Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM VÀ THẤT NGHIỆP TRONG HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA KEYNES

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.2 KB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NAM

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN:

LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG,
VIỆC LÀM VÀ THẤT NGHIỆP TRONG
HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA KEYNES

Học viên

: Trần Thị Thùy Trang

Giảng viên hướng dẫn : TS. Lê Kiên Cường
Lớp

: CH17A

MSSV

: 020117150193


Chương 3: Kết luận
TPHCM, 02/2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH



TIỂU LUẬN:

LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG,
VIỆC LÀM VÀ THẤT NGHIỆP TRONG
HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA KEYNES

Học viên

: Trần Thị Thùy Trang

Giảng viên hướng dẫn : TS. Lê Kiên Cường
Lớp

: CH17A

MSSV

: 020117150193

2


Chương 3: Kết luận

TPHCM, 02/2016

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

Thất nghiệp, việc làm luôn là đề tài nan giải của xã hội qua nhiều thời kì, hơn
hết chúng có mối quan hệ mật thiết với thị trường lao động. Vào khoảng những năm
30 của thế kỷ XX thế giới đã trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế vô cũng trầm
trọng, dù bấy giờ đã có những học thuyết được đưa ra trước đó để giải quyết vấn đề
nhưng không thành công. Lúc này nhà kinh tế học John Maynard Keynes đã cho ra
đời những lý thuyết về việc làm, thất nghiệp và thị trường lao động, đã giúp các
Chính phủ giải quyết được những vấn đề cấp bách trước mắt của nền kinh tế.
Lý thuyết này của ông được coi là một công cụ điều tiết vĩ mô và gần như
chiếm vị trí quan trọng trong toàn bộ học thuyết kinh tế của Keynes. Ngày nay, lý
thuyết này vẫn được nghiên cứu, áp dụng và phát triển để giải quyết các vấn đề kinh
tế vĩ mô của các nước trên thế giới, đặc biệt là nền kinh tế của Việt Nam càng cần
hơn nữa. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Lý thuyết về thị trường lao động, việc làm
và thất nghiệp trong học thuyết kinh tế của Keneys” là rất quan trọng và cần thiết.

3


Chương 3: Kết luận
CHƯƠNG 1. SƠ LƯỢC VỀ LÝ THUYẾT CỦA KEYNES
1.1 Tiểu sử của Keynes
John Maynard Keynes (1883-1946) sinh tại Cambirdge (Anh) trong một gia
đình có truyền thống hiếu học. Cha là John Neville Keynes là nhà kinh tế và giáo
dục trường Đại học Cambirdge. Mẹ là Florence Ada, là thị trưởng Cambirdge năm
1932 và là nhà hoạt động cho nữ quyền nổi tiếng tại Anh.
John Maynard Keynes là nhà kinh tế học nổi tiếng, là giáo sư kinh tế học của
Đại học Cambirdge và là nhà lý luận vĩ đại của thế giới. Ông là chuyên gia trong
lĩnh vực tài chính, tiêu dùng và lưu thông tiền tệ.
Cuộc đời của ông đã để lại cho nhân loại nhiều công trình nghiên cứu quý báu,
nhưng nổi bật nhất là “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ” xuất bản
năm 1936. Nội dung công trình này đề cập đến vấn đề việc làm và xác định mức độ

việc làm được quy định bởi những yếu tố nào. Các nhà kinh tế học đã đánh giá đây
là quyển sách làm nên cuộc cách mạng trong kinh tế học của Keynes.
1.2 Hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm phương pháp luận các học thuyết kinh
tế của Keynes
1.2.1 Hoàn cảnh lịch sử
Xuất hiện từ những năm 30 của thế kỉ XX, tình hình kinh tế chính trị của các
nước trên thế giới, đặc biệt là ở nước Anh vô cùng biến động, khủng hoảng kinh tế
xảy ra thường xuyên, tình trạng thất nghiệp ngày càng trầm trọng. Điển hình là cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933). Lý thuyết tự điều chỉnh của trường phái
tân cổ điển thất bại trong việc khắc phục khủng hoảng và thất nghiệp. Lực lượng và
sự xã hội hóa sản phẩm tăng lên, độc quyền ra đời và bắt đầu bành trướng thế lực.
Tóm lại, tình hình kinh tế thế giới lúc này đòi hỏi một lý thuyết kinh tế mới để
vực dậy nền kinh tế của thế giới. Và thời kỳ này là thời kỳ hy hữu khi mức lạm phát
4


Chương 3: Kết luận
xuống thấp (dưới 0) và thất nghiệp lại tăng cao ( vào năm 1933 thất nghiệp ở My
lên tới 25%, còn ở Anh là 22%). Nếu chỉ dựa vào những học thuyết của trường
phái tân cổ điển thì không thể vực dậy được nền kinh tế lúc bấy giờ. Do đó, học
thuyết của Keynes ra đời như là một cứu cánh, vừa giải thích được tình thế
đang xảy ra ở các nước thời kỳ này, đặt một nền móng mới cho nền tri thức
khoa học về kinh tế cho nhân loại.
Tác phẩm kinh điển nhất của Keynes cũng được ra đời trong giai đoạn
này. Quan điểm trước đó của các nhà kinh tế học cho rằng, mỗi khi có khủng
hoảng thì giá cả và tiền công sẽ giảm xuống, do đó, nguồn cầu thị trường lao
động sẽ tăng vì các ông chủ sẽ mạnh dạn thuê nhân công để mở rộng sản xuất,
nhờ đó nền kinh tế sẽ nhanh chóng phục hồi. Nhưng qua theo dõi và nghiên
cứu, Keynes đã cho ra đời một lý thuyết hoàn toàn trái ngược với các quan
điểm trước đó, ông cho rằng khi xảy ra khủng hoảng thì cả lương, việc làm đều

không tăng và sản xuất cũng không được phục hồi như các lý thuyết trước đó
và cho rằng các lý thuyết đó đã lỗi thời và không còn phù hợp.
1.2.2 Đặc điểm phương pháp luận của Keynes
Thứ nhất, tiến hành một cuộc Cách mạng về nhận thức với Chủ nghĩa tư bản là
thừa nhận thất nghiệp, khủng hoảng…là khuyết tật của Chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, phân tích nền kinh tế dưới góc độ vĩ mô và có hệ thống: các khoản thu
nhập chung, đầu tư chung, lợi nhuận chung, việc làm chung.
Thứ ba, phủ nhận cơ chế tự điều tiết của trương phái Tân cổ điển, kịch liệt phê
phán lý luận tổng quát của L.Walras. Theo Keynes, tính “tích cực” của nền kinh tế
không đứng yên mà biến động liên tục, đó chính là sự mất cân đối thường xuyên.
SỰ MẤT CÂN ĐỐI THƯỜNG XUYÊN

