Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

Nghiên cứu phương pháp nâng cao độ chính xác chuyển trục chính công trình lên sàn tầng xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.19 KB, 50 trang )

DANH MỤC BẢNG BIỂU


DANH MỤC HÌNH VẼ


MỞ ĐẦU
Sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và sự tiến bộ của nhân loại đã đẩy
nhanh tiến trình xây dựng công trình. Từ đó, quy mô, kích thước và độ phức tạp của
công trình xây dựng ngày càng gia tăng. Do vậy việc nghiên cứu phương pháp nâng
cao độ chính xác chuyển trục công trình lên sàn tầng xây dựng là rất quan trọng.
Nhiệm vụ chính của phương pháp nâng cao độ chính xác chuyển trục chính công
trình lên sàn tầng xây dựng là đảm bảo cho nó được xây dựng đúng vị trí thiết kế,
đúng kích thước hình học và điều quan trọng nhất của phương pháp nâng cao độ
chính xác chuyển trục công trình lên sàn tầng xây dựng là đảm bảo độ thẳng đứng
của nó.
Để đảm bảo độ thẳng đứng của tòa nhà trên suốt chiều cao cần xây dựng
theo đúng thiết kế, các trục chính của công trình tại tất cả các sàn tầng xây dựng đều
phải được định vị cho cùng nằm trong một mặt phẳng thẳng đứng đi qua các trục
tương ứng trên mặt bằng gốc.
Ngày nay, với việc ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất,việc chuyển trục
chính công trình lên sàn tầng xây dựng đã đạt được độ chính xác cao hơn rất nhiều.
Nhưng do các công trình ngày càng cao hơn nên cần thiết phải tìm ra một phương
án chuyển trục công trình lên sàn tầng xây dựng vừa khả thi đạt được độ chính xác
cao hơn. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng với việc thi công nhà cao tầng và dể
đảm bảo an toàn cho các công trình xây dựng.
Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng đó em đã chọn và nghiên cứu đề tài :
“ Nghiên cứu phương pháp nâng cao độ chính xác chuyển trục chính công
trình lên sàn tầng xây dựng ”.
Nội dung đồ án được trình bày trong 3 chương
Chương 1: Công tác trắc địa cơ bản trong thi công nhà cao tầng.


Chương 2: Chuyển trục công trình lên sàn tầng xây dựng.
Chương 3: Tính toán thực nghiệm.
Do thời gian và trình độ chuyên môn còn hạn chế nên trong đồ án này không
tránh khỏi những kiếm khuyết. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các
thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để đồ án được hoàn thiện hơn.
Em cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Trắc Địa – Bản Đồ đã
truyền dạy những kiến thức rất hữu ích và đóng góp nhiều ý kiến giúp em hoàn
3


thành đồ án này. Đặc biệt hơn nữa là Th.S Lê Thị Nhung người trực tiếp hướng dẫn
em hoàn thiện đồ án. Với những lời chỉ dẫn, những tài liệu, sự tận tình hướng dẫn
và những lời động viên của cô đã giúp em vượt qua nhiều khó khăn trong quá trình
thực hiện đồ án này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng năm 2015
Sinh viên thực hiện

Đặng Minh Hưng

4


CHƯƠNG 1. CÔNG TÁC TRẮC ĐỊA CƠ BẢN TRONG THI CÔNG
NHÀ CAO TẦNG
1.1. THÀNH LẬP LƯỚI KHỐNG CHẾ MẶT BẰNG VÀ ĐỘ CAO TRÊN KHU
VỰC XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH

1.1.1. Lưới khống chế mặt bằng
Để bố trí các trục và tiến hành các công tác trắc địa phục vụ cho quá trình

xây dựng công trình thì cần phải có một loạt các điểm nối trắc điạ có tọa độ và độ
cao đã biết. Cũng như trong các công tác đo vẽ địa hình, người ta gọi hệ thống các
điểm như thế là “lưới cơ sở của các công tác trắc địa công trình” hoặc “cơ sở trong
bố trí xây dựng”. Nhưng để phục vụ cho bố trí công trình thì lưới trắc địa trên khu
vực xây dựng cần được lập theo hệ tọa dộ giả định (gốc tùy chọn, giá trị tọa độ gốc
tùy đặt, hướng các trục tọa độ tự quy ước và việc đo nối với tọa độ nhà nước chỉ để
dùng cho việc quy đổi tọa độ).
- Mục đích
Trong giai đoạn khảo sát thiết kế:
+ Ở giai đoạn này lưới khống chế chủ yếu phục vụ cho công tác đo vẽ bản đồ
địa hình tỷ lệ 1:500.
Trong giai đoạn thi công công trình các công tác trắc địa có nhiệm vụ chính
là định vị công trình.
+ Từ các mốc trắc địa với các số liệu tương ứng, chuyển các trục chính của
công trình ra ngoài thực địa.
+ Bố trí các trục phụ của công trình, dựa trên cơ sở các trục chính đã được bố
trí
+ Bố trí các điểm chi tiết: Đây là bước đòi hỏi độ cao chính xác cao nhất để
đảm bảo ch công đoạn lắp ráp sau này. Công tác bố trí điểm chi tiết diễn ra trong
suốt quá trình thi công.
+ Đo vẽ hoàn công: Công tác đo vẽ hoàn công được tiến hành khi xây dựng
xong từng bộ phận và khi xây dựng xong toàn bộ công trình, từ đó thành lập bản vẽ
hoàn công tổng thể của công trình.
Trong giai đoạn vận hành công trình:
5


Nhiệm vụ trong giai đoạn này là việc kiểm tra hoạt động của các hạng mục
công trình trong quá trình vận hành khai thác công trình.
- Dạng lưới

