Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Luận văn nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn thị xã phổ yên, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.77 KB, 87 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

TRẦN MẠNH HOÀNG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGHỀ CHO
LAO ĐỘNG NÔNG THÔN THỊ XÃ PHỔ YÊN
TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Thái Nguyên 2015


TRẦN MẠNH HOÀNG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO LĐNT THỊ XÃ PHỔ YÊN,
TỈNH THÁI NGUYÊN
Ngành: Phát triển nông thôn
Mã số ngành: 60.62.01.16

LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Minh Thọ


3


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và hoàn toàn chưa
hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ để thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Trần Mạnh Hoàng
LỜI CẢM ƠN

Trước hết với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn đến cô giáo TS. Nguyễn
Thị Minh Thọ - Người trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, các Thầy Cô
thuộc phòng Đào tạo trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn ĐU- HĐND - UBND thị xã Phổ Yên; Phòng Lao động thương binh và xã hội thị xã Phổ
Yên; UBND các xã: Đắc Sơn; Tiên Phong; Đồng Tiến và các hộ gia đình ở 03 xã trên đã cung cấp số liệu thực tế
và thông tin cần thiết để tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đồng nghiệp, bạn bè, cùng toàn thể gia đình, người thân đã động
viên, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu đề tài.
Thái Nguyên, ngày 30 tháng 08 năm 2015
Tác giả luận văn


4

Trần Mạnh Hoàng

3.2.1.

Một số hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước (UBND Thị xã Phổ


1.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Từ viết tắt

Nghĩa của từ viết tắt

CNH

Công nghiệp hóa

HĐH

Hiện đại hóa

LĐNT

Lao động nông thôn

NN

Nông nghiệp

KCN

Khu công nghiệp

PTNT


Phát triển nông thôn

THPT

Trung học phổ thông

UBND

Ủy ban nhân dân


Bảng 3.19. Mức độ đáp ứng yêu cầu công việc của người LĐ sau khi tốt
nghiệp ..63 Bảng 3.20. Dự báo tổng cầu lao động qua đào tạo nghề giai
đoạn 2015-2020 ... 69

DANH MỤC CÁC HÌNH


6

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo quyết định 1956 là chủ trương
đúng đắn, kịp thời của Chính phủ nhằm đáp ứng yêu cầu học nghề, tạo việc làm ổn
định, nâng cao nguồn lao động ở nông thôn. Các lớp đào tạo nghề ngắn hạn đã nâng
cao trình độ tay nghề, tính kỷ luật, phẩm chất đạo đức, đáp ứng yêu cầu việc làm của
người lao động. Có thể nói công tác đào tạo nghề cho Lao động nông thôn (LĐNT)
là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao
chất lượng lao động nói chung và LĐNT nói riêng để đáp ứng yêu cầu công nghiệp

hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Chính vì vậy, vấn
đề cấp thiết hiện nay là làm sao để phát triển đào tạo nghề cho LĐNT, có chính sách
đảm bảo thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với LĐNT, khuyến
khích, huy động và tạo điều kiện thuận lợi để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho
LĐNT.
Phổ Yên là Thị xã nằm ở phía Nam của tỉnh Thái Nguyên. Trong thời gian
qua công tác đào tạo nghề trên địa bàn Thị xã đã đạt được những kết quả nhất định.
Bước đầu đáp ứng được nhu cầu học nghề của người lao động, nhu cầu sử dụng lao
động của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Việc phát triển các ngành nghề phi
nông nghiệp, ngành nghề truyền thống mây tre đan, sản xuất đồ gỗ, sản xuất chè đã
thúc đẩy tình hình kinh tế - xã hội Thị xã Phổ Yên dần đi vào ổn định và có chiều
hướng tăng trưởng tốt. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn là lĩnh vực sản xuất vật chất
quan trọng và thu hút nhiều LĐNT. Với tình hình đó, khi khoa học công nghệ phát
triển và được áp dụng rộng rãi vào sản xuất thì lại chính là khó khăn lớn của Thị xã.
Một bộ phận lớn LĐNT có xu hướng dôi dư nhưng lại rất khó để có thể bố trí việc
làm cho họ. Vấn đề cơ cấu lại lực lượng LĐNT cũng gặp nhiều khó khăn do số lao
động này chưa được đào tạo nghề khi tham gia vào lao động sản xuất phi nông
nghiệp; số ít đã được đào tạo nghề thì trình độ nghề chưa cao, chưa đáp ứng được


7

yêu cầu ngày càng tăng về số lượng và chất lượng của sản xuất và xã hội. Chính vì
vậy, có rất nhiều câu hỏi đặt ra với công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Thị xã Phổ Yên hiện nay: Việc triển khai các hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT Thị
xã thời gian qua diễn ra như thế nào? Có những yếu tố nào ảnh hưởng chính đến chất
lượng đào tạo nghề cho người LĐNT Thị xã? Để nâng cao chất lượng đào tạo nghề
cho người LĐNT Thị xã Phổ Yên trong thời gian tới cần thực hiện những giải pháp
chủ yếu nào?... Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành lựa chọn nghiên
cứu đề tài: “Nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn Thị xã

Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.

Mục tiêu chung

Tìm hiểu thực trạng đào tạo nghề cho LĐNT Thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái
Nguyên thời gian từ 2010 - 2014. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo nghề cho người LĐNT của Thị xã trong thời gian tới.
2.2.

Mục tiêu cụ thể

-

Tìm hiểu điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội thị xã Phổ Yên

-

Đánh giá thực trạng đào tạo nghề cho LĐNT của Thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái
Nguyên trong 5 năm 2010 - 2014.

-

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho LĐNT
của Thị xã Phổ Yên trong những năm tới.

3. Ý nghĩa của đề tài
3.1.


Ý nghĩa khoa học

Kết quả nghiên cứu của đề tài là tư liệu khoa học hữu ích cho việc nghiên
cứu, tham khảo trong việc giảng dạy, học tập tại các trường, các viện nghiên cứu về
lĩnh vực phát triển nông thôn.
3.2.

Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tư liệu tốt cho chính quyền địa
phương, các cấp, các ngành của Thị xã Phổ Yên nói riêng và tỉnh Thái


8

Nguyên nói chung sử dụng cho việc thực hiện có hiệu quả chương trình
đào tạo nghề cho LĐNT.


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Cơ sở lý luận

1.1.1.

Các khái niệm cơ bản

1.1.1.1.


Nghề nghiệp, chuyên môn và lao động

a. Nghề nghiệp
Trong đời sống sản xuất của xã hội cũng như trong đào tạo cán bộ kỹ thuật,
đào tạo công nhân chúng ta thường nói đến một khái niệm: Nghề.
Nghề là một hình thức phân công lao động, nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết
tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công việc nhất định. [6].
Trình độ lành nghề của lao động thể hiện chất lượng của lao động. Nó thể
hiện ở sự hiểu biết về lý thuyết, về kỹ thuật sản xuất và kỹ năng lao động để hoàn
thành những công việc có trình độ phức tạp nhất định thuộc một nghề, một chuyên
môn nào đó.
Trình độ lành nghề liên quan chặt chẽ tới lao động phức tạp. Lao động có
trình độ lành nghề là lao động có chất lượng cao hơn, là lao động phức tạp hơn.
Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động lành nghề thường tạo ra một giá trị lớn
hơn so với lao động giản đơn.
Để đạt tới trình độ lành nghề nào đó, trước hết phải đào tạo nghề cho nguồn
nhân lực, tức là trang bị kỹ thuật sản xuất cho người lao động, để họ nắm vững một
nghề, một chuyên môn, bao gồm cả người đã có nghề, có chuyên môn rồi hay học để
làm nghề, chuyên môn khác.
Ở một khía cạnh khác: Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó,
nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các
loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã
hội. [17].
b. Chuyên môn


Chuyên môn là hình thức phân công lao động sâu sắc hơn do sự chia nhỏ của
nghề [16]. Do đó nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết và thói quen thực hành trong phạm
vi hẹp và sâu hơn.

Những chuyên môn có những đặc điểm chung, gần giống nhau đuợc xếp
thành một nhóm chuyên môn và đuợc gọi là nghề. Nghề là tập hợp của một nhóm
chuyên môn cùng loại, gần giống nhau.
Chuyên môn là một dạng lao động đặc biệt, mà qua đó con nguời dùng sức
mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của mình để tác động vào những đối tuợng cụ
thể nhằm biến đổi những đối tuợng đó theo huớng phục vụ mục đích, yêu cầu và lợi
ích của con nguời.
* Nhu vậy nghề trong lao động là hoạt động có chuyên môn, những lao động
trực tiếp hay gián tiếp đuợc đào tạo, huớng dẫn, chuyển giao một cách cụ thể, bài
bản. Nó là những hoạt động quan trọng của con nguời và khi những lao động có tay
nghề họ tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần cao hơn cho bản thân và cho
xã hội. Giá trị lao động đó có năng suất, chất luợng và hiệu quả cao là nhân tố quyết
định sự phát triển của đất nuớc.
Vì hệ thống nghề nghiệp trong xã hội có số luợng nghề và chuyên môn nhiều
nên nguời ta gọi hệ thống đó là “Thế giới nghề nghiệp”. Nhiều nghề chỉ thấy có ở
nuớc này nhung lại không thấy ở nuớc khác. Hơn nữa, các nghề trong xã hội luôn ở
trong trạng thái biến động do sự phát triển của khoa học và công nghệ. Nhiều nghề
cũ mất đi hoặc thay đổi về nội dung cũng nhu về phuơng pháp sản xuất. Nhiều nghề
mới xuất hiện rồi phát triển theo huớng đa dạng hóa. Theo thống kê gần đây, trên thế
giới mỗi năm có tới 500 nghề bị đào thải và khoảng 600 nghề mới xuất hiện. Ở nuớc
ta, mỗi năm ở cả 3 hệ truờng (Đào tạo nghề, Trung học Chuyên nghiệp và Cao đẳng
- Đại học) đào tạo trên duới 300 nghề bao gồm hàng nghìn chuyên môn khác nhau.
c. Lao động
Lao động là khái niệm chung dùng để chỉ con người khi tham gia vào các
hình thức sản xuất nào đó trong xã hội. Người lao động có thể qua đào tạo và không


qua đào tạo hoặc chưa qua đào tạo; có thể là những lao động giản đơn hoặc lao động
phức tạp [22]
Lực lượng lao động bao gồm toàn bộ những người từ 15 tuổi trở lên đang có

việc làm hoặc không có việc làm, nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc
Nguồn lao động là toàn bộ dân số trong độ tuổi trừ đi những người trong độ
tuổi này hoàn toàn mất khả năng lao động. Theo quy định của Tổng cục Thống kê
khi tính toán cân đối nguồn lao động xã hội, nguồn lao động gồm những người trong
độ tuổi lao động có khả năng lao động và những người ngoài tuổi lao động đang làm
việc trong các ngành kinh tế quốc dân.
Số lượng lao động: là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động. ở nước ta theo quy định của Bộ Luật lao động người trong độ tuổi lao
động là: nam từ 15 - 60 tuổi; Nữ từ 15 - 55 tuổi.
Chất lượng lao động: thể hiện qua trình độ lành nghề, hiểu biết, vận dụng
khoa học - kỹ thuật, sức khoẻ...
* Thị trường lao động
Thị trường lao động là biểu hiện quan hệ lao động diễn ra một bên là người
lao động và một bên là sử dụng lao động, dựa trên nguyên tắc thoả thuận, thông qua
các hợp đồng lao động.
Cung về lao động: được biểu hiện khối lượng lao động sống (số lượng, chất
lượng và cơ cấu của lực lượng lao động) tham gia vào thị trường lao động trong một
thời gian nhất định. Nắm cung cầu và sự biến động cung cầu lao động làm cơ sở
quyết định chính sách quốc gia, quy hoạch, kế hoạch về nguồn nhân lực, phân bố và
sử dụng lao động toàn xã hội.
Cung thực tế: bao gồm tất cả những người trong độ tuổi lao động đang làm
việc và những người thất nghiệp.
Cung tiềm năng: bao gồm tất cả những người trong độ tuổi lao động đang
làm việc và những người đang thất nghiệp, những người trong độ tuổi lao động có
khả năng lao động đang đi học, đang làm công việc nội trợ trong gia đình mình và


nhưng người không có nhu cầu làm việc.
Cầu về lao động là khả năng thuê mướn lao động trên thị trường lao động với
các mức tiền lương, tiền công tương ứng.

