Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Giám định về sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.45 KB, 68 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền kinh tế năng động liên tục phát triển như hiện nay, các doanh
nghiệp cũng như thương nhân đều muốn cạnh tranh để có chỗ đứng cũng như
không ngừng nâng cao vị thế của mình trên thị trường nhằm mang lại nhiều lợi
nhuận cho doanh nghiệp của mình. Các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ đã và
đang khẳng định vai trò của mình là yếu tố cơ bản tạo nên thương hiệu giá trị và
tính cạnh tranh trong nền kinh tế trên mọi lĩnh vực kinh doanh. Mặc dù các
doanh nghiệp Việt Nam còn rất bỡ ngỡ về những vấn đề liên quan đến quyền
SHTT, những cũng luôn ý thức được tầm quan trọng và tính quyết định của lĩnh
vực này đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Là bộ phận quan trọng trong hệ thống thực thi quyền sở hữu trí tuệ, hoạt
động giám định SHTT chỉ mới xuất hiện trong thời gian gần đây. Nhưng nó đã
khẳng định được vị trí không thể thiếu của mình trong công cuộc bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. Nó có thể được xem là công cụ hỗ trợ, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, tổ chức tham gia quan hệ liên quan đến sở
hữu trí tuệ, giải quyết các nghi vấn trong giao dịch về quyền sở hữu trí tuệ.
Tuy nhiên, tình hình xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gần đây ngày càng
diễn ra phổ biến và phức tạp. Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong giai đoạn
hiện nay được thực hiện bằng nhiều phương thức, thủ đoạn mới như áp dụng
công nghệ cao, sử dụng các thiết bị hiện đại để sản xuất hàng hoá làm cho người
tiêu dùng và cơ quan quản lý thị trường khó phát hiện thật /giả. Thế nhưng, việc
xử lý tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn gặp nhiều khó khăn và bất cập. Các
vi phạm quyền sở hữu trí tuệ xảy ra ngày một gia tăng nhiều hơn nhưng khó bị
phát hiện và khi bị phát hiện thì thường chỉ bị xử lý bằng các biện pháp dân sự
hoặc hành chính.
Vì vậy, hoạt động giám định SHTT là vô cùng cần thiết bởi kết luận giám
định sẽ góp phần giải quyết được các vấn đề nghi vấn trong giao dịch có đối


tường là quyền SHTT. Từ đó công tác đấu tranh phòng chống xâm phạm sở hữu


trí tuệ được nâng cao một cách hiệu quả, đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền SHTT
cũng như các yêu cầu cấp thiết khi Việt Nam tham gia các điều ước quốc tế về
bảo vệ quyền SHTT trong tiến trình hội nhập thương mại quốc tế của mình. Xuất
phát từ tầm quan trọng đó, người viết đã lựa chọn đề tài “Giám định về sở hữu
trí tuệ theo pháp luật Việt Nam hiện hành” làm luận văn cử nhân Luật kết thúc
khóa học của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động giám định SHTT ở Việt Nam
hiện nay. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về giám định SHTT; Tìm hiểu về quy
định của pháp luật đối với việc yêu cầu, trưng cầu giám định SHTT, trong đó đề
cập đến chủ thể có quyền yêu cầu, trưng cầu giám định; hình thức yêu cầu và
trưng cầu; chủ thể thực hiện giám định; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này.
Tìm hiểu về hoạt động thực hiện giám định của Viện Khoa học SHTT.
Đánh giá thực tiễn trong công tác giám định SHTT và đưa ra những nguyên nhân
ảnh hưởng đến hoạt động giám định. Từ đó, đề xuất các giải pháp thiết thực
nhằm hoàn thiện hoạt động giám định SHTT được thực hiện hiệu quả hơn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu hoàn thành luận văn, người viết đã sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu phổ biến như: Phương pháp phân tích hệ thống;
phương pháp thống kê, thu thập thông tin định lượng; phương pháp chuyên
khảo, đối chiếu so sánh; phương pháp sắp xếp, chọn lọc nguồn tài liệu có liên
quan… để phân tích, đánh giá và đề xuất giải pháp. để giải quyết những nội dung
nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.
4. Kết cấu luận văn
Với mục đich và phương pháp nghiên cứu nêu trên, ngoài phần mở đầu,
kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của luận văn bao gồm ba
chương như sau:


Chương 1. Khái quát chung về giám định sở hữu trí tuệ

Chương 2. Những quy định pháp luật hiện hành về hoạt động giám định
sở hữu trí tuệ
Chương 3. Thực trạng và một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả hoạt động giám định sở hữu trí tuệ
Bố cục luận văn
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁM ĐỊNH SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1.1. Khái quát chung về giám định sở hữu trí tuệ
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Nội dung giám định về sở hữu trí tuệ
1.1.3. Lĩnh vực giám định về sở hữu trí tuệ
1.1.4. Nguyên tắc giám định về sở hữu trí tuệ
1.2. So sánh giữa giám định tư pháp với giám định về sở hữu trí tuệ
1.2.1. Điểm giống nhau
1.2.2. Điểm khác biệt
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về giám định sở hữu trí tuệ
1.4. Ý nghĩa của giám định về sở hữu trí tuệ
CHƯƠNG II. NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HOẠT
ĐỘNG GIÁM ĐỊNH SỞ HỮU TRÍ TUỆ
2.1. Chủ thể trong giám định về SHTT
2.1.1. Chủ thể yêu cầu giám định, trưng cầu giám định SHTT
2.1.1.1. Chủ thể có quyền yêu cầu giám định SHTT
2.1.1.2. Chủ thể có quyền trưng cầu giám định SHTT
2.1.2. Chủ thể thực hiện giám định về SHTT
2.1.2.1. Giám định viên
2.1.2.2. Tổ chức giám định về SHTT
2.1.2.3. Viện khoa học SHTT
2.2. Đối tượng của giám định về SHTT
2.2.1. Quyền tác giả và quyền liên quan
2.2.2. Quyền sở hữu công nghiệp
2.2.3. Quyền đối với giống cây trồng

2.3. Điều kiện thực hiện giám định về SHTT
2.4. Trình tự thủ tục thực hiện giám định về SHTT
2.5. Hệ quả pháp lý của việc giám định về SHTT
2.6. Vi phạm trong hoạt động giám định về SHTT
2.6.1. Hành vi vi phạm
2.6.2. Xử lý vi phạm


CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG HOẠT ĐỘNG
GIÁM ĐỊNH SỞ HỮU TRÍ TUỆ
3.1. Thực tiễn về hoạt động giám định SHTT tại Việt Nam
3.1.1. Tình hình hoạt động giám định SHTT ở Việt Nam
3.1.1.1. Giai đoạn từ năm 2007 đến trước tháng 7 năm 2009
3.1.1.2. Giai đoạn từ khi Viện Khoa học SHTT chính thức hoạt động giám định
SHTT đến nay
3.1.2. Vụ việc cụ thể về giám định SHTT
3.2. Nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động giám định SHTT tại
Việt Nam hiện nay
3.2.1. Nguyên nhân chủ quan
3.2.2. Nguyên nhân khách quan
3.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả trong hoạt
động giám định SHTT
3.3.1. Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giám định SHTT
3.3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động giám định SHTT

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁM ĐỊNH SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Thực tiễn cho thấy rằng, đến nay lĩnh vực pháp luật về SHTT nói riêng và
hoạt động liên quan đến SHTT nói chung vẫn còn là một lĩnh vực mới mẻ và khá

phức tạp đối với nhiều chủ thể, trong đó có doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh
nghiệp thường hoạt động gắn liền với quyền SHTT nên hoạt động giám định về
SHTT được thực hiện ngày càng phổ biến. Trong hoàn cảnh đó, hoạt động giám
định về SHTT có nhiệm vụ làm một khâu quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu
giám định tư nhân và trong trình tự xử lý các tranh chấp, giải quyết các vụ việc
xâm phạm quyền SHTT. Chương này sẽ tìm hiểu những vấn đề chung để có thể
hiểu một cách khái quát về hoạt động này.
1.1. Khái quát chung về giám định sở hữu trí tuệ
1.1.1. Khái niệm


Trong đời sống kinh tế - xã hội, giám định là một nhu cầu tất yếu khách
quan, phù hợp với sự phát triển và hòa nhập vào khu vực của nền kinh tế - xã hội
Việt Nam. Trong linh vực SHTT, giám định giữ vai trò đặc biệt quan trọng để
bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong quan hệ về quyền SHTT.
Về mặt thuật ngữ, Giám định là việc xem xét và xác định sự phù hợp của
một đối tượng nhất định với các yêu cầu cụ thể hoặc xác định sự phù hợp với các
yêu cầu chung trên cơ sở đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực giám định.
Giám định làm tăng trách nhiệm của các bên có liên quan trong thực hiện nghĩa vụ
của mình, từ đó ngăn ngừa các rủi ro, tổn thất và những nghĩ ngờ, tranh chấp giữa
các bên. Đặc biệt khi có tranh chấp xảy ra, chứng thư giám định được sử dụng như
một chứng cứ khách quan mang tính pháp lí quan tọng để các bên có thể giải quyết
vụ việc một cách nhanh chóng, hạn chế tranh cãi kéo dài, thời gian và chi phí…
Giám định về sở hữu trí tuệ là một khâu quan trọng trước hết là trong hệ
thống giám định về sở hữu trí tuệ, đặc biệt là trong trình tự xử lý các tranh chấp,
giải quyết các vụ việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trước đây, khâu giám định
về sở hữu trí tuệ gần như hoàn toàn bị bỏ ngỏ vì chưa có một tổ chức giám định
nào được thành lập và hoạt động, trong khi các cơ quan thực thi chưa hoàn toàn đủ
khả năng chuyên môn để tự đưa ra các kết luận đánh giá xâm phạm làm căn cứ ra
các quyết định xử lý khiến cho bản thân các cơ quan này gặp rất nhiều khó khăn,

đồng thời quá trình thực thi quyền sở hữu trí tuệ cũng bị ảnh hưởng xấu. Vì vậy,
việc bổ sung công cụ giám định về sở hữu trí tuệ nói trên chính là nhằm khắc phục
sự “đứt đoạn” của quy trình thực thi do đó ảnh hưởng trực tiếp và tích cực đến
tính hiệu quả của hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ.1
Một cách khái quát, “giám định về sở hữu trí tuệ” là thuật ngữ dùng để chỉ
dịch vụ chuyên cung cấp ý kiến chuyên gia hoặc chứng cứ chuyên môn về những
vấn đề liên quan đến thực thi quyền SHTT. Còn theo quy định của pháp luật hiện
hành về sở hữu trí tuệ của Việt Nam, “giám định về sở hữu trí tuệ” đuợc hiểu là
1

Minh Đức, Giám định về sở hữu trí tuệ - Bộ phận quan trọng của hệ thống thực thi quyền sở hữu trí tuệ, Sở
Khoa học công nghệ tỉnh Bình Dương


“việc tổ chức, cá nhân sử dụng kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn để đánh giá,
kết luận về những vấn đề có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ”.2
1.1.2. Đặc điểm
Xuất phát từ khái niệm về giám định SHTT ta có thể rút ra những đặc
điểm của hoạt động này bao gồm những điểm sau:
- Hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ trước hết là một hoạt động không
bắt buộc. Theo quy định của pháp luật, hoạt động giám định SHTT không phải là
hoạt động bắt buộc. Tuy nhiên, kết luận giám định lại là một trong những nguồn
chứng cứ quan trọng để cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Hơn nữa, kết
luận giám định cũng sẽ là cơ sở rõ ràng và vững chắc để cá nhân yêu cầu có thể
quyết định có nên tiếp tục hay chấm dứt việc yêu cầu xử lý các hành vi xâm phạm
quyền đối với các quyền của họ liên quan đến các đối tượng SHTT. Ngoài ra, người
yêu cầu còn có thể tránh được các trường hợp đưa ra các yêu cầu xử lý vi phạm
không chính xác hoặc thực hiện các hành vi xâm phạm quyền của người khác.
- Hoạt động giám định SHTT đòi hỏi phải có người yêu cầu giám định,
người trưng cầu giám định thì mới có thể tiến hành giám định SHTT.