Trong thi công xây dựng các khu nhà cao tầng, người ta sử dụng các dạng
lưới sau: Lưới ô vuông xây dựng, lưới tam giác góc cạnh, lưới đa giác để thành lập
lưới cơ sở mặt bằng. Việc lựa chọn một trong số các lưới trên tùy thuộc cào yêu cầu
độ chính xác, điều kiện địa hình, địa vật và hình dạng mặt bằng của khu nhà
Lưới ô vuông xây dựng là hệ thống các điểm trắc địa bao gồm cả mặt bằng
và độ cao được bố trí tạo thành mạng lưới có dạng các ô vuông hoặc hình chữ nhật
với sự phân bố các điểm một cách hợp lí bao phủ toàn bộ mặt bằng khu xây dựng,
các đỉnh của lưới được cố định một cách chắc chắn. Cạnh của lưới có chiều dài là
50m, 100m hoặc 200m và được bố trí song song với các trục chính của công trình,
Lưới ô vuông xây dựng thường được sử dụng trong trường hợp các công trình phân
bố trên khu vực lớn với yêu cầu độ chính xác cao. Ưu điểm của loại lưới này là rất
phù hợp với những công trình có các trục song song hoặc vuông góc với nhau.
Lưới tam giác đo góc cạnh là loại lưới dùng phổ biến trong các công tác trắc
địa nói chung và trắc địa công trình nói riêng. Ưu điểm của loại lưới này là có độ
chính xác cao vì lưới có nhiều trị đo thừa hơn, đồ hình lưới linh hoạt và không phải
tuân thủ theo những quy định thông thường của lưới đo góc hoặc lưới đo cạnh
nhưng vẫn đảm bảo độ chính xác theo yêu cầu (tùy thuộc vào điều kiện địa hình mà
có thể đo toàn góc, toàn cạnh hoặc đo một số cạnh kết hợp với đo một số góc).
Lưới đa giác là dạng lưới cơ sở bố trí phổ biến nhất trên các công trình xây
dựng. Dạng lưới này có tính linh hoạt, để thực hiện và phù hợp với các công trình
xây dựng đơn lẻ, các nhà hoặc công trình xây dựng bổ sung hoặc xây chen. Ưu
điểm của lưới đường chuyền là có khả năng phù hợp với nhiều loại địa hình và hình
dạng công trình khác nhau.
- Yêu cầu độ chính xác đối với lưới khống chế mặt bằng
Trường hợp 1: Nếu lưới khống chế mặt bằng chỉ thành lập với mục đích đo
vẽ bản đồ địa hình nói chung thì tiêu chuẩn để đánh giá độ chính xác của nó là “sai
số trung phương vị trí điểm của cấp khống chế cuối cùng so với điểm khống chế cơ
sở” hay còn gọi là “sai số tuyệt đối vị trí điểm”.
6



Quy phạm đã quy định: Sai số giới hạn vị trí điểm của lưới khống chế đo vẽ
so với các điểm của lưới khống chế cơ sở (lưới nhà nước và tăng dày) không vượt
quá 0,2mm trên bản đồ, tức là MP≤ 0,2mm.M. Đối với vùng cây cối rậm rạp thì yêu
cầu độ chính xác này giảm đi 1,5 lần tức là M P≤ 0,3mm.M, ở đây M là mẫu số tỷ lệ
bản đồ cần thành lập. Đối với bản đồ địa hình dùng để thiết kế, thi công công trình
thì tỷ lệ bản đồ cần thành lập 1:500.
Từ sai số giới hạn MP≤ (0,2mm ÷0,3mm).M, suy ra sai số trung phương vị trí
điểm của cấp khống chế cuối cùng phục vụ cho đo vẽ tỷ lệ lớn 1:5000 ÷ 1:500 m p sẽ
phải nhỏ hơn 2 lần sai số giới hạn vị trí điểm :
mp ≤ 0,5. MP= 0,01mm.M
Với M=500 => mp=50mm
Trường hợp 2: Nếu lưới khống chế mặt bằng được phục vụ cho thi công
công trình (bố trí công trình, lắp đặt thiết bị v.v…) thì tiêu chuẩn đánh giá độ chính
xác của nó là “sai số vị trí tương hỗ của hai điểm lân cận nhau thuộc cấp khống chế
cuối cùng” hoặc “sai số tương hỗ giữa hai điểm trên cùng một khoảng cách nào đó”.
1.1.2. Lưới khống chế độ cao
- Mục đích thành lập lưới
Lưới khống chế độ cao được thành lập trên khu vực xây dựng để cung cấp số
liệu độ cao dùng cho đo vẽ bản đồ địa hình công trình tỷ lệ lớn (M=500), quy hoạch
độ cao của khu xây dựng, cải tạo bề mặt địa hình tự nhiên của khu xây dựng thành
các bề mặt phẳng có độ dốc hoặc hướng dốc theo thiết kế và phục vụ cho công tác
bố trí và xây lắp các công trình về độ cao.
- Đặc điểm
Lưới được thành lập dưới dạng lưới độ cao hạng III, IV. Trên các khu vực có
diện tích rộng cần đặt thêm các vòng thủy chuẩn hạng II.
Lưới độ cao trên khu vực xây dựng công trình thường là lưới độ cao tự do,
trong đó độ cao khởi tính là một độ cao gốc giả định. Tuy nhiên để thống nhất về độ
cao trong đo vẽ bản đồ trong toàn quốc thì lưới độ cao này cần được đo nối với lưới
độ cao nhà nước.

Lưới độ cao trên mặt bằng xây dựng thường được đặt dọc theo các chuỗi xây
dựng để thuận tiện cho công tác bố trí và thi công công trình.
7


Lưới thường được chia làm hai cấp:
+ Cấp cơ sở: Thường được đặt ở vòng ngoài tại các vị trí chắc chắn. Nó có
tác dụng làm cơ sở phát triển các cấp tiếp theo cũng như kiểm tra định kỳ sự ổn
định của lưới độ cao thi công.
+ Cấp thi công: Bao gồm các mốc độ cao thi công tạo thành các vòng khép
đan dày trên mặt bằng xây dựng. Các điểm mốc thường được đặt dọc theo các chuỗi
xây dựng và rất gần các chuỗi xây dựng.
- Yêu cầu độ chính xác
Độ chính xác và mật độ điểm độ cao được tính toán không những nhằm thỏa
mãn cho công tác đo vẽ trong tất cả các giai đoạn khảo sát, thiết kế mà còn phải
đảm bảo những yêu cầu trong công tác bố trí công trình về mặt độ cao.
Để ước tính được độ chính xác và mật độ của các cấp khống chế độ cao
người ta xuất phát từ yêu cầu cao nhất về độ chính xác của công tác bố trí trên mặt
bằng xây dựng, đó là việc bố trí hệ thống ống dẫn ngầm có độ dốc nhỏ nhất. Trong
công tác này độ chính xác thường được quy định: sai số độ cao của mốc thủy chuẩn
ở vị trí yếu nhất của lưới sau bình sai so với điểm gốc của khu vực không được vượt
quá 30mm. Ký hiệu số này là h thì ta có:
(1.1)
1.2. CHUYỂN TRỤC CHÍNH TÒA NHÀ RA THỰC ĐỊA
- Các khái niệm cơ bản
Trục chính của công trình là các đường thẳng cơ sở để từ đó xác định được
vị trí của tất cả các bộ phận chi tiết của công trình dựa theo các số liệu vị trí tương
hỗ đã cho trong bản thiết kế.
Vị trí trục chính
+ Đối với các tòa nhà và các công trình xây dựng thì trục chính là đường

thẳng đi qua mép tường ngoài thiết kế của công trình hoặc có thể là đường thẳng đi
qua tâm của các cột chịu lực của công trình.
+ Đối với các công trình nhỏ, đứng riêng lẻ thì trục chính là các trục đối
xứng.