CUNG > CẦU

5

NHÂN TỐ “TÍCH CỰC” CỦA NỀN KINH TÊ


Chương 3: Kết luận

Sơ đồ 1.1 Nhân tố tích cực của nền kinh tế theo học thuyết Keynes
Nguồn: bài giảng TS.Lê Kiên Cương 2015, chương 3 Keynes, bài giảng môn Các
học thuyết kinh tế hiện đại, trương Đại học Ngân hàng TP.HCM, ngày 21/12/2015
Thứ tư, đề cao vai trò của nhà nước trong điều tiết nền kinh tế. Ông cho rằng tác
động của Nhà nước là cần thiết trong việc điều tiết nền kinh tế, khác với những
quan điểm của các nhà kinh tế học đi trước.

TÁC ĐỘNGTĂNG NHU CẦU NHA NƯỚCTĂNG


IN

THÊM TIỀN

HẠ

ĐẦU TƯ

TẠO

LÃI SUẤTTĂNG ĐẦU TƯ

VIỆC LAM
TĂNG THU NHẬP, CẢI THIỆN PHÚC LỢI XÃ H

TĂNG TỔNG
TƯ NHÂN CẦU, PHÁT
TRIỂN KINH


TẠO LẠM PHÁT CÓ MỨC ĐỘ ĐỂ KHUYÊN KHÍCH TIÊU DÙNG

Sơ đồ 1.2 Vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế
Nguồn: TS.Lê Kiên Cương 2015, chương 3 Keynes, bài giảng môn Các học thuyết
kinh tế hiện đại, trương Đại học Ngân hàng TP.HCM, ngày 21/12/2015

6


Chương 3: Kết luận

Tác động ở đây là 2 chiều chứ không phải tác động một chiều. Lạm phát cũng là
một cách để phân chia lại thu nhập của xã hội, vì cơ bản lạm phát là sự mất giá của
đồng tiền, mà khi lạm phát thì người càng giàu có thì càng mất nhiều.
Ngoài ra, theo giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế do trường Đại học Kinh
tế Quốc dân xuất bản năm 2013,do PGS.TS Trần Bình Trọng làm chủ biên thì
phương pháp luận của Keynes gồm 3 điểm cơ bản:
“Thứ nhất, Keynes đã đưa ra phương pháp phân tích vĩ mô (tức là phân tích kinh tế
xuất phát từ những tổng lượng lớn để nghiên cứu mối liên hệ và khuynh hướng của
chúng, nhằm tìm ra công cụ tác động vào khuynh hướng, làm thay đổi tổng lượng).
Đưa ra mô hình kinh tế vĩ mô với 3 đại lượng:


Một là, đại lượng xuất phát (bao gồm nguồn vật chất như tư liệu sản xuất, sức lao
động, mức độ trang bị kĩ thuật của sản xuất, trình độ chuyên môn hóa của người lao
động, cơ cấu của chế độ xã hội). Là đại lượng không thay đổi hay thay đổi chậm
chạp.



Hai là, đại lượng khả biến độc lập (là những khuynh hướng tâm lý như tiêu dùng,
đầu tư, ưa chuộng tiền mặt...). Là cơ sở hoạt động của mô hình, là đòn bẩy bảo đảm
sự hoạt động của tổ chức kinh tế tư bản chủ nghĩa.



Ba là, đại lượng khả biến phụ thuộc (là các chỉ tiêu quan trọng cấu thành nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa, cụ thể hóa tính trạng nền kinh tế như: khối lượng việc làm, thu
nhập quốc dân, đơn vị tiền công) có sự thay đổi theo sự tác động của các biến số
độc lập.
Mối liên hệ giữa đại lượng khả biến độc lập và đại lượng khả biến phụ thuộc:


7


Chương 3: Kết luận
Thu nhập (R) = giá trị sản lượng (Q) = Tiêu dùng (C) + Đầu tư (I)
Tiết kiệm (E) = Thu nhập (R) – Tiêu dùng (C) (E hoặc S)
(hay R = Q = C + I , E = R – C) => E = I.
E, I là 2 đại lượng quan trọng, theo Keynes việc điều tiết vĩ mô nhằm giải quyết
việc làm, tăng thu nhập đòi hỏi khuyến khích tăng đầu tư và giảm tiết kiệm, có như
vậy mới giải quyết được khủng hoảng và thất nghiệp.
Thứ hai, Về cơ bản trong phương pháp Keynes vẫn dựa vào tâm lý chủ quan,
nhưng khác với các nhà cổ điển và cổ điển mới dựa vào tâm lý cá biệt, Keynes dựa
vào tâm lý xã hội, tâm lý chung, tâm lý của số đông (đưa ra các phạm trù khuynh
hướng tiêu dùng, tiết kiệm là các phạm trù tâm lý số đông, tâm lý xã hội).
Thứ ba, ông đánh giá cao vai trò của tiêu dùng, trao đổi, coi tiêu dùng và trao đổi là
nhiệm vụ số một mà nhà kinh tế học phải giải quyết. Theo ông, nguyên nhân của
khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp và trì trệ trong nền kinh tế là do cầu tiêu dùng
giảm do đó cầu có hiệu quả giảm (tiêu dùng tăng chậm hơn mức tăng thu nhập do
khuynh hướng tiết kiệm, ưa chuộng tiền mặt, vì thế cầu tiêu dùng và do đó cầu có
hiệu quả giảm). Do đó, cần nâng cầu tiêu dùng, kích thích cầu có hiệu quả.”
CHƯƠNG 2. LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM VÀ
THẤT NGHIỆP CỦA MỘT SỐ HỌC THUYẾT VÀ CỦA KEYNES
2.1 Lý thuyết về thị trường lao động, việc làm và thất nghiệp của một số
học thuyết
2.1.1 Lý thuyết của trường phái cổ điển
Việc làm và thất nghiệp luôn là vấn đề nan giải của mọi nền kinh tế trong
mọi thời kỳ. A.Smith và D. Ricardo là một trong những người sáng lập trường
phái lý thuyết cổ điển. Trong học thuyết của mình họ xây dựng được cơ sở lý
thuyết về giá trị lao động và đưa lao động lên tầm quan trọng hàng đầu trong