Cầu thực tế là nhu cầu thực tế cần sử dụng lao động tại một thời điểm nhất
định bao gồm cả chỗ làm việc trống và chỗ làm việc mới. Chỗ làm việc trống là chỗ
làm việc đã từng sử dụng lao động, nay không có lao động làm việc và đang có nhu
cầu sử dụng lao động. Chỗ làm việc mới là chỗ làm việc mới xuất hiện và đang có
nhu cầu sử dụng lao động.
Cầu tiềm năng là số lao động tương ứng với tổng số chỗ làm việc có được sau
khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm trong tương lai như vốn, đất
đai, tư liệu sản xuất, công nghệ, chính trị, xã hội...
Quan hệ cung - cầu lao động thể hiện trên 3 trạng thái: trạng thái cần bằng
cung - cầu lao động, trạng thái rối loạn cân bằng cung - cầu lao động và trạng thái
cân bằng mới.
Trong thị trường sức lao động, quy luật cung - cầu thể hiện khá rõ. Nếu mức
tiền công quá cao thì có hiện tượng cung lao động lớn hơn về cầu lao động. Nghĩa là
số người muốn đi làm việc sẽ lớn hơn số người tìm được việc làm ở mức tiền công
này. Ngược lại, khi mức tiền công thấp thì khả năng thu hút lao động sẽ lớn hơn và
xuất hiện cầu về lao động lớn hơn cung dẫn đến thiếu hụt về lao động.
*

Năng suất lao động

Năng suất lao động là "Sức sản xuất của lao động cụ thể có ích", nói lên kết
quả hoạt động sản xuất có mục đích của con người trong một đơn vị thời gian nhất
định. Năng suất lao động đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị
thời gian; hoặc bằng lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Theo C. Mác "Năng suất lao động thường được dùng đồng nghĩa với hiệu
quả của sức lao động" và "Khả năng của sức lao động". Từ định nghĩa năng suất lao
động của C. Mác, mức năng suất lao động được xác định bằng số lượng sản phẩm
sản xuất ra trong một thời gian lao động.



Khái niệm về đào tạo và đào tạo nghề cho lao động
a. Đào tạo
* Khái niệm về đào tạo: Đào tạo là việc huấn luyện, giảng dạy, tập huấn cho
một nhóm người, một tổ chức, một xã hội về một vấn đề hoặc nội dung nào
đó, và nhằm đạt đến một mục tiêu nhất định [25].
* Hình thức đào tạo:
-

Đào tạo truyền thống (đào tạo theo niên chế): Thầy (cô) giáo giảng, học sinh
(sinh viên) nghe và ghi. Giảng viên truyền đạt, giảng giải đúng và đủ kiến
thức đã được quy định trong từng bài, từng chương của giáo trình vốn được
thiết kế phù hợp với yêu cầu của chương trình môn học và kế hoạch đào tạo
của niên chế.
+ Ưu điểm: Thuận tiện với mô hình cũng như điều kiện hiện tại, và sử dụng

giáo trình cũ, thầy và trò quen với việc đào tạo và học một chiều.
+ Nhược điểm: Hình thức này khiến học sinh (sinh viên) bị thụ động không
phát huy sáng tạo kém linh hoạt.
-

Đào tạo theo tín chỉ (modun): Học chế tín chỉ là hình thức đào tạo tiên tiến
trên thế giới, cho phép người học chủ động hơn và việc đánh giá sát thực tế,
hạn chế được tình trạng đào tạo và học theo lối "kinh viện". Ngay từ năm học
2001-2002, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã khuyến khích các trường Đại học, Cao
đẳng thực hiện đào tạo theo hình thức này. Thế nhưng sau một năm hồ hởi
tiếp cận, đến nay, dường như các trường không mấy mặn mà với hình thức
đào tạo này, bởi gặp khó khăn trong khâu quản lý cũng như cơ sở vật chất
chưa đồng bộ.
Tín chỉ là đơn vị căn bản để đo khối lượng kiến thức và đánh giá kết quả học


tập của sinh viên. Lượng kiến thức dành cho sinh viên gồm hai khối cơ bản: Giáo
dục đại cương và giáo dục chuyên môn. Mỗi khối kiến thức có 2 nhóm học phần:
Học phần bắt buộc là những kiến thức tiên quyết bắt buộc sinh viên phải học và thi
đạt mới được học tiếp sang học phần khác; nhóm học phần tự chọn gồm những kiến


thức cần thiết nhưng sinh viên được chọn theo hướng dẫn của nhà trường. Một tín
chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết [20].
b. Đào tạo nghề cho lao động
* Khái niệm về đào tạo nghề: Là quá trình trang bị kiến thức nhất định về trình
độ chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận một
công việc nhất định. Hay nói cách khác đó là quá trình truyền đạt, lĩnh hội
những kiến thức và kỹ năng cần thiết để người lao động có thể thực hiện một
công việc nào đó trong tương lai [14].
* Đào tạo nghề cho lao động bao gồm các nội dung sau:
-

Đào tạo kiến thức phổ thông (giáo dục phổ thông).