Xuất phát từ đặc điểm hoạt động giám định SHTT không phải là hoạt động
bắt buộc cho nên muốn thực hiện hoạt động này chủ thể giám định không thể thực
hiện việc giám định một cách tự do mà cần phải có căn cứ, cơ sở hợp lý cho thấy
việc giám định là cần thiết và phù hợp. Và cơ sở vững chắc nhất chính là yêu cầu
của chủ thể có quyền yêu cầu, trưng cầu giám định. Bởi những yêu cầu giám định
này xuất phát từ mục đích nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu
cầu giám định, đòi hỏi giải quyết vụ việc một cách chính xác của người trưng cầu
giám định. Những chủ thể được pháp luật quy định mới được thực hiện quyền yêu
cầu, hoặc trưng cầu giám định.
- Hoạt động giám định SHTT do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện. Hoạt
động giám định SHTT có thể do một hoặc nhiều giám định viên SHTT thực
2

Khoản 1 Điều 201 Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11, được sửa đổi, bổ sung năm 2009


hiện. Giám định cá nhân là giám định do một giám định viên thực hiện. Giám
định tập thể là giám định do hai giám định viên trở lên thực hiện.
- Chủ thể giám định SHTT phải đáp ứng những điều kiện luật định mới được
thực hiện hoạt động giám định. Không phải người nào muốn giám định SHTT là có
thể thực hiện việc giám định và kết luận giám định được công nhận, mà người đó
cần phải đáp ứng được những điều kiện cụ thể về trình độ, chuyên môn, phải được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và cấp thẻ giám định, thì người đó mới
thực hiện được việc giám định và kết luận giám định mới có giá trị.
1.1.3. Phân loại
Có nhiều cách để phân loại hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ, tuy
nhiên có hai cách phổ biến để phân loại hoạt động này.
Phân loại theo đối tượng giám định bao gồm: Giám định quyền tác giả đối
với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; Giám định đối với quyền liên quan
đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình

phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá. Giám định đối với
quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố
trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ
dẫn địa lý; Giám định đối với quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng
và vật liệu nhân giống.
Phân loại hoạt động giám định theo chủ thể thực hiện giám định: Hoạt
động giám định của giám định viên; Hoạt động giám định của tổ chức giám định
SHTT; Hoạt động giám định của Viện khoa học SHTT.
1.1.4. Nội dung giám định về sở hữu trí tuệ
Theo quy định tại pháp luật thì việc giám định về SHTT là việc thực hiện
những nghiệp vụ chuyên môn cần thiết để đánh giá, kết luận về những nội dung
giám định sau:
Thứ nhất, xác định phạm vi bảo hộ của đối tượng SHTT (giám định tình
trạng bảo hộ).3 Mục đích của việc xác định phạm vi bảo hộ đối tượng SHTT là
3

Điểm a Khoản 1 Điều 39 Nghị định 119/2010/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản
lý nhà nước về sở hữu trí tuệ


kiểm tra căn cứ phát sinh, xác lập quyền SHTT và xác định giới hạn của quyền
SHTT đó. Nội dung cụ thể của việc giám định tình trạng bảo hộ gồm: Kiểm tra
tính hợp pháp của các giấy tờ, tài liệu, bằng chứng chứng minh căn cứ phát sinh,
xác lập quyền được bảo hộ đối tượng SHTT; Kết luận về việc có hay không có
quyền SHTT được xác lập đối với đối tượng được coi là đối tượng SHTT được
đề cập tới trong vụ việc giám định; Kiểm tra hiệu lực bảo hộ quyền SHTT được
phát sinh, xác lập; Xác định giới hạn nội dung trong (thuộc) phạm vi bảo hộ, cụ
thể là xác định bản chất của đối tượng được ghi nhận trong Văn bằng bảo hộ và
trong Đăng bạ quốc gia, hoặc quốc tế liên quan.

Thứ hai, xác định đối tượng được xem xét có đáp ứng các điều kiện để bị
coi là yếu tố xâm phạm quyền SHTT hay không (giám định yếu tố xâm phạm). 4
Mục đích của việc xác định này là thông qua việc đánh giá đối tượng được xem
xét có phải là có chứa đựng yếu tố xâm phạm hay không nhằm xác định một trong
các căn cứ quan trọng để kết luận một hành vi có liên quan đến đối tượng được
xem xét có phải là hành vi xâm phạm quyền đối với đối tượng SHTT hay không.
Nội dung cụ thể của việc giám định yếu tố xâm phạm bao gồm: Xác định
phạm vi bảo hộ của đối tượng SHTT (nội dung “Thứ nhất”); So sánh đối tượng
được xem xét với đối tượng được bảo hộ nhằm xác định có hay không sự trùng,
tương đương, tương tự, khó phân biệt, gây nhầm lẫn, sao chép giữa hai đối tượng
đó; Đánh giá các điều kiện khác; Kết luận đối tượng được xem xét có phải là có
chứa đựng yếu tố xâm phạm quyền được bảo hộ đối với đối tượng tương ứng
hay không hoặc có phải có chứa đựng yếu tố giả mạo hay không.
Thứ ba, xác định có hay không sự trùng, tương đương, tương tự, gây nhầm
lẫn, khó phân biệt, sao chép giữa đối tượng được xem xét và đối tượng được bảo
hộ (giám định tính tương tự).5 Mục đích của việc giám định này là thông qua
việc đánh giá mức độ tương tự về nội dung, hoặc bản chất giữa đối tượng được
4

Điểm b Khoản 1 Điều 39 Nghị định 119/2010/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản
lý nhà nước về sở hữu trí tuệ
5
Điểm c Khoản 1 Điều 39 Nghị định 119/2010/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản
lý nhà nước về sở hữu trí tuệ


xem xét và đối tượng được bảo hộ nhằm xác định một căn cứ quan trọng để kết
luận đối tượng được xem xét có nằm trong phạm vi bảo hộ của đối tượng được