8


+ Đối với các dạng công trình khác (các công trình có dạng hình tròn, hình
bát giác v.v…) thì trục chính là các đường thẳng xuyên tâm.
+ Tên gọi trục chính: Thông thường các trục dọc thường được đánh dấu bằng
các chữ cái A, B, C,….Z còn các trục ngang được đánh dấu bằng các số 1, 2,…,n.
Điểm các trục chính công trình là điểm giao nhau giữa các trục chính dọc và
các trục chính ngang. Điểm trục chính công trình cũng có thể là điểm đánh dấu một
hướng trục nào đó. Vì vậy, nó là 1 cặp điểm nằm trên hướng của một trục và được
bố trí về hai phía đối diện công trình.
- Yêu cầu về độ chính xác
Theo quan niệm truyền thống, trục cơ bản của tòa nhà thường được chọn là
các đường thằng đi qua mép tường ngoài của tòa nhà và giới hạn đường biên của
nó, hoặc cũng có thể được chọn là trục đối xứng của tòa nhà. Song song với các trục
này sẽ là các trục dọc và ngang định vị các bộ phận chính của tòa nhà. Thông
thường đó là đường tim của các dãy cột chịu lực của tòa nhà. Khoảng cách giữa các
cột này chính là các bước cột và có giá trị từ 6-8m đối với nhà cao tầng. Trong điều
kiện hiện nay các công việc đo đạc về gốc và chiều dài có thể được tiến hành một
cách đồng thời, nhanh chóng với độ chính xác cao bằng các máy toàn đạc điện tự,
thêm vào đó là phạm vi mặt bằng để xây dựng các tòa nhà cao tầng là không lớn
lắm nên hầu như người ta thường sử dụng máy toàn đạc điện tử để bố trí trực tiếp
ngay các điểm định vị các trục công trình (trục định vị các bộ phận chính của tòa
nhà). Các điểm cố định trục này sẽ được dùng làm cơ sở để bố trí các trục chi tiết
của tòa nhà (trục tường, trục cột, v.v.).

Theo TCVN 3972-1985 sai lệch của các trục cột tòa nhà so với trục bố trí
hoặc điểm đánh dấu trục trung bình không vượt quá 5mm. Như vậy có thể suy ra
rằng các điểm mốc trục chính làm cơ sở để bố trí các dấu trục nối trên phải có độ
chính xác cao hơn cỡ 2 lần. Hay nói cách khác sai số các điểm trục chính của công
trình không vượt quá 2-3mm. Với yêu cầu độ chính xác này, việc bố trí các điểm
trục hoàn toàn có thể được thực hiện bằng các loại máy toàn đạc điện tử loại SET 2,
SET 3, TC600 hoặc các loại máy cố độ chính xác tương đương.
- Phương pháp bố trí

9


Việc xây dựng các nhà cao tầng hầu như đều nằm trong quy hoạch kiến thiết
xây dựng chung của toàn thành phố với đặc điểm chung là đa phần các tòa nhà đều
được xây dựng lại trên nền công trình cũ với quy mô lớn hơn, hoặc giải tỏa và xây
chèn nằm giữa các công trình khác hiện có. Như vậy để đảm bảo thiết kế quy hoạch
chung, việc định vị các trục cơ bản của tòa nhà cần được thực hiện từ các điểm của
lưới đường chuyền thành phố. Trong điều kiện có thể được thì tốt nhất chuyển ra
thực địa các mốc định vị nằm trùng trên các trục cơ bản của tòa nhà hoặc có thể
nằm trên đường thẳng song song với các trục này với độ dịch chuyển nào đó
(thường không quá 1m).
Trong giai đoạn đầu xây dựng công trình, mặt bằng xây dựng thường là
thông thoáng, khả năng nhìn thông suốt trên mặt bằng xây dựng là khá thuận lợi nên
trong các điều kiện trang bị máy móc hiện đại như hiện nay thì việc cắm các điểm
trục trên thực địa có thể dễ dàng được thực hiện bằng phương pháp tọa độ cực với
việc sử dụng các máy toàn đạc điện tử. Trong trường hợp do điều kiện mặt bằng xây
dựng khống chế bố trí được các mốc định vị trục như trên, người ta có thể thiết lập
một đường chuyền chạy bao quanh công trình cần xây dựng. Các điểm của đường
chuyền này được chọn đặt tại các vị trí ổn định, ngoài phạm vi thi công xây dựng,
có các điều kiện bảo toàn lâu dài và khả năng phục vụ cao cho công tác bố trí các

điểm trục về sau theo phương pháp tọa độ cực và giao hội cạnh. Sau khi bố trí các
điểm trục cần kiểm tra lại kích thước các đường chéo. Phương pháp đo kích thước
các đường chéo là cách tốt nhất để kiểm tra các khung chữ nhật hoặc hình vuông.
- Cố định các mốc trục
Tùy thuộc vào điều kiện mặt bằng xung quanh công trình mà việc cố định
các trục chính có thể theo các cạch sau:
+ Nếu mặt bằng xây dựng thông thoáng thì ở xung quanh phạm vi xây dựng
công trình và trên hai phía đối diện của hố móng theo hướng mỗi trục chính, cần đặt
một cặp mốc thẳng hàng. Đường thằng đặt qua tâm của hai mốc này và kéo dài vòa
phạm vi xây dựng công trình sẽ chính là hướng của một trục cơ bản nào đó.
+ Nếu mặt bằng xây dựng hẹp hơn, phần đất xung quanh công trình về mỗi
phía không thể đặt được hai mốc (một mốc gần và một mốc xa) như nêu ở trên, thì
ta có thế đặt được một mốc cố định trục.
10


Điểm lưu ý:
+ Các mốc có thể là các cột gỗ hoặc các cột khối bê tông có kích thước
(10x10x70)cm , được chôn sau vào đất và được gia cố chắc chắn, tâm mốc được cố
định bằng đầu đinh có khoan tròn bằng sơn đỏ (hoặc là dấu vạch chữ thập hay lỗ
khoan nhỏ trên tấm thép ở đầu mốc bê tông), bên cạnh có ghi số hiệu của trục.
+ Sau khi kiểm tra thật chắc chắn thì có thể phóng tuyến bằng máy kinh vĩ
dọc trục và đánh dấu trục lên tường của các tòa nhà và công trình xung quanh bằng
dấu kí hiệu trục.
+ Vì các mốc này nằm gần hoặc cách không xa khu vực thi công xây dựng
nên phải thường xuyên theo dõi sự ổn định và kiểm tra sự bảo toàn của các mốc
trong suốt quá trình sử dụng chúng cho các công tác bố trí.
1.3. CÔNG TÁC TRẮC ĐỊA TRONG THI CÔNG MÓNG NHÀ CAO TẦNG
Giai đoạn thi công phần móng công trình là giai đoạn tiến hành xây dựng tòa
nhà đến mức sàn của tầng đầu tiên của công trình. Cơ sở trắc địa cho giai đoạn này

là hệ thống dấu mốc trắc địa được cố định ở phía ngoài công trình dưới dạng các
mốc trên mặt đất hoặc là các dấu trục đánh dấu trên tường của các công trình xung
quanh.
Công tác trắc địa phục vụ thi công cho giai đoạn này bao gồm các công việc
như sau:
1.3.1. Công tác trắc địa phục vụ thi công đào hố móng
Khi đào hố móng phải xách định trên mặt đất đường biên hố móng. Đối với
hố móng băng, trình tự được thực hiện như sau:
Căng dây dọc đường tim của móng băng. Dùng dọi xác định biên của các
băng móng theo kích thước vừa đo trên các đường tim.
Nếu cột có móng độc lập bố trí theo từng hang thì việc bố trí cũng tương tự
như bố trí móng băng. Đối với móng cột độc lập, cần phải xác định vị trí tim óng
dựa vào các đường trục gần nhất, sau đó đổ xác định được biên của móng băng
bằng cách dùng thước thép đo các khoảng cách thiết kế từ tim móng vừa xác định
được.