-

Đào tạo kiến thức chuyên nghiệp (giáo dục chuyên nghiệp). Đào tạo kiến thức
chuyên nghiệp được chia ra: Đào tạo cán bộ chuyên môn (đào tạo Đại học,
Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp) và đào tạo nghề (đào tạo công nhân kỹ
thuật, nhân viên nghiệp vụ, nhân viên bán hàng, phổ cập nghề cho người lao
động).
Đào tạo cán bộ chuyên môn là việc đào tạo nguồn nhân lực ở các trường Đại

học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ có trình độ học
vấn cao, có khả năng lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo một chuyên môn, nghiệp vụ nào đó.

Căn cứ vào trình độ đào tạo, cán bộ chuyên môn được chia ra làm các loại
sau:
-

Cán bộ Trung cấp: Là những người thực hành giúp việc cho công tác nghiên
cứu.

-

Cán bộ Cao đẳng: Là những người được đào tạo tương đương trình độ Đại
học, song thiên về khả năng thực hành.

-

Cán bộ Đại học: Là những người được đào tạo trong các trường Đại học có
khả năng nghiên cứu khoa học và vận dụng vào thực tiễn hoặc quản lý một
lĩnh vực chuyên môn.

-

Cán bộ trên Đại học: Là cán bộ có trình độ cao, có khả năng nghiên cứu khoa


học và thực tiễn.
Việc đào tạo cán bộ chuyên môn được tiến hành dưới nhiều hình thức khác
nhau như:
-

Đào tạo chính quy dài hạn.


-

Đào tạo tại chức, chuyên tu.

-

Đào tạo từ xa vv...

1.1.2.

Phân loại và các loại hình đào tạo nghề cho lao động

Phân loại theo hình thái nghề
Phân loại theo hình thái nghề trong lao động: Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên
cứu và dòng sản phẩm làm ra, nghề trong xã hội thường được phân loại thành:
-

Nghề lao động giản đơn và nghề lao động phức tạp:
+ Nghề lao động giản đơn là lao động không cần qua đào tạo, huấn luyện

chuyên môn; là sự hao phí sức lực lao động của con người không có trình độ chuyên
môn, lao động không thành thạo. Trong điều kiện sản xuất hàng hoá, tất cả các loại
nghề lao động đều được quy trở thành nghề lao động giản đơn và lấy nghề lao động
giản đơn là đơn vị đo lường của các loại nghề lao động phức tạp.
+ Nghề lao động phức tạp là sự lao động của những người qua huấn luyện,
đào tạo chuyên môn.
-

Nghề lao động cụ thể và nghề lao động trừu tượng
+ Nghề lao động cụ thể là những lao động nhằm mục đích nhất định; lao


động để tạo ra giá trị sử dụng. Để tạo ra mỗi loại giá trị sử dụng cần phải có những
loại nghề nhất định, sự phân biệt các loại nghề trong lao động căn cứ vào phương
pháp lao động, công cụ lao động và kết quả lao động.
+ Nghề lao động trừu tượng là những lao động xã hội, tính chất xã hội biểu
hiện qua quá trình trao đổi. Trong điều kiện sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tu
hữu, mâu thuẫn giữa những nghề trừu tuợng và nghề cụ thể phản ánh mâu thuẫn giữa
nghề lao động tu nhân và nghề lao động xã hội.
-

Nghề lao động sống và nghề lao động quá khứ


+ Nghề lao động sống là hoạt động lao động, là sự hao phí về thể lực và trí
lực có mục đích của con nguời. Nghề lao động sống là điều kiện phát triển toàn diện
cá tính của con nguời, sáng tạo ra sản phẩm mới phục vụ nhu cầu của xã hội. Những
nghề này là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển xã hội.
+ Nghề lao động quá khứ là những nghề lao động thể hiện trong tu liệu sản
xuất và vật phẩm tiêu dùng. Trong bất kỳ hoạt động sản xuất nào cũng đều cần có tu
liệu lao động và đối tuợng lao động tham gia; những thứ đó là kết quả của nghề lao
động quá khứ.
-

Nghề sản xuất trực tiếp là những nghề mà nguời lao động hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất vật chất, trực tiếp huớng vào việc sáng tạo ra của cải vật
chất cho xã hội. Trong mỗi hình thái xã hội các nghề sản xuất trực tiếp cũng
có những đặc điểm riêng. Trong chế độ Tu bản chủ nghĩa nghề sản xuất trực
tiếp là nghề lao động tạo ra giá trị thặng du; còn duới chế độ Xã hội chủ nghĩa
nghề sản xuất trực tiếp là những nghề mà người lao động làm cho lợi ích của
toàn xã hội và cho bản thân nguời lao động, là những lao động làm chủ tự

nguyện và tự giác.

1.1.2.2.

Phân loại đào tạo nghề cho lao động

Đào tạo nghề cho nguời lao động là quá trình giáo dục kỹ thuật sản xuất cho
nguời lao động để họ nắm vững một nghề, một chuyên môn, bao gồm cả nguời đã có
nghề, có chuyên môn rồi hay học để làm nghề, chuyên môn khác.
Đào tạo nghề bao gồm đào tạo công nhân kỹ thuật (công nhân cơ khí, xây
dựng, điện tử, v.v...). Nhân viên nghiệp vụ (nhân viên đánh máy, nhân viên lễ tân,
nhân viên bán hàng v.v...). Phổ cập nghề cho nguời lao động (chủ yếu là lao động
nông nghiệp).
Việc đào tạo nghề đuợc tiến hành ở các cơ sở đào tạo nghề đó là: Các trường
chính quy của Nhà nước; các cơ sở đào tạo nghề của tư nhân; các đơn vị đào tạo
nghề của chính quyền địa phương, các cơ sở tổ chức xã hội; các cơ sở đào tạo nghề
thông qua hợp tác quốc tế.