bảo hộ hay không hoặc có phải là yếu tố xâm phạm quyền được bảo hộ hay
không.
Thứ tư, xác định giá trị quyền SHTT, xác định giá trị thiệt hại (giám định
giá trị).6 Mục đích của việc giám định giá trị là thông qua việc xác định giá trị
kinh tế của quyền SHTT đối với các đối tượng SHTT tương ứng, nhằm xác định
căn cứ để xác định giá trị thiệt hại do việc xâm phạm quyền SHTT đó gây ra.
Nội dung cụ thể của việc giám định giá trị bao gồm: Xác định phạm vi bảo
hộ của đối tượng SHTT (nội dung “Thứ nhất”); Xác định yếu tố xâm phạm (nội
dung “Thứ hai”); Xác định sản phẩm, hàng hóa xâm phạm; Xác định các yếu tố
cấu thành và ảnh hưởng tới giá trị quyền SHTT được giám định; Lựa chọn
phương pháp xác định giá trị và tính toán giá trị theo phương pháp đó; Xác định
các dạng tổn thất và giá trị tổn thất tương ứng; Tổng hợp giá trị thiệt hại.
1.1.5. Lĩnh vực giám định về sở hữu trí tuệ
Giám định về sở hữu trí tuệ gồm có ba lĩnh vực cơ bản:
Thứ nhất, Giám định về quyền tác giả và quyền liên quan;
Giám định quyền tác giả, quyền liên quan là việc tổ chức, cá nhan có thẩm
quyền sử dụng kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn đánh giá, kết luận về những vấn
đề có liên quan đến quyền tác giả, quyền liên quan theo yêu cầu của tổ chức, cá
nhân yêu cầu giám định.7 Lĩnh vực giám định về quyền tác giả, quyền liên quan
bao gồm các chuyên ngành: Giám định quyền tác giả đối với các tác phẩm văn
học, nghệ thuật và khoa học; Giám định quyền liên quan đối với các đối tượng
quyền liên quan.
Thứ hai, Giám định về quyền sở hữu công nghiệp (giám định SHCN); Giám
định SHCN là việc tổ chức, cá nhân có thẩm quyền sử dụng kiến thức, nghiệp vụ
chuyên môn để đánh giá, kết luận về những vấn đề có liên quan đến SHCN theo

6

Điểm d Khoản 1 Điều 39 Nghị định 119/2010/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản

lý nhà nước về sở hữu trí tuệ
7

Khoản 1 Điều 3 Thông tư 15/2012/TT-BVHTTDL Hướng dẫn hoạt động giám định quyền tác giả, quyền liên quan


yêu cầu của tổ chức, cá nhân yêu cầu giám định.8 Các chuyên ngành giám định
SHCN bao gồm: Giám định sáng chế và thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn;
Giám định kiểu dáng công nghiệp; Giám định nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý; Giám
định các quyền SHCN khác.
Thứ ba, Giám định về quyền đối với giống cây trồng: Tương tự hai lĩnh
vực giám định ở trên, thì giám định về quyền đối với giống cây trồng là việc tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền sử dụng kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn để đánh
giá, kết luận về những vấn đề có liên quan đến giống cây trồng theo yêu cầu của
tổ chức, cá nhân yêu cầu giám định.
1.1.6. Nguyên tắc giám định về sở hữu trí tuệ
Giám định SHTT là một dạng của giám định tư pháp. Do đó, khi thực hiện
hoạt động giám định về SHTT, đòi hỏi chủ thể thực hiện việc giám định phải
tuân thủ các nguyên tắc pháp luật giám định tư pháp, đó là:
− Tuân thủ pháp luật là việc các chủ thể trong quan hệ pháp luật giám
định SHTT thực hiện những quy phạm pháp luật mang tính chất ngăn cấm bằng
hành vi thụ động, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không làm những việc
mà pháp luật SHTT cấm.
− Trung thực, chính xác, khách quan tức trong hoạt động thực hiện giám
định SHTT các chủ thể luôn phải tôn trọng sự thật khách quan, không được để bất
cứ yếu tố chủ quan nào làm ảnh hưởng đến hoạt động của mình cũng như thực
hiện đúng theo chuyên môn, nghĩa vụ và thủ tục về giám định SHTT mà pháp luật
quy định.
− Chỉ kết luận về chuyên môn những vấn đề liên quan đến quyền SHTT
trong phạm vi được yêu cầu. Xuất phát từ đặc điểm hoạt động giám định SHTT

là hoạt động không bắt buộc và chỉ phát sinh khi có yêu cầu giám định, trưng cầu
giám định của chủ thể có quyền cho nên việc thực hiện hoạt động giám định chỉ
có thể trong phạm vi được yêu cầu.
− Chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả giám định tức chủ thể thực
hiện giám định SHTT phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi khi có hành vi vi
8

Khoản 1 Điều 201 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009


phạm pháp luật về SHTT. Trách nhiệm đó có thể là trách nhiệm dân sự hoặc
trách nhiệm hình sự tùy theo mức độ vi phạm của hành vi.
Các tư tưởng chỉ đạo của nguyên tắc mang tính chi phối, định hướng cho
mọi hoạt động trong giám định về SHTT, các nguyên tắc có ý nghĩa rất quan
trọng. Nó tạo cơ sở cho hoạt động sáng tạo, giải thích, hướng dẫn áp dụng quy
phạm pháp luật về giám định SHTT. Việc vi phạm các nguyên tắc trong giám
định SHTT có thể là căn cứ để hủy bỏ kết luận giám định và xác định vi phạm
trong giám định SHTT. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, việc tuân thủ mọi
nguyên tắc trong giám định SHTT là yêu cầu cần thiết và tất yếu.
1.2. So sánh giữa giám định tư pháp với giám định về sở hữu trí tuệ
1.2.1. Điểm giống nhau
- Chức năng và nhiệm vụ: Cả hai hoạt động giám định tư pháp và giám
định SHTT đều có chức năng và nhiệm vụ giống nhau, đều là hoạt động giám
định phục vụ cho hoạt động tố tụng mà trọng tâm là bảo đảm việc phán quyết
của toà án được kịp thời, khách quan, đúng pháp luật; tạo điều kiện cho các cá
nhân, tổ chức chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình, góp phần thực thi có hiệu quả chủ trương mở rộng dân chủ,
tăng cường tranh tụng tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp.
- Nghĩa vụ trả chi phí giám định: Sau khi hoạt động giám định kết thúc
đều phải trả phí giám định, người trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định

có trách nhiệm trả chi phí giám định cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định.
- Chế định dành cho người thực hiện giám định: Có chính sách tôn vinh
và đãi ngộ để thu hút chuyên gia giỏi tham gia hoạt động giám định, làm cơ sở
cho việc xây dựng, đào tạo đội ngũ giám định viên, người làm giám định cần có
trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp… Người giám định
phải sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ
để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan.
1.2.2. Điểm khác biệt
Thứ nhất là về chủ thể yêu cầu giám định. Chủ thể yêu cầu giám định tư
pháp có quyền yêu cầu giám định khi có vụ án thực tế xảy ra, để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, hoặc để tìm kiếm và thu thập chứng cứ có lợi cho mình.