11


Hình 1.1. Bố trí chi tiết móng
Khi đào đến độ sâu thiết kế, dùng máy thủy bình kiểm tra độ cao hố móng
theo lưới ô vuông có cạnh 4÷5m.
Sau khi móng đã được đào đến độ sau thiết kế, cần chuyển trục công trình
xuống đáy hố móng. Đối với móng sau dưới 2m, thường dùng dây thép căng giữa
các điểm trục cùng tên trên hai hướng đối diện để xác định điểm giao nhau giữa các
trục, sau đó thả dọi đánh dấu xuống đáy của hố móng bằng các cọc. Đối với công
trình có mặt bằng móng rộng, độ sâu lớn hơn 2m thường dùng tia ngắm quang học
của hai máy kinh vĩ đã được định hướng dọc hai trục để xác định vị trí điểm giao
nhau giữa chúng.
Độ chính xác bố trí đẩy móng thỏa mãn đo với sai số đo dài m s ≤ ± 30mm,

do góc với sai số m ≤ ± 30”, đo cao với sai số m h ≤ ± 10mm. Sau khi làm phẳng đáy
móng thì phải đo vẽ hoàn công. Kích thước thực hiện không được vượt quá kích
thước thiết kế ± 5cm.

Hình 1.2. Truyền độ cao xuống đáy hố móng
12


1.3.2. Công tác trắc địa phục vụ thi công các cọc khoan nhồi
Cọc khoan nhồi hiện nay là loại móng chủ yếu đê xây dựng nhà cao tầng
trong phạm vi thành phố, vì vậy bố trí các loại cọc khoan nhồi là dạng công việc
thường gặp nhất trong việc xây dựng phần móng công trình.
- Yêu cầu về độ chính xác vị trí cọc khoan nhồi
Yêu cầu về độ chính xác vị trí cọc khoan nhồi tùy thuộc vào công nghệ
khoan, phương pháp giữ thành, vị trí của cọc trong hệ thống móng, công nghệ đổ bê
tông sau đó.v.v.
Dưới đây là trích dẫn các sai số cho phép đối với khoan cọc nhồi ( Bảng 1.1.)
Bảng 1.1. Bảng sai số cho phép đối với khoan cọc nhồi
Phương pháp tạo lỗ cọc

Sai số về vị trí cọc
Cọc đơn, cọc Cọc đơn, cọc dưới
dưới móng băng móng băng theo
theo trục ngang, trục dọc, ở trong
cọc

1- Cọc khoan giữ D ≤ 1000mm
thành bằng dung dịch
D > 1000m
sét

2- Làm lỗ cọc bằng D ≤ 500m
cách đóng ống hoặc D > 500m

biên

trong nhóm cọc

nhóm cọc
D/6 nhưng không D/4 nhưng không
lớn hơn 100
100 + 0.01H

lớn hơn 150
150 + 0.01H

70

150

100

150

rung
3- Khoan guồng xoắn có mở rộng 70

150

đáy cọc
Ghi chú: H là khoảng cách giữa cốt cao mặt đất ở hiện trường thi công với

cốt cao đầu cọc quy định trong thiết kế, D là đường kính thiết kế của cọc.
Cần lưu ý rằng sai số lớn nhất ảnh hưởng đến vị trí cọc nhồi, sai số đo đạc bố
trí lỗ khoan có thể cho phép từ 15-30mm.
- Phương pháp bố trí

13


Do đặc điểm địa chất của đất nền , nên hầu hết các nhà cao tầng đều được
xây dựng trên các móng cọc, trong đó chủ yếu là khoan cọc nhồi. Có thể nói, cọc
khoan nhồi là một trong những giải pháp móng thích hợp nhất đối với những công
trình có tải trọng lớn, nhất là khi các điều kiện thi công bằng cách khác gặp khó
khăn, hoặc điều kiện địa chất công trình phức tạp và trong điều kiện xây chen.
Dựa vào bản vẽ móng cọc ,vị trí các cọ khoan nhồi sẽ được xác định từ các
điểm cố định trục theo phương pháp tọa độ cực bằng máy toàn đạc điện tử, hoặc có
thể sử dụng máy kinh vĩ cộng thước thép để bố trí theo phương pháp tọa độ cực
hoặc phương pháp giao hội hướng. Vị trí cọc khoan nhồi sẽ được đánh dấu trên mặt
đất bằng các cọc gỗ, đầu cọc được sơn đỏ và có ghi số hiệu cọc để đơn vị thi công
dễ nhận biết.
Sau khi các cọc khoan nhồi đã được thi công xong và đầu cọc nhồi đã được
cắt đến độ cao thiết kế, người ta bắt đầu đào bớt đất tại các cụm cọc nhồi để chuẩn
bị cho việc thi công các đài cọc.
- Đo kiểm tra hoàn công các đầu cọc
Công việc kiểm tra hoàn công các đầu cọc nhồi cũng được thực hiện từ các
điểm cố định trục bằng phương pháp tọa độ cực. Hoặc có thể tiến hành một cách
đơn giản là chuyển trực tiếp các trục dọc và ngang thiết kế của dãy cọc lên đầu các
cọc và đo trực tiếp độ lệch của tâm cọc so với các vạch trục này. Đồng thời với việc
kiểm tra vị trí mặt bằng, người ta cũng kiểm tra vị trí độ cao của các đầu cọc nhằm
phát hiện các sai lệch sau quá trình thi công, lập biên bản bàn giao cho đơn vị thi
công tiếp theo.

1.3.3. Công tác trắc địa phục vụ đo hoàn công hố móng
- Đo vẽ hoàn công hố móng
Kết thúc việc đào hố móng theo từng phần hoặc từng bậc, cần lập bản vẽ
hoàn công trên đó có ghi rõ các sai lệch so với thực tế của kích thước hố móng và
độ cao đáy móng.
Cơ sở trắc địa của việc đo hoàn công hố móng. Về mặt bằng, đó là các trục
được chuyển vào trong hố móng. Về độ cao, đó là các mốc độ cao đã chuyển cào
trong hố móng.