Phân loại đào tạo nghề.
* Căn cứ vào nghề đào tạo với người học:
-

Đào tạo mới: Đây là hình thức đào tạo nghề áp dụng cho những người chưa
có chuyên môn, chưa có nghề.

-

Đào tạo lại: Là quá trình đào tạo nghề áp dụng cho những người đã có nghề,
có chuyên môn song vì lý do nào đó nghề của họ không phù hợp nữa đòi hỏi

phải chuyển sang nghề khác, chuyên môn khác.

-

Đào tạo nâng cao trình độ lành nghề: Là quá trình bồi dưỡng nâng cao kiến
thức và kinh nghiệm làm việc để người lao động có thể đảm nhận được những
công việc phức tạp hơn.

* Căn cứ vào thời gian đào tạo nghề:
-

Đào tạo ngắn hạn: Thời gian đào tạo nghề dưới một năm, chủ yếu đối với phổ
cập nghề.

-

Đào tạo dài hạn: Thời gian đào tạo nghề từ một năm trở lên, chủ yếu đối với
đào tạo công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ.

1.1.3.

Các yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo nghề

1.1.3.1. Năng lực của các cơ sở đào tạo nghề
a. Giáo viên đào tạo nghề
Giáo viên đào tạo nghề là người giữ trọng trách truyền đạt kiến thức kỹ năng,
kỹ xảo, kinh nghiệm của mình cho các học viên trên cơ sở thiết bị đào tạo nghề. Vì
vậy, năng lực giáo viên đào tạo nghề tác động trực tiếp lên chất lượng công tác đào
tạo nghề.
Đào tạo nghề có những nét khác biệt so với các cấp học khác trong nền giáo

dục quốc dân, đó là ngành nghề đào tạo rất đa dạng, học viên vào học nghề có rất
nhiều cấp trình độ văn hoá khác nhau. Cấp trình độ đào tạo nghề ở các cơ sở đào tạo
nghề cũng rất khác nhau (bán lành nghề, lành nghề, bồi dưỡng nâng bậc thợ). Sự
khác biệt đó làm cho đội ngũ giáo viên đào tạo nghề cũng rất đa dạng với nhiều cấp
trình độ khác nhau.


Năng lực của giáo viên đào tạo nghề tốt thì mới có thể đào tạo được các học
viên được tốt bởi vì các học viên nắm được lý thuyết, bài giảng được học viên tiếp
thu nhanh hay chậm phụ thuộc rất lớn vào năng lực giáo viên.
b. Cơ sở vật chất, trang thiết bị của các cơ sở đào tạo nghề Đây là yếu tố hết
sức quan trọng, nó tác động trực tiếp lên chất lượng đào tạo, ứng với mỗi
nghề dù đơn giản hay phức tạp cũng cần phải có các máy móc, trang thiết bị
chuyên dùng phục vụ cho công tác đào tạo nghề. Trang thiết bị đào tạo nghề
giúp cho học viên có điều kiện thực hành để hoàn thành kỹ năng sản xuất.
Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo nghề càng tốt, càng hiện đại
bao nhiêu, theo sát với máy móc phục vụ cho sản xuất bao nhiêu thì người
học viên có thể thích ứng, vận dụng nhanh chóng với sản xuất trong doanh
nghiệp bấy nhiêu.
Chất lượng của các trang thiết bị, cơ sở vật chất đòi hỏi phải theo kịp tốc độ
đổi mới hiện đại hoá của máy móc thiết bị sản suất.
Thực chất ở các cơ sở đào tạo nghề ở nước ta hiện nay, cơ sở vật chất trang
thiết bị đào tạo nghề còn rất hạn chế, lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu đào tạo
nghề. Phòng học thiếu thốn nơi thực hành, chỗ nội trú cho học viên. Một phần lớn
các trang thiết bị trong các cơ sở đào tạo nghề không phải là trang thiết bị phục vụ
cho công tác đào tạo nghề một cách chính quy, nhiều máy móc được thu nhập lại từ
nhiều nguồn khác nhau (chủ yếu là thanh lý của các nhà máy, xí nghiệp), do đó
không có tính đồng bộ về hệ thống, tính sư phạm thấp ảnh hưởng tới chất lượng đào
tạo nghề. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tuy công nhân qua đào tạo đáp ứng
được phần nào các công việc của các doanh nghiệp nhưng hầu hết vẫn phải đào tạo

lại để nâng cao khả năng thực hành và tiếp cận công nghệ hiện đại của các cơ sở sản
xuất khi mới được tuyển dụng và các doanh nghiệp.
c. Nguồn tài chính trong hoạt động đào tạo nghề
Nguồn tài chính trong đào tạo nghề chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động
đào tạo nghề. Nguồn tài chính của các cơ sở đào tạo nghề được nhận theo chỉ tiêu


hàng năm, xong hiện nay vấn đề này chưa được Nhà nước quan tâm hoặc có thì cũng
chỉ được cấp thêm dưới hình thức các dự án; ngoài ra còn thu từ khoản đóng học phí
của học viên và sự hỗ trợ của các doanh nghiệp sử dụng lao động.
d. Nội dung - chương trình - giáo trình đào tạo nghề
Nội dung, chương trình - giáo trình đào tạo đối với công tác đào tạo nghề
được thống nhất quản lý và biên soạn của Tổng cục dạy nghề (Bộ lao động - Thương
binh - Xã hội) kết hợp với Bộ Giáo dục - Đào tạo. Về phương thức đào tạo, đã kết
hợp và phân công giữa nhà trường với cơ sở sản xuất. Nhà trường đào tạo cho người
công nhân có một cái “nền” về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, có tác phong công
nghiệp, kỹ thuật lao động, biết cách ứng xử trong sản xuất. Còn ở cơ sở sản xuất
hướng dẫn về vận hành, quy trình, quy phạm, kỹ thuật, tiêu chuẩn sản phẩm.
1.1.3.2.