8


Chương 3: Kết luận
nền kinh tế. Học thuyết này đề cập đến các vấn đề như sản xuất hàng hóa, tiền
lương, lợi nhuận và lợi tức, về sự điều tiết của thị trường, về sự can thiệp tối
thiểu của nhà nước trong nền kinh tế.
Tác giả Phạm Đức Chính (2005) đã tổng kết được rằng “Các nhà kinh tế cổ
điển đặt ra rằng hệ thống thị trường tạo điều kiện đảm bảo sử dụng đầy đủ nguồn
lực, trong số đó có nguồn lực sức lao động”. Trường phái cổ điển khẳng định nền
kinh tế thị trường phải đảm bảo được việc làm đầy đủ, không được để tình
trạng thất nghiệp trong xã hội và nền kinh tế thị trường sẽ tự điều tiết nên sự
can thiệp của nhà nước sẽ là dư thừa và có thể gây ra những hậu quả không
tốt.
2.1.2 Lý thuyết của trường phái tân tân cổ điển
Trường phái tân cổ điển được nhen nhóm vào những năm cuối thế kỷ XIX và
Alfred Marshall (1842-1924) được xem là người sáng lập. Ông cho rằng việc điều
tiết cung cầu đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo việc làm cho xã hội.
Trong quyển “Những nguyên tắc của khoa học kinh tế” (1993) A. Marshall đã viết
“Khi cung và cầu ở trong tình trạng cân bằng bền vững, thì trong trường hợp, nếu
khối lượng sản xuất nào đó được dịch chuyển khỏi trạng thái cân bằng của nó, các
sức mạnh nhanh chóng bắt đầu hoạt động thúc đẩy nó quay trở lại vị trí trước đây,
cũng chính xác như khi hòn đá treo trên sợi dây di chuyển khỏi trạng thái cân bằng,
nó sẽ lao nhanh trở lại vị trí cân bằng của mình”. Ông cho rằng nền kinh tế thị
trường sẽ tự điều tiết nền kinh tế và không xem trọng sự cần thiết của nhà
nước trong việc điều tiết thị trường, về luận điểm này thì giống với luận điểm
của các nhà kinh tế theo trường phái cổ điển là A.Smith và D. Ricardo.
Năm 1933, tác giả Arthur Pigou (1877-1955) là người đã kế tục và phát triển
các học thuyết của A. Marshall đã công bố công trình “Lý thuyết thất nghiệp”. Ông
9



Chương 3: Kết luận
cho rằng lương cao sẽ dẫn đến thất nghiệp, vì lương cao sẽ tốn thêm nhiều chi
phí nhân công, từ đó làm tăng chi phí sản xuất nên sẽ làm giảm số lượng việc
làm đi. Do đó, muốn xác định được khối lượng việc làm thì cần có yếu tố tác
dụng của cầu về lao động thực tế. Ông là người luôn ủng hộ “Lý thuyết thất
nghiệp tự nguyện”, theo lý thuyết này thì số lượng việc làm là do cung cầu trên
thị trường quyết định, do người lao động sẽ có quyền chọn từ chối làm việc do
mức lương không xứng đáng với công sức họ bỏ ra. Nên sự cân đối giữa mức
lương và việc làm sẽ giúp cho tình trạng thất nghiệp giảm, nói một cách khác là
việc làm và thất nghiệp sẽ phụ thuộc vào mức lương.
2.1.3 Lý thuyết của Karl.Marx
K.Marx (1818-1883) là một trong những nhà bác học người Đức nổi tiếng của
thế giới và ông đã có những đóng góp vô cùng to lớn cho nền tri thức của nhân loại.
Trong lý thuyết việc làm của ông, giá trị thặng dư là một trong những nhân
tố chủ đạo. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa xem sức lao động con người cũng là
một loại hàng hóa, khi người công nhân đi làm thuê tức là đã bán hàng hóa sức
lao động của mình cho ông chủ tư bản, trong quá trình lao động, người công
nhân sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị sức lao động của mình. Do đó, người
chủ sẽ nhận được một giá trị từ sức lao động và giá trị thặng dư của người
công nhân, nhưng chỉ phải trả cho họ số tiền bằng nhỏ hơn với giá trị sức lao
động của họ tạo ra trong quá trình sản xuất.
Một nhân tố nữa đó là tăng trưởng cấu trúc vốn hữu cơ. Theo K.Marx cấu trúc
vốn bao gồm vốn cố định và vốn lưu động, trong đó vốn cố định là giá trị tư liệu sản
xuất, còn vốn lưu động chính là giá trị sức lao động, có nghĩa là tổng số lương.
Nghĩa là việc tăng việc làm và tăng sản xuất sẽ làm tăng tổng lương. Các nhà
tư bản sẽ muốn có lợi nhuận nhiều hơn tức là họ muốn gia tăng giá trị thặng
10



Chương 3: Kết luận
dư nên họ quan tâm tới việc làm sao để giá thành sản phẩm của họ thấp hơn so
với giá mặt bằng chung. Đòi hỏi phải nâng cao và đầu tư vào máy móc, ky
thuật hiện đại, tăng chí phí cho giá trị tư liệu sản xuất. Mà máy móc hiện đại sẽ
làm giảm nhu cầu thuê công nhân của các ông chủ tư bản, làm cho việc làm bị
giảm, thất nghiệp tăng lên.
Một nhân tố đóng góp vai trò quan trọng không kém là luật dân số, K.Marx
cho rằng giai cấp công nhân là người tạo ra sự tích lũy tư bản, nhưng người
tạo ra các công cụ khoa học ky thuật tân tiến hiện đại thay cho sức lao động
con người cũng chính là giai cấp công nhân, chính họ đã tạo ra máy móc và sau
đó là chính họ cũng bị thay thế bởi máy móc, biến mình trở thành người thất
nghiệp.
2.2 Lý thuyết về thị trường lao động, việc làm và thất nghiệp của Keynes
2.2.1 Các phạm trù cơ bản trong lý thuyết việc làm của Keynes
2.2.1.1 Khuynh hướng tiêu dùng giới hạn