14


Đo vẽ hoàn công hố móng về mặt bằng: Đầu tiên cần chuyển trục vào trong
hố móng, đánh dấu bằng các cọc mốc, khi căng dây giữa các cọc mốc sẽ cho ta vị trí
trục ở trong móng. Dùng thước thép đo khoảng cách từ các trục ( hoặc dây căng) tới
các mép bậc móng, ta sẽ lập được sơ đồ hoàn công về mặt bằng.
Đo vẽ hoàn công hố móng về độ cao: Thông thường dựa vào các trục đã
được chuyển vào trong hố móng, bố trí được trong móng một lưới oo vuông cạnh
ngắn 5 ÷ 10m. Từ các mốc độ cao thi công, đo thủy chuẩn các điểm mắt lưới ô
vuông và điểm lên hồ sơ hoàn công. Tại mỗi mắt lưới ô vuông ghi độ cao dưới dạng
phân số. Tử số là độ cao mặt đất trước khi đào, mẫu số là độ cao mặt đất sau khi
đào. Ở khoảng giữa lưới ô vuông ghi độ cao thiết kế đáy móng mầu đỏ. Sai lệch
giữa các độ cao ghi ở mẫu số và độ cao đó không được vượt quá ± (2 ÷ 3)cm. Sai
lệch về kích thước hố móng so với thiết kế không được vượt quá ± 5cm.
- Đo kiểm tra lắp đặt các bộ phận trong móng
Trước khi đổ bê tông móng cần phải kiểm tra việc lắp đặt các bộ phận trong
móng. Việc lắp đặt các kết cấu neo giữ trong móng là một vấn đề quan trọng, ảnh
hưởng rất lớn tới chất lượng của công tác lắp ráp về sau. Vì vậy trước khi đổ bê
tông cần phải kiểm tra vị trí của tất cả các thiết bị được đặt trong móng cả về mặt
bằng và độ cao. Việc kiểm tra cần bắt đầu từ việc kiểm tra lại lại các mốc bố trí đến

trục chính, hệ thống các khung định vị và các trục đã được chuyển lên ván khuôn.
Dựa vào các trục này người ta dùng dây dọi và thước thép để đo khoảng cách đến
các tâm của các bộ phận trong móng. Kiểm tra lại vị trí tương hỗ của các tim cột,
các thanh chờ cà độ cao của các bộ phận quan trọng trong móng cũng được kiểm tra
bằng máy thủy chuẩn. Theo các số liệu kiểm tra, ta tính được các sai lệch so với
thiết kế đọc theo các trục dọc và ngang, các sai lệch về độ cao, sai lệch về kết cấu
thép chờ .v.v. để từ đó có biện pháp chỉnh kịp thời trước khi đổ bê tông móng.
- Đo vẽ hoàn công hố móng sau khi đổ bê tông
Trong quá trình đổ bê tông, dưới tác động của đầm rung, các bộ phận được
đặt trong móng cũng như các ván khuôn có thể bị xê dịch đi đôi chút.
Ngoài ra do sự co ngót của bê tông cũng làm cho bề mặt bị bê tông bị giảm
độ cao .v.v. Vì vậy, để biết rõ vị trí thực tế của các bộ phận lắp đặt cũng như xác

15


định các kích thước và độ cao phần móng, sau khi tháo dỡ các ván khuôn cần phải
đo vẽ hoàn công móng.
Để làm việc này, các trục chính sẽ được chuyển trực tiếp lên bề mặt bê tông
của móng bằng phương pháp dóng hướng và đánh dấu chúng bằng nét vạch mảnh, ở
những chỗ có đặt mốc bằng kim loại thì trục được đánh dấu trực tiếp lên mặt các
mốc này. Sau đó dùng thước cuộn đo trực tiếp trên bề mặt bê tông khoảng cách từ
các trục dọc và ngang đến các chốt bulông và các bộ phận khác đã được lắp đặt vào
móng, các khoảng cách đến ranh giới của bê tông, các chỗ lồi lõm, các lỗ cửa được
chừa ra ... Đồng thời xác định độ cao của các đầu bulông, các bản neo, bản tựa và
mặt bê tông ở cạnh chúng, độ cao các vị trí đặc trưng của các đường ống trong
móng … Đối với các móng đai của tường nhà, cần đo vẽ vị trí của mặt bằng và độ
cao của tất cả các lỗ hổng đã được chừa ra để sau này đặt các đường ống dẫn ngầm.
Độ chính xác đo vẽ hoàn công móng được quy định như sau: Khoảng cách
đo từ trục đến các bộ phận được đặt trong móng và độ cao của chúng được xác định

với độ chính xác ± 1mm, kích thước của các bộ phận bê tông được đo đến ±1cm.
Kết quả đo vẽ hoàn công là bản vẽ hoàn công móng và bảng kê các số liệu
đo vẽ hoàn công các bộ phận neo giữ. Tài liệu hoàn công này sẽ là cơ sở cho việc
nghiệm thu móng và lắp đặt máy móc thiết bị.
Công việc hoàn tất phần thi công xây dựng ngầm là việc đổ bê tông sàn tầng
trót và trần mái của phần tầng hầm. Công việc này cũng được kết thúc bằng việc
kiểm tra hoàn công độ cao của mặt sàn bê tông theo các dãy điểm mia song song và
phân bố để trên phạm vi mặt sàn.
1.4. CÔNG TÁC TRẮC ĐỊA KHI THI CÔNG PHẦN THÂN CÔNG TRÌNH
1.4.1. Xây dựng cơ sở mặt bằng và độ cao bên trong của các tòa nhà
Trong thi công phần thân công trình cần đảm bảo mặt sàn xây dựng đúng về
vị trí mặt bằng và cao độ. Cơ sở để thi công phần thân công trình là các trục công
trình và các mốc độ cao được đánh dấu trên nền các sàn tầng dưới. Vì vậy, nhiệm
vụ của trắc địa đầu tiền là xây dựng cơ sở về mặt bằng và độ cao trong long công
trình.