Nhu cầu học nghề của người lao động

Các cơ sở đào tạo nghề đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, để đáp ứng nhu
cầu học nghề của người lao động. Chất lượng các cơ sở đào tạo nghề đang dần được
cải thiện nhưng vấn đề đặt ra hiện nay là liệu người học đã biết cách tận dụng
khoảng thời gian cũng như nhìn nhận ra năng lực và sở trường của mình hay chưa?
Nhu cầu của người lao động học nghề đã được đáp ứng với rất nhiều hình
thức khác nhau và chất lượng cũng đa dạng không kém. Nhưng không phải ai cũng
trung thành với mục tiêu học nghề và nâng cao tay nghề của mình. Những lớp học
học nghề tại các cơ sở, trung tâm luôn sôi nổi bởi lý thuyết với nhiều chủ đề khác

nhau. Nhưng khi lao động học nghề tốt nghiệp, bắt tay vào thực hành thì thường
lúng túng và tỏ ra kém hiệu quả.
Nhiều người lao động vẫn thường đổ lỗi cho các cơ sở đào tạo nghề là thiếu
chất lượng, thầy kém, cơ sở vật chất nghèo nàn (mặc dù nhu cầu học và nâng cao tay
nghề rất cao); đã khiến cho khả năng tiếp thu và nhận thức của học viên không được
nâng lên. Chuyện đó đã trở thành xưa cũ; hiện nay, người lao động tìm đến xin học
tại một số cơ sở đào tạo nghề, nhiều khi người lao động còn phải cân nhắc liệu mình
có đủ khả năng về kinh tế lẫn trình độ để theo học hay không? Bên cạnh đó không ít


gia đình học sinh coi việc vào đại học như là con đường duy nhất để tiến thân, kiếm
được việc làm nhàn hạ. Nhiều thanh niên, nhất là thanh niên nông thôn đã cố công
đèn sách để thi vào Đại học, thậm chí thi lại nhiều lần nhằm thoát ly quê hương
nghèo khổ. Một người thợ bậc cao về làng không một ai biết tới nhưng một “cậu cử”
mới ra trường vẫn được coi là danh giá, nên người. Trong con mắt của nhiều người,
một người thợ bậc cao ở xí nghiệp vẫn không “oai” bằng người lao động ở cơ quan
Nhà nước. Hơn nữa, một cán bộ Nhà nước tốt nghiệp Đại học rất có thể được học lên
đến thạc sĩ hoặc tiến sĩ nhưng người thợ bậc ba, bậc bốn vẫn khó tìm cơ hội để học
lên hoặc nâng cao tay nghề. Điều này khiến nhiều thanh niên bằng mọi cách để thi
vào Đại học, né tránh đi học nghề, coi việc vào trường nghề là vạn bất đắc dĩ, “chuột
chạy cùng sào”.
Chính vì thế mà rất nhiều người lao động đã dần làm mất hiệu quả của thời
gian; để trau dồi thêm kiến thức cũng như được học nghề. Chưa bàn kỹ về chất
lượng đào tạo, nhìn ở khía cạnh người học đã thấy rất nhiều chuyện phải bàn, đó là
tính tự ti, chưa yêu ngành, yêu nghề, chưa chú tâm với công việc. Đừng đổ lỗi cho
các điều kiện khách quan, hãy xem xét lại ý thức học tập của "chính mình" rồi mới
nên đánh giá các đơn vị đào tạo nghề, kẻo lại vướng vào cảnh “trách người chả nghĩ
đến ta”?
Nếu mọi người lao động trong xã hội đánh giá được đúng đắn hơn tầm quan
trọng của việc học nghề thì trước hết, lượng lao động tham gia học nghề sẽ chiếm

một tỷ lệ lớn hơn so với toàn bộ số lao động trên thị trường và sẽ có cơ cấu trẻ hơn,
đa dạng hơn. Hơn nữa, nếu người lao động nhận thức được rằng giỏi nghề là một
phẩm chất quý giá của mình, là cơ sở vững chắc để có việc làm và thu nhập ổn định
thì công tác đào tạo nghề sẽ nhận thêm nhiều nguồn lực hỗ trợ cần thiết của xã hội
để phát triển mạnh hơn.
1.1.3.3.

Khả năng tiếp nhận lao động của các doanh nghiệp và xuất khẩu lao

động qua đào tạo
a. Khả năng tiếp nhận lao động qua đào tạo của các doanh nghiệp


Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới, hiện nay các doanh
nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động qua đào tạo (nhất là những lao động có trình
độ và kinh nghiệm) là rất lớn. Để đảm bảo những tiêu chuẩn về chất luợng sản phẩm
hàng hoá, các doanh nghiệp tuyển dụng lao động vào làm việc cũng có phần "khắt
khe" hơn truớc. Do vậy, trình độ của lao động là mục tiêu hàng đầu của các "nhà"
tuyển dụng; đây cũng là cơ sở để các đơn vị đào tạo nghề theo sát các doanh nghiệp
tìm hiểu nhu cầu và nắm bắt thông tin để có những buớc đi trong chuơng trình đào
tạo nghề sao cho hiệu quả nhất.
b. Xuất khẩu lao động (XKLĐ) qua đào tạo
Xuất khẩu lao động qua đào tạo (lao động tinh) là chủ truơng của Đảng và
Chính phủ. Việt Nam hiện nay, đã ký kết hợp đồng xuất khẩu lao động qua đào tạo
với nhiều nuớc trên thế giới. Do vậy, nhu cầu về lao động qua đào tạo để đi làm việc
tại nuớc ngoài là rất lớn. Nhà nuớc tạo mọi điều kiện cho các cơ sở đào tạo cũng nhu
lao động học nghề dần chuẩn hoá nhu cầu và điều kiện đặt ra (điều kiện về chuyên
môn, kỹ thuật, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp) của các nuớc sử dụng lao động. Tuỳ
thuộc vào điều kiện của mỗi nuớc nhập khẩu lao động đặt ra; để những đơn vị đào
tạo nghề cho lao động xuất khẩu, xây dựng chuơng trình, giáo trình đào tạo cho lao

động thật phù hợp và hiệu quả. Nhìn chung XKLĐ là một trong những yếu tố ảnh
huởng tới công tác đào tạo nghề; do vậy, cả đơn vị đào tạo và nguời học nghề để đi
xuất khẩu lao động cần quan tâm hơn nữa.
1.1.3.4.