Là khuynh hướng tiêu dùng cá nhân, nó phụ thuộc vào thu nhập. Ông cho rằng tâm
lý tiêu dùng bị ảnh hưởng bởi hai nhân tố khách quan và chủ quan. Ông viết rằng
“Quy luật tâm lý thông thường của chúng ta là khi thu nhập thực tế của cộng đồng
tăng hay giảm, thì tiêu dùng của cộng đồng sẽ tăng hay giảm nhưng không nhanh
bằng. Khuynh hướng cá nhân phân chia phần thu nhập tăng thêm cho tiêu dùng theo
tỷ lệ ngày càng giảm dần. Đây là quy luật tâm lý của mọi cộng đồng tiêu tiền, nó là
nguyên nhân của sự giảm sút tương đối cầu tiêu dùng dẫn đến sản xuất trì trệ, khủng
hoảng kinh tế và thất nghiệp”.
Theo Keynes, khuynh hướng tiêu dùng giới hạn là một tương quan hàm số giữa thu
nhập và chi tiêu cho tiêu dùng rút ra từ thu nhập đó: C = X(R)

11



Chương 3: Kết luận
Với: R: thu nhập
C: chi tiêu cho tiêu dùng rút ra từ thu nhập đó
Có ba nhân tố chi phối khuynh hướng tiêu dùng giới hạn


Thu nhập: khi thu nhập tăng sẽ kéo theo tiêu dùng có xu hướng tăng theo và ngược



lại.
Những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến thu nhập bao gồm thay đổi tiền công

danh nghĩa cho một lao động, lãi suất, thuế.
• Những nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến tiêu dùng, bao gồm 2 nhóm:
 Nhóm làm tăng tiết kiệm (lập khoản dự phòng rủi ro, đẻ dành cho tuổi già,

cho việc học tập của con cái và bản thân, xây dựng tài sản…thậm chí thỏa
mãn tính hà tiện đơn thuần) có thể khái quát thành sự thận trọng, nhìn xa,
tính toán, tham vọng, tự lập, kinh doanh, kiêu hãnh và hà tiện, điều này làm
giảm tiêu dùng.

 Nhóm thứ hai làm giảm tiết kiệm tăng tiêu dùng (thích hưởng thụ, thiển cận,

hào phóng, phô trương, xa hoa…).
Bốn loại động lực là: Tiết kiệm kinh doanh (bảo đảm nguồn tài chính để thực hiện
cuộc đầu tư mới mà không mắc nợ); Tiền mặt (bảo đảm nguồn tiền mặt để đối phó
với những bất trắc xảy ra; Cải tiến (bảo đảm tăng thu nhập nhờ hiệu suất) và động
lực thận trọng về tài chính (bảo đảm quy dự trữ tài chính).

Biểu thị khuynh hướng tiêu dùng giới hạn = dC /dR
Trong đó: C là chi tiêu cho tiêu dùng rút ra từ thu nhập
dC là gia tăng tiêu dùng
12


Chương 3: Kết luận
R là Thu nhập
dR là gia tăng thu nhập
2.2.1.2 Hiệu quả của giới hạn tư bản
PGS.TS Trần Bình Trọng (2013) đã viết rằng “Theo Keynes, mục đích của các
doanh nhân khi đầu tư là bán có “thu hoạch tương lai”. Đó là chênh lệch giữa số
tiền bán hàng với phí tổn cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó. Tương quan giữa
“thu hoạch tương lai” và phí tổn cần thiết để sản xuất hàng hóa đó gọi là hiệu quả
của tư bản. Cùng với sự tăng lên của vốn đầu tư thì hiệu quả của tư bản giảm dần và
Keynes gọi đó là hiệu quả giới hạn của tư bản.
Có hai nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là:
Thứ nhất, đầu tư tăng làm cho khối lượng hàng hóa tăng dẫn đến giá cả hàng hóa
sản xuất thêm giảm.
Thứ hai, cung về hàng hóa tăng (sản xuất tăng) làm cho giá cung tổng số tư bản
tăng.
Từ đó làm cho phí tổn sản xuất tăng và “thu hoạch tương lai” giảm vì thế hiệu quả
tư bản giảm, như vậy tăng đầu tư sẽ dẫn đến làm giảm hiệu quả giới hạn của tư bản.
Đường biểu diễn mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư và hiệu quả giới hạn tư bản gọi
là “đường cong đầu tư” hay “đường cong hiệu quả giới hạn của tư bản”.

Oy: hiệu quả giới hạn của tư bản
Ox: vốn đầu tư
13



Chương 3: Kết luận
Đồ thị 2.1 Đường cong hiệu quả giới hạn của tư bản
Nguồn: Giáo trình Lịch Sử Các Học Thuyết Kinh Tế do Trương Đại Học Kinh Tế
Quốc Dân xuất bản năm 2013 do PGS.TS Trần Bình Trọng làm chủ biên.
2.2.1.3 Lãi suất
Là số tiền trả cho việc không sử dụng tiền mặt trong một khoảng thời gian nhất
định. Không phải cho tiết kiệm hay nhịn ăn tiêu (vì khi tích trữ tiền mặt dù rất nhiều
cũng không nhận được khoản trả công nào cả).
Lãi suất chịu ảnh hưởng của hai nhân tố là: khối lượng tiền trong tiêu dùng (tỉ lệ
nghịch) và sự ưa chuộng tiền mặt (tỉ lệ thuận). Đây là điểm quan trọng để Keynes
đưa ra chính sách điều chỉnh kinh tế của Nhà nước (tăng hiệu quả giới hạn tư bản và
giảm lãi suất). Sự ưa chuộng tiền mặt là khuynh hướng có tính chất hàm số, biều
diễn dưới dạng hàm số:
M = M1 + M2 = L1(R) + L2(r) (Hàm số của lãi suất)
M: Sự ưa chuộng TM
M1: Số TM dùng cho động lực giao dịch và dự phòng
M2: Số TM dùng cho động lực đầu cơ
L1: Hàm số TM xác định M1 tương ứng với thu nhập R
L2: Hàm số TM xác định M2 tương ứng với lãi suất r
Thu nhập (R) cũng phụ thuộc 1 phần vào r ⇒ M1 cũng phụ thuộc r. Vì vậy sự ưa
chuộng tiền mặt là HS của lãi suất (r).