Chủ thể yêu cầu giám định quyền SHTT rộng hơn giám định tư pháp, việc yêu cầu
giám định khi không có tranh chấp xảy ra thì người có quyền yêu cầu cũng có thể
yêu cầu giám định.
Thứ hai là về chủ thể trưng cầu giám định. Người trưng cầu giám định tư
pháp là Cơ quan tiến hành tố tụng và Người tiến hành tố tụng; còn Người trưng
cầu giám định SHTT là các Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, xử lý
xâm phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về SHTT.
Thứ ba là về chủ thể thực hiện giám định. Luật giám định tư pháp năm
2012 có quy định về giám định viên tư pháp, tổ chức giám định tư pháp, người
giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc. Còn
Pháp luật giám định về SHTT chỉ ghi nhận giám định viên SHTT và tổ chức
giám định SHTT.
Thứ tư về quy trình giám định. Các hoạt động giám định khác nhau sẽ có
quy trình thực hiện khác nhau, tùy thuộc vào các đối tượng giám định, việc giám
định sẽ diễn ra như thế nào. Về cơ bản, trình tự thực hiện ở các công đoạn giống
nhau, nhưng các bước thực hiện trong các công đoạn sẽ khác nhau. Hoạt động
giám định tư pháp bao gồm rất nhiều hoạt động giám định diễn ra trong tư pháp,

nên khó có thể đưa ra quy trình giám định chung được.
Thứ năm là về kết quả sử dụng hoạt động giám định. Kết quả sử dụng hoạt
động giám định tư pháp là giúp để giải quyết vụ án, phục vụ trong hoạt động tư
pháp theo trưng cầu giám định, giúp đương sự, người có liên quan trong vụ án có
thể yêu cầu giám định để thu thập chứng cứ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Còn kết quả sử dụng hoạt động giám định SHTT không bó hẹp trong hoạt
động tư pháp, mà còn để làm rõ, giải quyết vấn đề trong giao dịch giữa các bên, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu, tránh tình trạng trục lợi của các đối
tượng xấu…
Tóm lại, về cơ bản hoạt động giám định SHTT được quy định dựa trên
những quy định của hoạt động giám định tư pháp. Cũng giống như tên gọi, hoạt
động giám định tư pháp chủ yếu là phục vụ nhiều cho ngành tư pháp, giải quyết
các vụ án phức tạp, đòi hỏi cần có hoạt động giám định. Còn hoạt động giám


định SHTT phục vụ cho bất kỳ nhu cầu nào của chủ thể có quyền yêu cầu, trưng
cầu giám định, như: giải quyết tranh chấp, làm rõ những nghi vấn trong giao dịch
liên quan đến SHTT, thu thập chứng cứ để khiếu nại, tố cáo…
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về giám định sở hữu trí tuệ
1.3.1. Trước khi Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành
Trước khi Luật SHTT ra đời, Cục SHTT là cơ quan có chức năng giám
định SHTT đối với các vụ xâm phạm về SHTT. Tiền thân của Cục SHTT là Cục
sáng chế là đơn vị trực thuộc bộ máy của Ủy ban Khoa học và kỹ thuật nhà nước
theo Nghị định số 125/HĐBT về việc sửa đổi tổ chức bộ máy của ủy ban Khoa
học và Kỹ thuật Nhà nước với trách nhiệm giúp Chủ nhiệm ủy ban thực hiện
chức năng thống nhất quản lý hoạt động sáng kiến, sáng chế và công tác sở hữu
công nghiệp trong cả nước, bảo hộ pháp lý sáng chế và các đối tượng sở hữu
công nghiệp. Khi đó cục chưa có chức năng giám định SHTT.
Tới ngày 22/5/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 22-CP quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Khoa học, Công

nghệ và Môi trường. Theo đó, Cục Sáng chế được đổi tên thành Cục Sở hữu
công nghiệp. Khi đó, Nghị định số 12/1999/NĐ-CP Về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp được ban hành có xác định vai trò của
kết luận giám định của Cục SHTT, các cơ quan chức năng dựa vào đó để xử lý
những hành vi vi phạm. Chức năng này tiếp tục được khẳng định tại Nghị định
số 54/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy
của Bộ Khoa học và Công nghệ khi Cục sở hữu công nghiệp được đổi tên thành
Cục sở hữu trí tuệ. Theo đó Cục có quyền “thống nhất quản lý hoạt động đánh
giá, thẩm định, giám định, tư vấn và chuyển giao công nghệ”.9 Điều này cũng
được quy định tại Quyết định số 14/2004/QĐ-BKHCN ban hành Điều lệ Tổ
chức và Hoạt động của Cục Sở hữu trí tuệ.
Tuy nhiên, sau một thời gian, dư luận và các cơ quan hữu quan có ý kiến
về Cục SHTT chỉ nên là cơ quan xác lập văn bản. Việc giám định về SHTT nên
9

Điểm f Khoản 4 Điều 2 Nghị định số 54/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ
máy của Bộ Khoa học và Công nghệ


để cho các tổ chức, cá nhân nào đáp ứng đủ các điều kiện theo luật định thì được
phép hành nghề giám định về SHTT.
1.3.2. Sau khi Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành
Luật SHTT năm 2005 được ban hành, với Điều 201 quy định tổ chức,
doanh nghiệp hoặc cá nhân nào có đủ điều kiện thực hiện, thì được Nhà nước cấp
giấy phép hoạt động, cho thấy chức năng giám định SHTT được trao cho các tổ
chức, cá nhân độc lập mà không phải là Cục SHTT. Tức là, giám định SHTT cũng
như giám định SHTT không còn thuộc cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà giám
định SHTT được xem là một dịch vụ được thực hiện bởi các cá nhân và tổ chức
hành nghề được công nhận.
Theo đó, Nghị định số 105/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn

thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và
quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ được ban hành có quy định về giám định
SHTT. Vì vậy, Cục SHTT đã có Thông báo số 2543/TB-SHTT về việc dừng tiếp
nhận yêu cầu giám định SHTT. Kể từ 21/10/2006, Cục SHTT không còn là cơ
quan tiếp nhận các yêu cầu giám định nêu trên mà những công việc này sẽ do
Giám định viên hoặc Tổ chức giám định SHTT thực hiện. Sau đó, Nghị định số
105/2006/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 119/2010/NĐ-CP.
Ngày 15/7/2009, Viện Khoa học SHTT được phép hoạt động giám định SHTT,
đây là bước phát triển của giám định SHTT nói chung và giám định SHTT nói
riêng vì Viện Khoa học SHTT là tổ chức đầu tiên và duy nhất hiện nay có đủ
điều kiện hoạt động giám định về SHTT tại Việt Nam.
Hiện nay, mặc dù chưa có tổ chức giám định và giám định viên ở hai đối
tượng còn lại của SHTT, nhưng đã có văn bản pháp luật hướng dẫn về hai hoạt
động giám định này, đó là: Thông tư số 15/2012/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch hướng dẫn hoạt động giám định quyền tác giả, quyền liên
quan. Và Thông tư 16/2013/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và phát triển
Nông thôn hướng dẫn về bảo hộ quyền đối với giống cây trồng, có quy định về
giám định quyền đối với giống cây trồng. Chủ yếu các quy định trong thông tư


liên quan đến điều kiện của chủ thể thực hiện giám định, còn các quy định về chủ
thể yêu cầu giám định, thủ tục giám định và xử lý vi phạm chưa được đề cập đến
hoặc dẫn chiếu tới văn bản hướng dẫn khác có quy định.
1.4. Ý nghĩa của giám định về sở hữu trí tuệ
1.4.1. Trong việc giải quyết yêu cầu của các chủ thể có liên quan
Hoạt động giám định SHTT giúp cho các chủ thể sở hữu quyền SHTT được
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong quá trình khai thác, sử dụng đồng
thời ngăn chặn hành vi khai thác, sử dụng đối tượng SHTT mà không xin phép.
Việc thực hiện quyền yêu cầu, trưng cầu giám định chính là cơ chế tự bảo vệ mà
nhà nước quan tâm dành cho họ khi họ phát hiện có dấu hiệu xâm phạm quyền và

lợi ích của mình hoặc có tranh chấp về quyền lợi chính đáng của họ. Điều đó góp
phần khích lệ các chủ thể trong hoạt động nghiên cứu và sáng tạo cũng như tạo
dựng niềm tin của họ vào cơ quan nhà nước có thẩm quyền về tính chính xác,
công minh. Đối với chủ thể bị yêu cầu xử lý về hành vi xâm phạm hoặc khiếu nại
tố cáo về SHTT thì hoạt động yêu cầu giám định SHTT giúp họ chứng minh sự
trong sạch, tuân thủ pháp luật của mình, tránh sự xâm phạm đến quyền lợi của họ
một cách vô căn cứ.
Các thành quả sáng tạo trí tuệ luôn luôn là những sản phẩm có ý nghĩa
quan trọng đối với mọi thời đại, mọi hình thái xã hội và nhất là đối với chủ thể
sở hữu quyền SHTT. Nó góp phần tạo nên sự phát triển của xã hội nói chung.
Mặt khác, cơ chế bảo vệ quyền SHTT là một trong những điều kiện quan trọng
khuyến khích việc sáng tạo này càng nhiều hơn các sản phẩm mới đáp ứng nhu
cầu của xã hội. Chính vì vậy, giám định SHTT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với xã hội nói chung và đối với chủ thể sở hữu quyền SHTT nói riêng.
1.4.2. Trong hoạt động thực thi pháp luật về SHTT
Hoạt động giám định SHTT có ý nghĩa quyết định đến hiệu qủa và chất
lượng của hoạt động giải quyết tranh chấp. Nó giúp cho việc giải quyết tranh chấp
về SHTT được thực hiện nhanh chóng, chính xác và công bằng hơn. Thực hiện


việc giám định cũng là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên trong
tranh chấp, tránh tình trạng giải quyết thiếu vô tư, khách quan từ các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành giải quyết.
Giám định SHTT còn mang một ý nghĩa nhân văn sâu sắc, hướng hoạt
động giải quyết tranh chấp về SHTT theo cơ chế minh bạch. Giám định là kênh
quan trọng đánh giá trình độ phát triển của pháp luật và mức độ dân chủ của một
quốc gia.
Nhìn chung, sự vận hành và phát triển của nền kinh tế đất nước luôn tiềm
ẩn những hiện tượng trục lợi bất hợp pháp, nếu không có cơ chế kiểm soát, bảo
vệ thì các hiện tượng này sẽ là lực cản đối với sự phát triển của nền kinh tế. Bảo

vệ quyền SHTT chính là một trong những cơ chế kiểm soát hữu hiệu của cơ
quan nhà nước nhằm tạo điều kiện đảm bảo cho nền kinh tế phát triển trong môi
trường kinh doanh lành mạnh, có trật tự, công bằng, đúng định hướng. Chính vi
vậy, việc bảo vệ quyền SHTT mà trong đó có hoạt động giám định SHTT nhằm
thiết lập và duy trì sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
Kết luận chương I
Trên đây là những vấn đề khái quát chung về giám định SHTT. Trong đó,
việc nghiên cứu khái niệm giám định về SHTT cũng như các đặc điểm của hoạt
động này là cơ sở cho việc nghiên cứu các vấn đề pháp luật liên quan đến giám định
SHTT. Thông qua những phân tích nói trên có thể rút ra những kết luận sau đây:
1. Giám định về SHTT là việc tổ chức, cá nhân…sử dụng kiến thức, nghiệp
vụ chuyên môn để đánh giá, kết luận về những vấn đề có liên quan đến quyền sở
hữu trí tuệ. Trên cơ sở nghiên cứu khái quát về giám định SHTT, tác giả đã đưa ra
các đặc điểm, nội dung, lĩnh vực, nguyên tắc thực hiện và hệ quả pháp lý của việc
giám định SHTT.
2. Giám định SHTT được xây dựng trên cơ sở giám định tư pháp, tuy
nhiên không hề đồng nhất mà có những đặc thù riêng biệt. Xuất phát từ cơ sở đó


tác giả đã so sánh giữa hai hoạt động giám định này để làm sáng tỏ những điểm
đặc trưng của từng loại hoạt động giám định.
3. Giám định SHTT là hoạt động bổ trợ cho hoạt động giải quyết tranh
chấp về quyền SHTT cho nên hoạt động giám định SHTT có vai trò cũng như ý
nghĩa quan trọng nhất định đối với quá trình giải quyết vụ việc. Trong đó ý nghĩa
chủ yếu là quyết định đến hiệu qủa và chất lượng của hoạt động giải quyết tranh
chấp SHTT.
CHƯƠNG II
NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ
HOẠT ĐỘNG GIÁM ĐỊNH SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Hiện nay, nhu cầu về giám định SHTT phục vụ cho đời sống và hoạt động