Các chính sách của Nhà nước liên quan đến đào tạo nghề

Các chính sách của Nhà nuớc ảnh huởng rất lớn đến công tác đào tạo nghề; ở
nuớc ta, trong những năm gần đây, thực hiện chủ truơng của Đảng, Nhà nước và
được sự quan tâm của các cấp, các ngành và toàn xã hội, công tác đào tạo nghề từng
bước phục hồi và phát triển, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về nguồn lao động trực
tiếp, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, phù hợp với cơ cấu kinh tế, xóa đói
giảm nghèo đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đóng góp vào thành công
chung đó, phải kể là sự ủng hộ của các chính sách liên quan như: Xây dựng mạng


lưới các trung tâm dạy nghề (TTDN) - loại hình cơ sở đào tạo nghề phổ biến, chủ
yếu đào tạo nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề), có vai trò quan trọng trong đào
tạo, bổ túc, bồi dưỡng nghề, đáp ứng yêu cầu đa dạng, linh hoạt và luôn biến động
của thị trường lao động. Hoặc các dự án như đào tạo nghề cho lao động nông thôn
(Quyết định 1956/QĐ-TTg). Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng, việc tiếp thu các tiến bộ về khoa học và công nghệ phụ thuộc chủ yếu vào đội
ngũ lao động kỹ thuật, đội ngũ trí thức. Do vậy, muốn phát triển kinh tế cần phải đầu
tư cho con người mà cốt lõi là đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là đào tạo
nguồn nhân lực lao động trực tiếp.
1.2.

Cơ sở thực tiễn

1.2.1.


Kinh nghiệm đào tạo nghề cho LĐNT của một số nước trên Thế giới

Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc nằm trên bán đảo Triều Tiên, một nước từng bị đô hộ từ cuối thế
kỷ 19, xuất phát điểm là một trong những quốc gia nghèo đói. Cuối thập kỷ 60, GDP
bình quân đầu người chỉ có 85 USD, phần lớn người dân không đủ ăn, 80% người
dân nông thôn vẫn không có điện thắp sáng và phải dùng đèn dầu, ở trong những căn
nhà lợp bằng lá. Lúc ấy, nền kinh tế của Hàn Quốc phải dựa vào nông nghiệp trong
khi khắp đất nước, lũ lụt và hạn hán lại xảy ra thường xuyên. Nhưng hiện nay Hàn
Quốc đã trở thành một quốc gia có nền kinh tế hùng hậu đứng thứ 11 trên thế giới
với thu nhập bình quân đầu người đạt 20.600 USD/người. Bí quyết thành công của
Hàn Quốc là dựa vào phát triển nguồn nhân lực trong một nước nghèo tài nguyên
thiên nhiên để phát triển kinh tế. Giáo dục là nhân tố chủ yếu để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực và chính sách về giáo dục luôn được xây dựng phù hợp với đòi hỏi
của nền kinh tế. Chính phủ Hàn Quốc đưa ra một chiến lược tham gia toàn diện vào
quá trình toàn cầu hóa vào giữa thập kỷ 1990, mà quan trọng là hệ thống giáo dục
phải được cải thiện triệt để, để đào tạo một số lượng đủ những công dân trẻ, sánh tạo
và dám làm, những nhà lãnh đạo tương lai của đất nước. Phong trào Saemaul là
phong trào phát triển nông thôn mới của Hàn Quốc trong đó có chương trình đào tạo


nguồn nhân lực mà Hàn Quốc thực hiện đã thành công rất lớn trong công tác đào tạo,
hỗ trợ cho người lao động cụ thể: Chính phủ Hàn quốc đóng vai trò cốt yếu trong
việc phát triển hạ tầng và tăng cường các cơ sở đào tạo nghề nông, đưa tiến bộ
KHKT, các loại giống mới như nấm, cây thuốc lá... vào sản xuất. Các làng xã và xí
nghiệp đều được trang bị thư viện Saemaul và các phương tiện vui chơi giải trí khác.
Đặc biệt, thư viện ở nông thôn đều có sách về các phương pháp canh tác mới. Đây là
bước đột phá lớn ở nông thôn và là nguyên nhân chính gia tăng thu nhập. Năm 1974,
sản lượng lúa tăng đến mức độ có thể tự cấp tự túc. Phổ biến kiến thức nông nghiệp

đã tạo nên một cuộc cách mạng trong phương pháp canh tác. Nuôi lợn, bò, gà cũng
đem lại lợi nhuận đáng kể. Các làng chài cũng chuyển từ đánh bắt sang nuôi trồng
thủy sản. Tập quán trồng lúa và lúa mạch xưa kia đã được thay thế triệt để bằng các
phương pháp canh tác tổng hợp; tăng cường năng lực lãnh đạo của địa phương bằng
cách thành lập Học viện Bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo Saemaul. Mỗi xã được phép cử
một cán bộ đi học. Khoá học bồi dưỡng lãnh đạo nhấn mạnh vào sự cống hiến quên
mình và nêu gương cho quần chúng. Họ học trong một lán trại chung, do đó hiểu
được cách làm việc theo nhóm trên tinh thần hợp tác. Trong mỗi buổi thảo luận
nhóm, các thành viên chia sẻ kinh nghiệm làm việc và do đó có thể học tập lẫn nhau
bên cạnh sự hướng dẫn và trợ giúp của giáo viên. Chính những học viên này sẽ là
những người lãnh đạo và hướng dẫn cho dân làng. Tại thời điểm bấy giờ, khi vai trò
của phụ nữ còn chưa được coi trọng thì sự tham gia của một bộ phận nữ giới trong
khoá học đã tạo ra sự khác biệt căn bản. Phụ nữ đứng ra gây quỹ cho địa phương, họ
tiết kiệm thực phẩm và tham gia vào phong trào giữ sạch đẹp làng xã. Ngoài ra, họ
còn góp phần tích cực trong việc ngăn ngừa nạn rượu chè, cờ bạc. Số lượng các quán
rượu bắt đầu giảm hẳn trong thời gian này. Phương pháp đào tạo cán bộ cho các dự
án Saemaul đã có ảnh hưởng nhất định đến các chính trị gia, lãnh đạo các tôn giáo,
giới báo chí và cả người nước ngoài. Những chính trị gia trước kia vẫn không mấy
mặn mà lắm với phong trào Saemaul cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi phương
pháp đào tạo Saemaul [22]


1.2.1.2.