14


Chương 3: Kết luận
2.2.1.4 Số nhân đầu tư
Là mối quan hệ giữa gia tăng thu nhập (dR) với gia tăng đầu tư (dI). Nó xác
định sự gia tăng đầu tư sẽ làm gia tăng thu nhập lên bao nhiêu lần (là hệ số bằng số

nói lên mức độ tăng của sản lượng do kết quả của mỗi đơn vị đầu tư). Cụ thể ta có:
C là chi tiêu cho tiêu dùng rút ra từ thu nhập và dC là gia tăng tiêu dùng
R là Thu nhập và dR là gia tăng thu nhập
I là đầu tư và dI là gia tăng đầu tư
S là tiết kiệm và dS là gia tăng tiết kiệm.
Khi đó ta sẽ có công thức sau:

(khuynh hướng tiêu dùng giới hạn) =>
(khuynh hướng tiết kiệm giới hạn) =>
Từ đó công thức tính sự gia tăng sản lượng do đầu tư thêm là:
Q=R=C+I
d Q = d R = K. (dC + dI)
(Q là sản lượng và dQ là sự gia tăng sản lượng)
K là số nhân
Theo Keynes, mỗi sự gia tăng đầu tư kéo theo sự gia tăng cầu về tư liệu sản xuất và
sức lao động, kích thích sản xuất phát triển, tăng thu nhập (tăng sản lượng) và đến
15


Chương 3: Kết luận
lượt nó thu nhập tăng lại làm tiền đề cho sự gia tăng đầu tư mới. Vì thế số nhân làm
cho thu nhập phóng đại lên nhiều lần.
2.2.2 Lý thuyết về thị trường lao động
Thị trường lao động đóng một ảnh hưởng rất lớn đến lượng việc làm và thất
nghiệp trong xã hội.
Theo kinh tế học của Keynes trong điều kiện ngắn hạn, người lao động sẽ
có ít khả năng tìm được việc làm, nên họ sẽ chấp nhận làm việc với mức lương
không tương xứng với công sức bỏ ra. Do đó, trong ngắn hạn, lượng lao động
cân bằng là lượng do người chủ tư bản quy định, hay nói cách khác thì lượng
cung lao động không phụ thuộc vào mức tiền lương thực tế họ được nhận, do

người lao động đã chấp nhận bán sức lao động của mình cho nhà tư bản với
một mức thấp hơn giá trị thực của nó và tiền lương họ được nhận cũng do
người chủ quy định chứ không phụ thuộc vào người làm thuê. Tuy nhiên việc
này cũng chỉ xảy ra trong ngắn hạn, về trung và dài hạn, thì khi thị trường
nguồn nhân lực thật sự được hình thành thì người làm thuê sẽ được trả lương
đúng với giá trị công sức mình đã bỏ ra, vì sức lao động được phân phối theo
cơ chế thị trường nên các yếu tố tham gia vào đều có ý nghĩa và vai trò quyết
định như nhau.
Chẳng hạn như trong một số giai đoạn, thị trường lao động tại các thành
phố lớn bị thiếu hụt lượng lao động do một số lượng người làm thuê quyết định
quay trở về quê hương để làm việc vì họ cảm thấy đồng tiền lương được trả tại
các nhà máy lớn ở thành phố không đủ trang trải cho cuộc sống với giá cả
ngày càng đắt đỏ ở thành thị, ngoài ra một số người chọn làm việc tại địa
phương vì nhận thấy, họ chấp nhận làm việc với đồng lương ít hơn ở thành
phố, nhưng với giá cả rẻ hơn tại địa phương họ vẫn có thể sống tốt, ngoài ra
16


Chương 3: Kết luận
còn được gần gia đình. Ngoài ra, còn có một bộ phận khác như các cán bộ làm
việc trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp quốc doanh không chấp nhận
được đồng lương quá ít ỏi so với tình hình giá cả đang leo thang nên quyết định
chuyển sang làm việc tại các doanh nghiệp tư nhân, sẽ giải quyết được nhu cầu
về lương để đảm bảo được cuộc sống của họ. Cộng thêm vào đó là những cuộc
đình công, biểu tình đòi tăng lương do tình hình giá cả ngày càng leo thang mà
công sức họ bỏ ra ngày càng nhiều nhưng lương vẫn không thể nào đáp ứng
được nhu cầu của cuộc sống, do đó việc đình công ngày càng nhiều, khiến cho
các ông chủ các doanh nghiệp buộc phải điều chỉnh nâng lương để xoa dịu
người lao động, đồng thời thu hút lại nguồn nhân lực nhằm đáp ứng được
nguồn cầu thị trường lao động của doanh nghiệp.