16


- Xây dựng cơ sở mặt bằng
Công tác trắc địa trong nội dung này là chuyển các trục chính công trình vào
trong lòng nhà. Tuy nhiên, các trục này theo thiết kế thường là các đường mép hoặc
đi qua tim của các cột chịu lực, nên không thể đặt các máy móc và thiết bị để đo đạc
được. Vì vậy, thực chất của việc chuyển trục chính công trình là chuyển các điểm
trục gửi (hay còn gọi là trục ảo). Trục gửi là trục tương ứng song song với các trục
thực, được tịnh tiến vào trong lòng công trình khoảng 1m.
Phương pháp chuyển các điểm trục gửi trong lòng nhà là phương pháp tam
giác khép kín. Cơ sở để chuyển trục gửi là các điểm khống chế trên mặt bằng xây
dựng. Sau khi chuyển các điểm trục gửi vào trong lòng nhà theo các phương pháp
thông thường như: Tọa độ cực, giao hội, tọa độ vuông góc… lập lưới khống chế qua

các điểm trục vừa chuyển này. Tiến hành bình sai thu được tọa độ thực tế các điểm
trục vừa bố trí. Tọa độ sau bình sai của các điểm lưới (điểm trục gửi) so với thiết kế
nếu nhỏ hơn hạn sai thì sử dụng các điểm này là cơ sở chuyển lên các mặt sàn xây
dựng, nếu vượt hạn sai tiến hành hoàn nguyên điểm lưới để đưa chúng về vị trí thiết
kế.
Độ chính xác của các điểm trục này phải cao hơn độ chính xác chuyển trục
công trình lên sàn tầng một bậc. Nếu yêu cầu độ chính xác chuyển trục lên các sàn
tầng xây dựng khoảng ± 5mm, thì độ chính xác của các điểm trục gửi trên mặt bằng
móng khoảng ±2mm ÷ ±3mm.
- Xây dựng cơ sở về độ cao
Cùng với việc chuyển các điểm trục công trình vào trong lòng nhà và lập
lưới bố trí cơ sở mặt bằng gốc của tòa nhà, tiến hành chuyển độ cao từ mốc đã biết
phía ngoài công trình vào trong lòng nhà. Việc chuyển độ cao được thực hiện bằng
phương pháp thủy chuẩn hình học, các điểm độ cao được gắn trên mặt sàn, lên
tường hoặc cột tại những vị trí thuận tiện cho công tác đo đạc nhưng vẫn phải đảm
bảo độ an toàn và ổn định trong suốt quá trình thi công công trình.
1.4.2. Chuyển các yếu tố mặt bằng và độ cao lên các sàn tầng
1.4.2.1. Chuyển mặt bằng lên các sàn tầng
Để đảm bảo độ thẳng đứng của tòa nhà trên suốt chiều cao cần xây dựng
theo thiết kế, các trục công trình tại tất cả các tầng xây dựng đều phải được định vì
17


sao cho cùng nằm trong mặt phẳng đúng đi qua các trục tương ứng trên mặt bằng
gốc cần được chuyển lên mặt sàn tầng thi công xây dựng của các tầng theo một
đường thẳng đứng.
Thông thường người ta không chuyển trực tiếp tất cả các điểm của lưới bố trí
cơ sở trên mặt bằng gốc lên các mặt bằng lắp ráp xây dựng tiếp theo mà chỉ chuyển
một số điểm nhất định được chọn làm điểm gốc. Việc lựa chọn các điểm nào làm
điểm gốc để chuyển lên các tầng trên được dựa trên cơ sở:

+ Khả năng đảm bảo sự thông suốt hướng ngắm từ mặt bằng gốc lên các
điểm phía trên của tòa nhà.
+ Dạng của lưới cơ sở.
+ Khả năng sử dụng các điểm cơ sở mặt bằng này sau khi chuyển lên mặt sàn
xây dựng vào các công tác bố trí trên mặt sàn đó.
+ Phương pháp tiến hành thi công xây dựng tòa nhà.
Số lượng điểm cơ sở được chuyển lên mặt bằng xây lắp được xác định tùy
thuộc vào kích thước của tòa nhà hoặc công trình và tùy thuộc vào tổ chức lắp ráp
xây dựng, nhưng nói chung cần không ít hơn 3 điểm.
Bảng 1.2. Sai số trung phương chuyển trục và độ cao lên các mặt bằng xây lắp
Các sai số
Sai số trung phương chuyển
các điểm, các trục theo
phương thẳng đứng (mm)
Sai số trung phương xác định
độ cao trên mặt bằng thi công
xây dựng so với mặt bằng gốc

Chiều cao của mặt bằng thi công xây dựng (m)
< 15
15 ÷ 60
60 ÷ 100 100 ÷ 120
2

2,5

3

4


3

4

5

5

Trong xây dựng các công trình cao nhiều tầng, tùy thuộc vào kiểu của tòa
nhà hoặc công trình, chiều cao và sô tầng, các đặc điểm kết cấu và sự phức tạp của
các thiết bị và công nghệ lắp đặt bên trong công trình đó, cũng như tùy thuộc vào
điều kiện mặt bằng xung quanh công trình đang xây dựng mà việc chuyển (chiếu)
các điểm của lưới cơ sở lên các mặt bằng xây lắp có thể thực hiện bằng một trong
các phương pháp sau:
18


+ Phương pháp dùng dây dọi chính xác
+ Phương pháp sử dụng máy kinh vĩ
+ Phương pháp sử dụng máy toàn đạc điện tử
+ Phương pháp sử dụng máy chiếu đứng
+ Phương pháp chuyển điểm bằng công nghệ GPS
Các phương pháp trên sẽ được trình bày cụ thể ở chương 2 đồng thời sẽ có
một số đề xuất để nâng cao độ chính xác công tác chuyển trục công trình trên các
sàn tầng xây dựng.
1.4.2.2. Chuyển độ cao lên các sàn tầng
Khi các điểm độ cao đã được chuyển vào trong công trình, coi độ cao các
điểm này là cơ sở để chuyển lên sàn tầng xây dựng.
Một số phương pháp chuyển độ cao lên các sàn tầng:
+ Dẫn độ cao hình học theo đường cầu thang bộ

+ Chuyển độ cao bằng máy và mia thủy chuẩn kết hợp với thước thép treo
+ Đo khoảng cách theo chiều thẳng đứng
+ Dùng máy đo dài điện tử cầm tay
Trong xây dựng nhà cao tầng hiện nay, biện pháp thông dụng nhất và chắc
chắn nhất là: Chuyển độ cao bằng máy và mia thủy chuẩn kết hợp với thước thép
treo dưới đây là sơ đồ chuyển độ cao lên sàn tầng.

Hình 1.3 Chuyển độ cao lên sàn tầng

19


Theo sơ đồ này cần sử dụng 2 máy thủy chuẩn đặt tại mặt bằng gốc ( hoặc
mức sàn nào đó) và đặt tại sàn tầng thứ i cần phải chuyển độ cao lên. Thước thép
được treo thẳng đứng và kéo căng, đồng thời để hạn chế sự rung động của thước
thép do tác động của gió, có thể chọn vị trí khuất gió phía trong của công trình để
thả thước thép treo. Máy thủy chuẩn tại mặt sàn gốc đọc số trên mia dựng tại các
điểm mốc độ cao R là a1 và trên thước thép treo là b1. Máy thủy chuẩn còn lại đọc
số trên thước thép treo là b2 và trên mia dựng tại các điểm cần chuyển độ cao M trên
tầng thứ I là a2. Vậy độ cao HM của tầng thứ i sẽ được xác định theo công thức :
HM = HR + a1 + (b2 – b1) - a2

( 1.2 )

Tương tự như trên cần chuyển thêm một điểm độ cao nữa lên tầng thi công
thứ I để tạo điều kiện kiểm tra và nâng cao độ chính xác cũng như thuận lợi cho
việc chuyển độ cao lên tầng tiếp theo.
+ Một số chú ý:



Để nâng cao độ chính xác và kiểm tra kết quả đo, việc chuyển độ cao
như trên có thể được thực hiện từ một mốc độ cao góc thứ hai và sau
khi đã thay đổi độ cao máy hoặc vị trí của thước thép treo.