Kinh nghiệm của Trung Quốc

Trung Quốc là một Quốc gia có số dân đông nhất thế giới với hơn 1 tỷ người,
trong đó có khoảng gần 80% dân số sống ở nông thôn, có chung đường biên giới với
phía Bắc Việt Nam. Trung Quốc là nước đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển
kinh tế đặc biệt là trong lĩnh vực đào tạo nghề giải quyết việc làm. Để đào tạo nghề

cho lao động, giúp đỡ lao động có cơ hội tìm được việc làm phù hợp tăng thu nhập
cho bản thân, Trung Quốc đã áp dụng nhiều biện pháp linh hoạt sáng tạo và đồng bộ.
Cụ thể:
Trên phạm vi toàn quốc:
+ Trung Quốc đẩy mạnh tiến trình đô thị hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm
tạo cho lao động thích nghi với nhiều chuyên môn, ngành nghề mới. Chính phủ
Trung Quốc chủ trương áp dụng chính sách đô thị hoá thích hợp nhằm từng bước
đào tạo tay nghề, nâng cao tay nghề cho lao động trong thành phố một cách êm
thấm, tạo điều kiện cho việc nâng cấp cơ cấu kinh tế và xã hội, cũng như chuyển đổi
tình hình kinh tế và việc làm của toàn xã hội theo chiều hướng tích cực.
+ Ra sức phát triển sự nghiệp giáo dục, nâng cao tố chất lực lượng lao động;
đồng thời tăng cường công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, tay nghề của lao động cho các
doanh nghiệp nhỏ hiện có, giúp đỡ các doanh nghiệp nhỏ nâng cao tay nghề, bồi
dưỡng nghiệp vụ cho các lao động và tăng trưởng kinh tế theo kiểu “Doanh nghiệp
nhỏ, làm việc lớn”. Đây là một quy luật đã được khẳng định và chứng minh [16].
+ Khuyến khích học sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông mà thi
không đỗ Đại học sẽ được bố trí học nghề để trở thành thợ lành nghề; sinh viên tốt
nghiệp Đại học sáng lập ra các doanh nghiệp nhỏ, khuyến khích ý thức tự lập nghiệp
cho họ. Trung Quốc đưa môn học: Lập Doanh nghiệp nhỏ vào giảng dạy trong các
trường Đại học để bồi dưỡng ý thức lập nghiệp cho sinh viên từ khi còn ngồi trên
ghế nhà trường.
+ Hướng dẫn, giúp đỡ, đào tạo nghề (không thu học phí hoặc có thu nhưng
rất thấp) tạo điều kiện cho những người thất nghiệp, những người công nhân viên


chức đã bị giảm biên chế, sáng lập ra các doanh nghiệp nhỏ hoặc bồi dưỡng, hướng
dẫn cho họ có tay nghề để vào làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ.
+ Trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn Trung Quốc là nước có kinh
nghiệm đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp khi nông nhàn bằng phương thức
“Di chuyển tại chỗ” và “Di chuyển ra bên ngoài” đã đạt kết quả tốt.

Phương thức di chuyển tại chỗ:
Là việc phân công lại lao động tại chỗ. Để thực hiện phương thức này Nhà
nước để ra các chính sách ưu tiên nhằm hỗ trợ cho nông nghiệp, tăng đầu tư cho
nông nghiệp, bảo đảm việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất lương thực và một
số sản phẩm chủ yếu khác.
Phát triển kinh doanh đa dạng ngành nghề, phát triển toàn diện các ngành
nông, lâm, ngư nghiệp. Trên cơ sở mối quan hệ tỷ lệ giữa lao động với ruộng đất,
đồng thời căn cứ vào đặc điểm sản xuất theo thời vụ nông nghiệp và thời gian lao
động dư thừa sang các ngành nghề khác.
Phát triển ngành nghề dịch vụ và xây dựng hệ thống dịch vụ xã hội ở nông
thôn, góp phần tạo ra nhiều nghề mới và việc làm cho số lao động dư thừa trong
nông nghiệp. Phát triển nền nông nghiệp sinh thái mang tính kỹ thuật cao để thoả
mãn nhu cầu tiêu dùng của con người. Kết quả thực hiện phương thức “Di chuyển tại
chỗ” đã đạt mục đích tạo ra nhiều ngành nghề giải quyết việc làm trong nông thôn là
“Ly nông, bất ly hương” góp phần thúc đẩy nông nghiệp Trung Quốc phát triển
nhanh và ổn định.
Phương thức di chuyển ra bên ngoài:
Là phương thức di chuyển lao động từ ngành này sang ngành khác, từ nơi
thừa đến nơi thiếu, từ đó cải thiện, bố trí lại cơ cấu lực lượng lao động. Cụ thể Trung
Quốc đã tiến hành di chuyển lao động từ nơi có trình độ khai thác tương đối cao
sang nơi có trình độ khai thác tương đối thấp, từ nơi đất hẹp người đông sang nơi đất
rộng người thưa.
Di chuyển lao động từ nông thôn vào các thành phố bằng cách đào tạo nghề


×