Qua phân tích này có thể thấy được, động thái tăng lương của các doanh
nghiệp là hướng đi đúng đắn theo quy luật của Keynes như đã nói ở trên, là
một ví dụ minh chứng cho sự tự điều tiết của thị trường lao động.
2.2.3 Lý thuyết về việc làm và thất nghiệp của Keynes
Một trong những lý thuyết mang tính chất chủ chốt của Keynes là “Lý
thuyết việc làm” và “Lý thuyết thất nghiệp”. Vì việc làm và thất nghiệp có mối
liên hệ mật thiết và tác động lẫn nhau. Theo Keynes, vấn đề quan trọng nhất
mà chủ nghĩa tư bản cần giải quyết chính là khối lượng thất nghiệp và việc
làm. Lý thuyết này đã mở ra một con đường, hướng đi mới cho nền kinh tế học
của thế giới và giúp giải quyết được những khó khăn mà các Chính phủ thời
bấy giờ đang gặp phải và được vận dụng cho đến ngày nay.
Đầu tiên, học thuyết của Keynes đã giải quyết được tình trạng thất nghiệp
là một đột phá trong kinh tế học thời bấy giờ. Trường phái kinh tế học cổ điển
cho rằng thị trường tạo được công ăn việc làm đầy đủ cho người lao động là thị
17


Chương 3: Kết luận
trường ổn định. Tuy nhiên, Keynes đã đưa ra một giả định khác là thu nhập
của người lao động và giá cả có mối liên hệ với nhau. Có nghĩa là nền kinh tế
luôn ở trong tình trạng mất cân đối thường xuyên để cố gắng cân bằng giữa
mức lương người lao động mong muốn và mức lương các ông chủ chấp nhận
trả cho người lao động. Nếu tỷ lệ thất nghiệp giảm thì nguồn cung lao động sẽ
giảm do số lượng người đi tìm việc ít, nên các doanh nghiệp muốn mở rộng quy
mô sản xuất sẽ gặp khó khăn trong việc tìm người làm thuê, dẫn đến tiền lương
sẽ tăng lên. Đến một mức nào đó, ông chủ các doanh nghiệp sẽ không thể trả
hoặc không chấp nhận trả mức lương mà người laoi động đòi hỏi, họ sẽ không
tuyển thêm nhân sự nữa.
Tiền lương được đề cập ở đây bao gồm tiền lương thực tế và tiền lương danh
nghĩa. Tiền lương thực tế có tính đến yếu tố lạm phát, nhưng tiền lương danh

nghĩa thì không. Keynes cho rằng, các ông chủ sẽ gặp khó khăn trong việc đàm
phán với người lao động để giảm tiền lương thực tế và nó khó xảy ra, chỉ khi có
biến động nào đó làm cho tiền lương trong toàn bộ nền kinh tế giảm xuống
hoặc nền kinh tế xảy ra hiện tượng giảm phát thì người lao động mới chấp
nhận giảm thu nhập. Do vậy, muốn số lượng việc làm thì phải chấp nhận giảm
lương thực tế. Tuy nhiên, khi xảy ra điều này, có thể làm cho nền kinh tế phải
hứng chịu một cuộc suy thoái nặng nề hơn, làm cho tâm lý người lao động
không ổn định và lo sợ, dẫn đến tổng cầu trong nền kinh tế sẽ bị sụt giảm.
Theo ông, trong một nền kinh tế, khi sản lượng giảm, thu nhập giảm, đầu tư
giảm thì kéo theo việc làm giảm và nếu như sản lượng, thu nhập, đầu tư tăng
thì số lượng việc làm cũng tăng lên. Người tiêu dùng thường sẽ bị ảnh hưởng
tâm lý theo số đông, nghĩa là khi thu nhập tăng đồng nghĩa với việc họ sẽ chi
tiêu nhiều hơn cho những nhu cầu trong cuộc sống, tức là cầu tiêu dùng cũng
18


Chương 3: Kết luận
sẽ tăng lên. Tuy nhiên, tốc độ tăng của cầu tiêu dùng không kịp so với tốc độ
tăng thu nhập, người dân sẽ có xu hướng tiết kiệm một phần nào đó trong thu
nhập của họ, điều này dẫn đến việc nhu cầu mua hàng hóa thực tế sẽ giảm
tương đối so với thu nhập, làm cho cầu về hàng hóa tiêu dùng của một số mặt
hàng cũng bị giảm theo. Các doanh nghiệp bán các hàng hóa đó sẽ bị ảnh
hưởng, hàng hóa sẽ bị dư thừa, mà hàng hóa dư thừa cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng. Vì dư thừa sản phầm nên các doanh
nghiệp sẽ dần thu hẹp quy mô sản xuất do hàng hóa tồn đọng nhiều, nhưng
không bán được, họ sẽ sa thải bớt công nhân nên số lượng việc làm sẽ bị giảm
và tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng lên.
Để hiểu rõ hơn vấn đề này thì PGS.TS Phan Huy Đường và Th.s Bùi Đức Tùng
(2009) đã viết rằng: “Theo Keynes, tình trạng thất nghiệp kéo dài do thiếu hụt một
số nhân hữu hiệu, mức cầu bảo đảm lợi nhuận cho các nhà đầu tư, sỡ dĩ có tình

trạng này là do khuynh hướng tiết kiệm ngày càng gia tăng, nó mang tính chất tâm
lý, biểu hiện trong từng cá nhân, tổ chức xã hội và ngay cả trong các doanh nghiệp.
Khuynh hướng tiết kiệm được biểu hiện là khi sản xuất tăng lên thì thu nhập tăng
lên, thu nhập chia làm hai bộ phận là tiêu dùng và tiết kiệm (để dự phòng cho tương
lai). Khi thu nhập tăng thì bộ phận tiêu dùng có thể tăng tuyệt đối và giảm tương
đối. Khuynh hướng tiết kiệm trong tiêu dùng cá nhân làm cho cầu tiêu dùng cá nhân
tăng chậm hơn là cung. Cầu đầu tư cũng có khả năng tăng chậm hơn do cầu tiêu
dùng tăng chậm, lãi suất ngân hàng thường cố định ở mức tương đối cao trong khi
tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm sút, vì thế tổng cầu giảm sút so với tổng cung.
Tuy nhiên, trong thời đại của J.M. Keynes đã có thay đổi lớn trong tính chất và vai
trò của cầu, giá cả không còn là cơ chế lý tưởng xác lập cân bằng giữa cung và cầu.
Cầu luôn luôn tụt lại so với cung do người ta có xu hướng “muốn tiêu dùng một
19