Thước thép phải được kiểm nghiệm trước khi sử dụng.



Để khắc phục các sai số của máy (sai số góc i) thì vị trí đặt máy thủy
chuẩn nên đảm bảo sự cân bằng khoảng ngắm giữa máy đến thước
thép và mia.

1.4.3. Công tác bố trí chi tiết và đo kiểm tra trong thi công xây dựng
- Công tác bố trí chi tiết
Bố trí mặt bằng: Công việc bố trí mặt bằng kể từ mặt sần của tầng thứ 2 được
thực hiện ngay từ trước khi đổ bê tông sàn. Công việc bố trí về mặt bằng lúc này là
phải định vị rõ vị trí đường biên theo thiết kế của mặt sàn và vị trí của tất cả các trục
và các chi tiết khác của tòa nhà.
Cơ sở để bố trí chi tiết về mặt bằng là các điểm khống chế đã được lần lượt
chuyển lên các tầng từ mạng lưới trên mặt bằng gốc. Việc bố trí chi tiết theo hướng
các cạnh, hoặc dựng các góc vuông với các cạnh của lưới. Sau đó dựa theo hướng
chuẩn vừa xác định, người ta sẽ đặt khoảng cách thiết kế giữa các trục được lấy từ
bản vẽ thi công để xác định các trục chi tiết của từng bộ phận. Việc đo chiều dài
20


được tiến hành bằng thước thép do trực tiếp lên mặt bê tông. Vị trí giao nhau giữa
các trục sẽ được đánh dấu bằng các đinh bê tông dài 3-5cm có dấu tâm tròn hoặc

chữ thập trên đầu mũ. Tất cả các đầu đinh mũ sau khi đã cố định cần khoanh tròn
bằng sơn đỏ và ghi rõ số hiệu điểm trục bên cạnh. Nhờ cách đánh dấu điểm như vậy
mà ta có thể dễ dàng tìm lại chúng và khôi phục lại vị trí của tất cả các trục để sử
dụng cho các công việc bố trí khác hoặc đo kiểm tra hoàn công về sau, ngay cả khi
mặt sàn đã bị bùn đất hoặc nước vừa bê tông vương vãi che lấp mất các đường vạch
trục đã vạch và đánh dấu.
Sau khi đã xác định và đánh dấu được vị trí các trục bố trí trên mặt sàn,
người ta sẽ dựa vào đó để xác định vị trí chính xác của từng chân cột chịu lực để
chuẩn bị đổ bê tông hoặc vị trí đường tim và đường biên của tất cả các chi tiết công
trình khác sẽ được xây dựng ở mỗi tầng.
Bố trí về độ cao: Việc bố trí về độ cao trong quá trình thi công nhà cao tầng
dựa trên cơ sở độ cao của mốc thủy chuẩn thi công xây dựng đã được xác định trên
mặt sàn của từng tầng và được thực hiện bằng phương pháp thủy chuẩn hình học.
Trong giai đoạn thi công phần thô, đổ bê tông sàn và các cấu chịu lực khác,
việc bố trí độ cao chủ yếu là đặt các dấu mức cao đổ bê tông lên thành phía trong
của ván khuôn. Trong giai đoạn hoàn thiện và lắp đặt các thiết bị, việc dặt các vị trí
độ cao chủ yếu cần đảm bảo yếu tố tương hõ giữa các bộ phận trong phạm vi của
từng tầng. Công việc được thực hiện bằng máy thủy chuẩn và mia với việc sử dụng
các dấu vạch độ cao chẵn đã được đánh dấu từ trước trên các cột nhà.
- Công tác đo, kiểm tra
Đo và kiểm tra về mặt bằng: Việc đo và kiểm tra về mặt bằng trên các tầng
được thực hiện dựa trên cơ sở các điểm và các cạnh của lưới bố trí cơ sở đã được
chuyển lên mặt bằng xây dựng của tầng đó.
Trước khi đổ bê tông sàn cần phải kiểm tra lại các vị trí các ván khuôn định
dạng đường biên của sàn bao gồm các trị đo : đo khoảng cách giữa các điểm gãy
của đường biên, đo chiều dài của các đường vuông góc hạ từ các điểm này tới các
trục dọc và ngang gần nhất (được xác định trên mặt sàn bằng dây thép nhỏ kéo giữa
các điểm dấu trục). Đối với các đoạn đường biên sàn là đường cong tròn thì trước
hết phải xác định vị trí của tâm đường cong. Sau đó đo các đoạn từ tâm tới các điểm
21



nằm trên thành phía trong của cốt pha biên. Tất cả các giá trị đo kiểm tra trên đều
được so sánh với giá trị thiết kế đã được ghi trên các bản vẽ thi công. Tùy thuộc vào
tính chất quan trọng của từng vị trí đo kiểm tra mà sai lệch so với giá trị thiết kế có
thể cho phép từ 0,5 – 1cm.
Khi đổ bê tông các cột chịu lực, tường bê tông của tông của giếng thang
máy, các bộ phận công trình bê tông khác, công tác đo kiểm tra bao gồm: Kiểm tra
độ lệch so với thiết kế của đường mép trong ván khuôn, vị trí các trục ván khuôn,
độ thẳng đứng của thành ván khuôn, kích thước và hình dạng của các ván khuôn…
Tất cả các mục kiểm tra chi tiết đều phải lập bản vẽ hoàn công, trên đó có chỉ
rõ các giá trị độ lệch tại các vị trí so với giá trị thiết kế, độ nghiêng và hướng
nghiêng. Sau đó bàn giao cho đơn vị thi công để chỉnh sửa lại ngay. Công việc đổ
bê tông chỉ được cho phép tiến hành đối với các hạng mục công trình mà kết quả
kiểm tra lần cuối cho thấy đã đạt các yêu cầu độ chính xác đã cho trong bản thiết kế
nhà thầu quy định.
Các công việc đo kiểm tra hoàn công sau khi đổ bê tông hoặc sau khi xây
dựng các tường ngăn cũng được tiến hành tương tự.
Các phương pháp đo kiểm tra hoàn công thường áp dụng là: Phương pháp
các đường vuông góc (tọa độ vuông góc), phương pháp ngắm chuẩn cạnh sườn,
phương pháp giao hội cạnh hoặc phương pháp đo tọa độ bằng các máy toàn đạc
điện tử chính xác, sử dụng các gương chuyên dụng loại nhỏ.
Để làm cơ sở cho các công việc đo kiểm tra nêu trên, sau khi đổ bê tông và
tháo dỡ ván khuôn, cần khôi phục lại vị trí các trục đã đánh dấu dựa vào các dấu
đinh bê tông đã được cố định trên mặt sàn sau khi đổ bê tông sàn tầng.
Đo kiểm tra về độ cao: công việc đo kiểm tra về độ cao đối với mỗi tầng
được bắt đầu bằng việc đo kiểm tra độ cao mặt sàn trước khi đổ bê tông. Để làm
việc này, máy thủy chuẩn cần đặt tại các vị trí ổn định, ví dụ như trên đầu các cột
lớn đã đổ bê tông hoặc trên các mặt sàn đã đổ bê tông của các công trình lân cận.
Các điểm đo kiểm tra phải bố trí theo các tuyến song song với các trục và phân bố