kinh tế cũng như hoạt động quản lý nhà nước ngày càng cao. Với vai trò cốt yếu
đem lại tính hiệu quả trong giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền SHTT thì
đây là nhu cầu chính đáng của người dân cũng là nhu cầu cần thiết đối với công
tác quản lý nhà nước. Hoạt động giám định SHTT ra đời phần nào giúp cho các
giao dịch dân sự giữa các bên được đảm bảo, có được sự tin cậy để giao dịch
được thuận lợi, ngoài ra, hoạt động giám định này còn giúp hạn chế và ngăn
chặn những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường kinh doanh. Vì
vậy, chúng ta cần phải có những hiểu biết nhất định về pháp luật trong hoạt động
giám định SHTT.
2.1. Điều kiện thực hiện giám định về SHTT
Hoạt động thực hiện giám định SHTT là hoạt động có điều kiện, các chủ
thể có khả năng giám định SHTT không thể tự thân thực hiện hoạt động này mà
phải có và căn cứ vào yêu cầu, trưng cầu giám định theo quy định pháp luật của
chủ thể có quyền yêu cầu, trưng cầu giám định. Hay nói cách khác, yêu cầu,
trưng cầu giám định chính là cơ sở pháp lý để chủ thể giám định thực hiện giám
định về SHTT.
Với chủ thể có nhu cầu giám định là cá nhân, tổ chức bình thường thì yêu
cầu giám định được thực hiện trên cơ sở hợp đồng. Theo Khoản 1 Điều 46 Nghị


định 105/2006 /NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu
trí tuệ thì “Yêu cầu giám định phải lập thành hợp đồng (dịch vụ) giám định giữa
người yêu cầu giám định với tổ chức giám định hoặc với giám định viên.” Khi
chủ thể có quyền yêu cầu giám định SHTT đến nơi thực hiện hoạt động giám
định yêu cầu thì cần phải làm đơn (yêu cầu) giám định. Đơn (yêu cầu) giám định
sau khi được tiếp nhận sẽ được tổ chức giám định hoặc giám định viên xem xét
về mặt hình thức. Nếu đơn giám định đủ các điều kiện cần thiết được xem là đơn
hợp lệ, tổ chức giám định hoặc giám định viên sẽ thông báo cho người nộp đơn
để hai bên giao kết hợp đồng (dịch vụ) giám định. Hợp đồng giám định được làm

theo mẫu, có thể có các điều chỉnh phù hợp với từng đối tượng cụ thể và theo
thỏa thuận khác giữa các bên. Nội dung của hợp đồng giám định bao gồm tổng
hợp tất cả các điều khoản của hợp đồng, nhưng phải có các nội dung chủ yếu quy
định tại Khoản 2 Điều 46 Nghị định 105/2006/NĐ-CP.
Đối với chủ thể có nhu cầu giám định là Cơ quan nhà nước thì việc trưng
cầu giám định được thực hiện trên cơ sở văn bản trưng cầu giám định. Trưng cầu
giám định SHCN là quyền mà chỉ có Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý
hành vi vi phạm quyền SHTT khi giải quyết vụ việc mà mình đang thụ lý mới
có. Việc trưng cầu giám định theo Khoản 1 Điều 45 Nghị định 105/2006 /NĐCP phải lập thành văn bản. Văn bản trưng cầu giám định SHTT là quyết định
của cơ quan có thẩm quyền nhằm mục đích giao các tài liệu, chứng cứ, mẫu
vật,... cho người có chuyên môn giám định SHTT, qua đó kết luận về các vấn đề
cần giám định, làm cơ sở để giải quyết các vụ án. Hình thức của văn bản có thể
làm theo mẫu do pháp luật qu y định hoặc do cơ quan đó ban hành. Thông
thường, văn bản trưng cầu giám định SHTT sẽ được giao cho Viện Khoa học
SHTT để thực hiện chức năng giám định. Quyết định trưng cầu giám định có các
nội dung chủ yếu quy định tại Khoản 2 Điều 45 Nghị định 105/2006/NĐ-CP


hướng dẫn thi hành Luật SHTT. Quyết định trưng cầu giám định được xem là
hợp lệ ngày khi Viện khoa học SHTT tiếp nhận.
2.2. Chủ thể trong giám định về SHTT
2.2.1. Chủ thể yêu cầu giám định, trưng cầu giám định SHTT
Yêu cầu giám định, trưng cầu giám định SHTT là việc mà bên có nhu cầu
giám định muốn thực hiện việc giám định đối với đối tượng cần giám
định.Trong những năm gần đây, nhu cầu về giám định SHTT phục vụ cho đời
sống và các hoạt động kinh tế lẫn trong hoạt động quản lý nhà nước ngày càng
nhiều. Hoạt động giám định SHTT ra đời để phần nào giúp cho hoạt động giao
dịch dân sự giữa các bên được bảo đảm, có được sự tin cậy để giao dịch thuận
lợi. Ngoài ra, hoạt động giám định này còn giúp hạn chế và ngăn chặn những
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường kinh doanh. Vì vậy, chúng ta

cần phải có những hiểu biết nhất định về pháp luật trong hoạt động giám định
SHTT.
2.2.1.1. Chủ thể có quyền yêu cầu giám định SHTT
Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và tổ chức, cá nhân khác liên quan có quyền
yêu cầu giám định về SHTT để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chủ
thế có quyền yêu cầu giám định SHTT theo Khoản 2 Điều 40 Nghị định số
105/2006/NĐ-CP gồm:
a) Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ bao gồm tổ chức, cá nhân là người sáng
tạo ra hoặc sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả; quyền sở
hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng;
b) Tổ chức, cá nhân bị yêu cầu xử lý về hành vi xâm phạm hoặc bị khiếu
nại, tố cáo về sở hữu trí tuệ;
c) Tổ chức, cá nhân khác có quyền, lợi ích liên quan đến vụ tranh chấp,
xâm phạm, khiếu nại, tố cáo về sở hữu trí tuệ.
Thông thường, việc giám định theo yêu cầu của chủ thể quyền SHTT xảy ra
trong trường hợp phát hiện, nghi ngờ hoặc nhận thấy quyền SHTT của mình đang
có dấu hiệu bị xâm phạm. Chủ thể hợp pháp của quyền SHTT sẽ thực hiện việc
khiếu nại, tố cáo bên xâm phạm quyền của mình, để cho cơ quan có thẩm quyền