Chương 3: Kết luận
phần thu nhập ít hơn dần khi thu nhập thực tế tăng”. Do đó phát sinh “cầu bị gác
lại”, cung trở nên thừa và điều này tạo điều kiện giảm đầu tư vào sản xuất, tức là
thất nghiệp và khủng hoảng xuất hiện”.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trương, khi các nhà tư bản tăng quy mô
đầu tư thì giới hạn của tư bản đầu tư có xu hướng bị giảm sút, thu nhập của
các nhà tư bản dự kiến sẽ đầu tư trong tương lai sẽ bị giới hạn bởi một khoảng
rất chật hẹp. Bất kì một nhà đầu tư nào cũng muốn có lợi nhuận ngày càng lớn
hơn, nên họ sẽ rất cân nhắc khi quyết định đầu tư, đặc biệt họ sẽ sẵn sàng đầu
tư để mở rộng quy mô khi nhận thấy hiệu quả giới hạn của tư bản lớn hơn lãi
suất. Còn ngược lại, nếu giới hạn của tư bản không lớn hơn lãi suất họ sẽ
không đầu tư, do đó, quy mô sản xuất sẽ không được mở rộng, số lượng việc
làm bị giảm đi là điều tất yếu, tỷ lệ thất nghiệp ngày càng tăng lên.
Keynes cho rằng, muốn nền kinh tế ổn định, nhất là vấn đề giải quyết việc
làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp của quốc gia thì phải tăng tổng

cầu vì tổng cầu tăng sẽ tác động đến tổng cung, làm giảm suy thoái và thất
nghiệp. Cách làm tăng tổng cầu là cần có sự can thiệp của nhà nước bằng cách
sử dụng công cụ tài khóa là chủ yếu (thuế, chi ngân sách). Tuy nhiên, phần chủ
yếu chính là chi tiêu của Chính phủ, vì khi Chính phủ tăng chi tiêu làm tăng
tổng cầu và nó sẽ tác động đến tổng cung cùa nền kinh tế. Học thuyết Keynes
cho rằng giữa chi tiêu của Chính phủ và tổng thế nền kinh tế sẽ bị ảnh hường
theo hướng ngược lại của chu kỳ kinh doanh, tức là Chính phủ sẽ chi tiêu
nhiều hơn trong thời kì suy thoái và ngược lại. Khi xảy ra khủng hoảng thì
Chính phủ cần sử dụng chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát là cắt giảm
chi tiêu và tăng thuế.

20


Chương 3: Kết luận
Tác giả Trần Thị Ái Đức (2014) đã viết “Theo lý thuyết này của Keynes, Chính phủ
có vai trò kích thích tiêu dùng (tiêu dùng sản xuất và phi sản xuất) để tăng tổng cầu
thông qua tăng trực tiếp các khoản chi tiêu của chính phủ, hoặc thông qua các chính
sách của Chính phủ nhằm khuyến khích đầu tư của tư nhân, của các tổ chức kinh tế
xã hội. Keynes còn sử dụng các biện pháp: hạ lãi suất cho vay, giảm thuế, trợ giá
đầu tư, in thêm tiền giấy để cấp phát cho ngân sách nhà nước nhằm tăng đầu tư và
bù đắp các khoản chi tiêu của Chính phủ. Ông chủ trương tăng tổng cầu của nền
kinh tế bằng mọi cách, kể cả khuyến khích đầu tư vào các hoạt động ăn bám nền
kinh tế như: sản xuất vũ khí đạn dược, chạy đua vũ trang, quân sự hoá nền kinh tế.
Lý thuyết về việc làm của J.M Keynes được xây dựng dựa trên các giả định đúng
với các nước phát triển, nhưng không hoàn toàn phù hợp với các nước đang phát
triển. Bởi vì hầu hết các nước nghèo, nguyên nhân khó khăn cơ bản để gia tăng sản
lượng, tạo việc làm không phải do tổng cầu không đủ cao. Ở các nước đang phát
triển, khi tổng cầu tăng sẽ kéo theo tăng giá cả, dẫn đến lạm phát. Vì thế, biện pháp
tăng tổng cầu để tăng quy mô sản xuất, tạo việc làm không đúng với mọi quốc gia,

trong mọi thời kỳ. Mặt khác, nếu tạo việc làm cho khu vực thành thị và một số trung
tâm công nghiệp bằng cách tăng tổng cầu sẽ tạo ra làn sóng di dân từ nông thôn ra
thành thị và tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị gia tăng. Điều này có thể làm suy giảm việc
làm và sản lượng quốc dân của cả nước”
Tóm lại, lý thuyết thị trường lao động, việc làm và thất nghiệp của Keynes đã
đưa ra đưa ra được giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là phải sử dụng
có hiệu quả đối với nguồn nhân lực, vì việc làm và thất nghiệp là hai vấn đề
không chỉ liên quan đến thu nhập của cá nhân, cầu tiêu dùng mà còn liên quan
đến việc sử dụng các nguồn lực kinh tế.

21


Chương 3: Kết luận
Trong lý thuyết này, Keynes cho rằng muốn khắc phục tình trạng khủng
hoảng kinh tế, xây dựng nền kinh tế ổn định, tạo thêm được nhiều việc làm,
kích thích đầu tư tư nhân thì cần mở rộng đầu tư của các chủ thể trong nền
kinh tế.
Vai trò kinh tế của Nhà nước được Keynes rất coi trọng, muốn giải quyết được
số lượng việc làm và tình trạng thất nghiệp thì không thể thả cơ chế thị trường
tự do, mà Nhà nước phải thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường.
Ngày nay, nhiều Chính phủ vẫn sử dụng các ý tưởng của lý thuyết này để làm
hạn chế những chu kỳ bùng nổ và phá sản của nền kinh tế; các nhà kinh tế kết
hợp các nguyên tắc của Keynes với kinh tế vĩ mô và chính sách tiền tệ để xác
tìm ra các phương pháp giải quyết cho những vấn đề nan giải của nền kinh tế
thế giới.
CHƯƠNG 3. KẾT LUẬN LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG,
LẠM PHÁT VÀ THẤT NGHIỆP CỦA KEYNES.
3.1 Đánh giá chung
Trong thời kỳ những năm 50-60 của thế kỷ XX, học thuyết kinh tế của