đều trên toàn bộ phạm vi mặt sàn. Căn cứ vào độ sai lệch so với giá trị độ ca o thiết
kế tại các vị trí đo kiểm tra, người ta sẽ hiệu chỉnh lại độ cao của mặt sàn bằng cách vặn
ra hoạc vặn vào các ốc điều chỉnh để nâng hoặc hạ độ cao của giàn giáo sắt đỡ phía dưới.
22


Công việc đo, kiểm tra này cũng được tiến hành lặp lại sau khi đổ bê tông để
kịp thời chỉnh sửa các chỗ bị võng xuống hoặc vồng cao hơn so với độ cao mặt sàn
thiết kế.
Thông thường thì chỉ sau khi điều chỉnh độ cao mặt sàn trước khi đổ bê tông
yêu cầu, người ta mới làm công việc chuyển các trục lên đó để làm cơ sở cho các
công việc đóng cốt pha đường biên sàn, cốt pha các chỗ phải chừa lại khi đổ bê
tông…
Để kiểm tra độ cao khi đổ bê tông của các dầm hoặc các bộ phận bê tông
khác, ở trên cao, khi đó mia để đo kiểm tra được dựng ngược sao cho đáy mia tiếp
xúc với đáy của dầm, người đo cần phải lưu ý đến cách lấy giá trị và dấu của sô đọc
trên mia khi tính toán độ cao kiểm tra.

23


CHƯƠNG 2. CHUYỂN TRỤC CÔNG TRÌNH LÊN SÀN TẦNG XÂY DỰNG
2.1. YÊU CẦU ĐỘ CHÍNH XÁC CHUYỂN TRỤC CÔNG TRÌNH LÊN CAO
Theo quy phạm hiện hành về công tác trắc địa trong xây dựng sai số việc
chuyển tọa độ của các điểm cơ sở của lưới trục công trình trên mặt bằng gốc và độ
cao lên các mặt bằng tầng thi công xây dựng trên cao được ấn định tùy thuộc vào
chiều cao của mặt bằng thi công xây dựng và được nêu trong bảng sau:
Bảng 2.1 Sai số trung phương chuyển trục lên các mặt bằng xây lắp
Các sai số
Sai


số

phương

trung
chuyển

các điểm, các trục
theo

Chiều cao của mặt bằng thi công xây dựng (m)
<15
15 ÷ 60
60 ÷ 100
100 ÷ 120

2

2,5

3

4

phương

thẳng đứng (mm)
Trong đó t có giá trị bảng 2, 2,5, 3, 4 và được ấn định trước trong bản thiết
kế xây dựng hoặc bản thiết kế các công tác trắc địa, tùy thuộc vào tính chất quan

trọng và mức độ phức tạp của công trình.
2.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHUYỂN TRỤC CÔNG TRÌNH LÊN CAO
2.2.1. Phương pháp dọi cơ học
Giả sử có điểm A đã được thành lập ở mặt sàn tầng xây dựng. Thông qua
lỗ chiếu điểm trên trần ngăn, tiến hành thả một quả dọi được treo trên giá và chỉnh
cho đỉnh quả dọi trùng với điểm A. Dùng một thanh thước cố định vào lô chiếu và
tiếp xúc vào dây dọi sẽ đánh dấu được các vị trí A và B trên mặt lỗ chiếu. Xoay
thước đi 90°, lại cho thước tiếp xúc với dây dọi tương tự ta sẽ đánh dấu được điểm c
và d. Giao của các đường ab và cd chính là hình chiếu điểm trục A chần ngăn.
Độ chính xác của công tác chuyển điểm theo phương thẳng đứng nhờ dây
dọi vào khoảng 1/1000 chiều cao chuyển điểm.
Phương pháp này hiện nay rất ít được áp dụng mặc dù dễ thực hiện. Mặt
khác khi chiều cao lớn và có gió mạnh thì việc ứng dụng phương pháp này sẽ gặp
rất nhiều khó khăn. Để nâng cao độ chính xác có thể sử dụng quả dọi nặng và chọn
24


thời điểm thao tác vào lúc lặng gió. Thông thường người ta chỉ sử dụng phương
pháp này để kiểm tra độ thẳng đứng của các kết xây dựng trong phạm vi từng tầng.

Hình 2.1. Chuyển trục công trình theo phương pháp dây dọi
2.2.2 Phương pháp sử dụng máy kinh vĩ
Phương pháp này thường được gọi là phương pháp chiếu thẳng đứng bằng
tia ngắm nghiêng của máy kinh vĩ. Để chuyền tọa độ bằng máy kinh vĩ lên các tầng
việc đầu tiên là phải gửi các điểm đầu trục ra ngoài. Khoảng cách từ điểm gửi đến
chân công trình tốt nhất là chọn xấp xỉ bằng chiều cao của nó, để góc đứng < 45°.
Quá trình gửi điểm được tiến hành bằng máy kinh vĩ và thước thép dựa vào các
điểm lưới khống chế bên trong. Các điểm gửi được đánh dấu cẩn thận đổ bê tông và
gắn dấu mốc để bảo quản cho quá trình sử dụng sau này. Thông thường các điểm
trục thường được gửi lệch so với trục khoảng cách từ 50-80cm để tiện cho quá trình

thực hiện và thi công.
Sau khi đã gửi các điểm đầu trục ra ngoài ta tiến hành chuyền tọa độ. Máy
kinh vĩ được đặt tại các điểm gửi và được định tâm, cân bằng cẩn thận. Sau đó dùng
chỉ đứng giữa ngắm vào điểm dấu trục ở tường bao rồi cố định trục quay máy, nâng
ống kính lên đánh dấu trục vào chân tường tầng 1. Tiếp tục nâng ống kính lên đánh
dấu trục lên tường ở mặt sàn cần chuyển lưới ở phía trên bằng hai vị trí bàn độ.
Sauk hi thực hiện việc chiếu điểm theo hai phương vuông góc với nhau ở mặt bằng
tầng 1 đi qua điểm đã có là sẽ chuyển được điểm trục lên theo phương pháp thẳng
đứng như hình 2.2.

25


×