát huy được các quyền lực trong nước, tranh thủ được các
nguồn lực từ bên ngoài, tạo nên được sự phát triển nhanh về kinh tế - xã hội.
24
Chương II
Xu thế hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt ra

cho việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực hành
dân chủ ở nước ta
2.1, Hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan của các nước
trong giai đoạn hiện nay
“Toàn cầu hoá” là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử nhân
loại, mà trước hết là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi
động. Cách đây hơn 150 năm, C.Mác đã dự báo xu hướng này và ngày nay
đã trở thành hiện thực. Theo ông, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế mới của
quá trình phát triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ phát triển cao của
lực lượng sản xuất xã hội mà ở đó, phân công lao động quốc tế và quốc tế
hoá sản xuất trở thành phổ biến.
Trong lịch sử, trước khi phương thức sản xuất TBCN ra đời, do trình
độ lực lượng sản xuất thấp kém, giao thông chưa phát triển, việc sản xuất và
trao đổi hàng hoá còn bị giới hạn trong các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, năng
suất thấp nên chưa có thị trường thế giới theo nghĩa hiện đại. Từ khi phương
thức sản xuất TBCN ra đời, đặc biệt là từ khi diễn ra cuộc cách mạng công
nghiệp, đời sống kinh tế các nước có sự thay đổi căn bản. Tình trạng tự cấp,
tự túc và bế quan toả cảng của các địa phương, các dân tộc trước kia được
thay thế bằng sự sản xuất và tiêu dùng mang tính quốc tế. Tuy nhiên, cho
đến trước Thế chiến thứ 2, hình thức quốc tế hóa chủ yếu vẫn là phân công
áp đặt trực tiếp, tức là các nước phát triển áp dụng chiến tranh xâm lược và
bạo lực để thống trị các nước lạc hậu, bóc lột, vơ vét tài nguyên và tiêu thụ
25

×