Keynes đã đóng góp một phần rất lớn trong việc thúc đẩy kinh tế của các nước
tư bản, hạn chế được khủng hoảng và thất nghiệp. Các nước tư bản nhờ đó mà
có bước tiến rất mạnh mẽ trong thời kỳ này và hiện nay đã trở thành những
quốc gia có nền kinh tế phát triển như Anh, Đức, Pháp, Nhật… Do đó, có thể
khẳng định rằng học thuyết này giữ vai trò rất quan trọng trong hệ thống tư
tưởng kinh tế tư sản trong một thời gian dài.
Mặc dù có đóng góp rất lớn và đã đạt được những thành tựu nhất định
nhưng học thuyết của Keynes vẫn vướng phải một số hạn chế.
22


Chương 3: Kết luận


Mục tiêu chống khủng hoảng và thất nghiệp vẫn chưa hoàn toàn thực hiện
được, chẳng hạn như tình hình thất nghiệp vẫn chưa thể đạt mức ổn định, suy
thoái kinh tế thì không còn trầm trọng như trước đó, nhưng vẫn còn xảy ra



thường xuyên với chu kỳ ngắn hơn.
Việc đưa ra biện pháp dùng lãi suất để điều chỉnh chu kỳ kinh tế tư bản chủ
nghĩa không có tác dụng, chính sách lạm phát có kiểm soát mặc dù vẫn có một
số lợi ích nhưng không đủ bù đắp cho những thiệt hại rất lớn do nó gây ra, làm

cho lạm phát ngày càng trầm trọng,
• Quá coi trọng vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế dẫn đến


việc coi nhẹ cơ chế thị trường.

Chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đề mang tính chất ngắn hạn như thất
nghiệp, lạm phát mà không chú trọng giải quyết vấn đề tăng trưởng kinh tế dài
hạn.
3.2 Kết luận
Qua bài nghiên cứu, có thể nhận thấy được những đóng góp của học thuyết
Keynes đối với nền tri thức của nhân loại về lĩnh vực kinh tế học.
Các lý thuyết về thị trường lao động, việc làm và thất nghiệp của Keynes đã
giúp thay đổi nhận thức đối với chủ nghĩa tư bản. Ông cho rằng thất nghiệp và
khủng hoảng kinh tế là khuyết điểm của chủ nghĩa tư bản.
Ông đã phê phán quan điểm của các lý thuyết kinh tế học truyền thống trước
đó, xây dựng hệ thống lý luận mới, đưa ra thuyết Nhà nước can thiệp vào kinh
tế thay cho thuyết tự do kinh doanh. Keynes phủ định chính sách kinh tế tự do
thả nổi, không cần sự can thiệp của Nhà nước mà chủ nghĩa tư bản đang áp
dụng.
Phương pháp phân tích vĩ mô hiện đại là một trong những đặc điểm nổi bật
của học thuyết Keynes, phương pháp này tập trung nghiên cứu các hoạt động
23


Chương 3: Kết luận
tổng quát của nền kinh tế như: tổng cầu, tổng cung, tổng việc làm, tổng thu
nhập…tìm ra mối liên hệ giữa chúng để đưa ra được những cái nhìn tổng quan
hơn về một nền kinh tế.
PGS.TS Trần Bình Trọng (2013) đã từng nhận xét “Cuộc cách mạng của Keynes đáp
ứng yêu cầu thực tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền, thoát ra khỏi lý luận truyền
thống lấy tự do thả nổi làm nội dung phân tích sự cân bằng, xây dụng học thuyết
kinh tế mới mà tư tưởng trung tâm của nó là sự can thiệp của chính phủ vào kinh
tế mới và tìm mọi biện pháp nâng cao tổng cầu để giải quyết việc làm nhằm giúp
chủ nghĩa tư bản thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, tránh khỏi sự sụp đổ hoàn toàn.
Tuy nhiên, việc can thiệp của chính phủ vào kinh tế nên tránh lạm dụng những can

thiệp lớn, việc sử dụng quá nhiều và thường xuyên chính sách vĩ mô có thể trở
thành một thói quen khó bỏ, hoặc tạo một ý thức rằng can thiệp là chuyện tất yếu.
Cần phải lưu ý rằng việc sử dụng một công cụ vĩ mô luôn đòi hỏi sự huy động
nguồn lực lớn thông qua nhà nước (chẳng hạn chính sách mở rộng chi tiêu của
chính phủ) hoặc sự bóp méo một số tín hiệu quan trọng nhất của thị trường (ví dụ
tăng hay giảm lãi suất). Điều này thường giúp đạt được một số mục tiêu ngắn hạn,
nhưng lại có thể gây ra những ảnh hưởng không có trong dự tính, hoặc không tính
toán được.”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A.Marshall 1993, Những nguyên tắc của khoa học kinh tế, bản tiếng Nga, trang 29.
Bylanop V.C và Volgin N.A 2000, Thị trương lao động , bản tiếng Nga, trang 393.
John Maynard Keynes 1994, Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ, Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
K.Mark 1984, Tư bản, quyển I, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
Lê Kiên Cường 2015, chương 3 Keynes, bài giảng môn Các học thuyết kinh tế hiện
đại, trường Đại học Ngân hàng TP.HCM, ngày 21/12/2015.

24


Chương 3: Kết luận
Ngô Thế Chi, Nguyễn Văn Dần, 2003, Phân tích giải pháp tài chính giải quyết việc
làm trong điều kiện hội nhập kinh tế, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Phan Huy Đường, Bùi Đức Tùng 2009, Lý thuyết của John Maynard Keynes về việc
làm

và

vận


dụng

vào

thực

tiễn

Việt

Nam,

truy

cập

tại

< />%20maynard%20keynes.pdf> [ ngày truy cập: 18/02/2016]
Phạm Đức Chính 2005a, “Lý thuyết về thị trường lao động, việc làm và thất nghiệp
trong các học thuyết kinh tế”, Nghiên cứu kinh tế, số 327, tháng 8/2005
Phạm Đức Chính 2005b, “Lý thuyết về thị trường lao động, việc làm và thất nghiệp
trong các học thuyết kinh tế”, Nghiên cứu kinh tế, số 328, tháng 9/2005
Trần Bình Trọng làm chủ biên 2013, Giáo trình Lịch Sử Các Học Thuyết Kinh Tế,
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân xuất bản
Trần Thị Ái Đức 2012, Tìm hiểu một số lý thuyết hiện đại về tạo việc làm, truy cập
tại < [ truy cập ngày:
18/02/2016]

25



×