giải quyết trưng cầu giám định hoặc tự mình đi yêu cầu giám định để làm cơ sở
cho việc khiếu nại, tố cáo.
Về giao dịch dân sự mà liên quan đến quyền SHTT, để xác định một bên
có phải chủ sở hữu hoặc có phải là người được chủ sở hữu chuyển giao quyền
SHTT hay không; hoặc để xem xét đối tượng mà mình sắp sở hữu quyền không
trùng, tương tự, sao chép... của bất kỳ đối tượng SHTT nào hay không, hay là
còn thời gian bảo hộ không, có đang bị tranh chấp không; hoặc để giải quyết bất
kỳ nghi vấn nào trong giao dịch thì chủ thể quyền SHTT đó, có thể trực tiếp hoặc
gửi qua bưu điện đến nơi đang thực hiện việc giám định SHTT để thực hiện yêu
cầu giám định. Ngoài ra, chủ thể có quyền yêu cầu giám định cũng có thể ủy

quyền cho đối tác hay bất cứ người nào được phép ủy quyền thực hiện việc yêu
cầu giám định này.
Trường hợp khi một người nào đó phát hiện, nghi ngờ quyền SHTT mà
mình đang được bảo hộ bị xâm phạm, muốn khiếu nại, tố cáo người đã xâm
phạm quyền SHTT của mình, người này có thể thực hiện việc yêu cầu giám
định, kết luận giám định là bằng chứng khởi kiện người có hành vi xâm phạm
quyền. Tổ chức, cá nhân bị yêu cầu xử lý về hành vi xâm phạm hoặc bị khiếu
nại, tố cáo về SHTT cũng có thể thực hiện việc yêu cầu giám định nếu nghi ngờ
về kết luận giám định mà người khiếu nại, tố cáo mình chưa chính xác, khách
quan, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nếu có tổ chức, cá nhân
khác có quyền, lợi ích liên quan đến vụ tranh chấp, xâm phạm, khiếu nại, tố cáo
về SHTT đó, thì tổ chức, cá nhân này cũng có quyền yêu cầu giám định khi có
bất kỳ nghi vấn nào.
Quyền và nghĩa vụ của Người có quyền yêu cầu giám định SHTT
Quyền của người có quyền yêu cầu giám định SHTT được quy định tại
khoản 1 Điều 41 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật SHTT
thì bao gồm:
- Yêu cầu tổ chức giám định, giám định viên trả lời kết luận giám định
đúng nội dung và thời hạn yêu cầu. Kết luận giám định có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình giải quyết tranh chấp về SHTT. Yêu cầu chính xác và đúng hạn


đối với kết luận giám định là cơ sở giúp quá trình giải quyết vụ án rút ngắn hoặc
đúng thời hạn tố tụng cũng như kết quả giải quyết đảm bảo công bằng, khách
quan và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
- Yêu cầu tổ chức giám định, giám định viên giải thích kết luận giám định.
Kết luận giám định là văn bản phản ánh kết quả của hoạt động chuyên môn về
giám định do chuyên gia về giám định SHTT thực hiện. Thông thường người
yêu cầu, trưng cầu giám định không có đủ kiến thức chuyên môn hoặc không có
khả năng tư duy để hiểu được tình trạng pháp lý của đối tượng giám định mới

cần sử dụng giám định SHTT. Cho nên, kết luận giám định – văn bản chuyên
môn về giám định cũng khó trở nên dễ hiểu đối với những chủ thể này. Quyền
yêu cầu giải thích kết luận giám định là quyền năng hoàn toàn tất yếu và hợp lý.
- Yêu cầu giám định bổ sung khi kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng
về các nội dung cần giám định hoặc có phát sinh tình tiết mới cần làm rõ hoặc
giám định lại khi người trưng cầu, yêu cầu giám định không đồng ý với kết quả
giám định hoặc có mâu thuẫn giữa các kết luận giám định về cùng một vấn đề
cần giám định.10
- Thoả thuận mức phí giám định trong trường hợp yêu cầu giám định. Do
hoạt động giám định được thực hiện bởi tổ chức giám định có tư cách doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ giám định thu lợi nhuận. Khi chủ thể yêu cầu tổ chức
giám định thực hiện giám định SHTT tức đã xác lập một hợp đồng dịch vụ giám
định với tổ chức giám định. Và theo quy định của luật thương mại, bên yêu cầu
dịch vụ có quyền thỏa thuận mức phí giám định với bên cung ứng dịch vụ.
Nghĩa vụ của người yêu cầu giám định SHTT theo Khoản 2 Điều 41 Nghị
định 105/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật SHTT bao gồm:
- Cung cấp đầy đủ và trung thực các tài liệu, chứng cứ, thông tin liên
quan đến đối tượng giám định theo yêu cầu của tổ chức giám định, giám định
viên. Đây là nghĩa vụ cơ bản của người yêu cầu, trưng cầu giám định. Người yêu
cầu, trưng cầu giám định phải cung cấp đầy đủ và trung thực về các tài liệu,
10

Khoản 1, 2 Điều 50 Nghị định 105/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ


chứng cứ, thông tin liên quan đến đối tượng giám định để phục vụ cho quá trình
giám định diễn ra chính xác, khách quan. Người giám định yêu cầu cung cấp tài
liệu, thông tin gì thì người yêu cầu, trưng cầu giám định phải thực hiện, nếu
thiếu một tài liệu, chứng cứ hay thông tin quan trọng mà người yêu cầu, trưng

cầu giám định không cung cấp, hoặc cung cấp không trung thực, đầy đủ thì kết
luận giám định sẽ dẫn đến tình trạng không đúng, không chính xác.
- Trình bày rõ ràng, cụ thể những vấn đề thuộc nội dung cần trưng cầu, yêu
cầu giám định. Những vấn đề thuộc nội dung cần giám định, người yêu cầu, trưng
cầu giám định phải trình bày một cách trung thực, rõ ràng, cụ thể, không che dấu;
nếu trình bày một cách mơ hồ, không rõ ràng thì sẽ tạo ra khó khăn cho quá trình
giám định, bên giám định sẽ không giám định ra được kết quả chính xác.
- Thanh toán phí giám định theo thoả thuận; tạm ứng phí giám định khi có
yêu cầu của tổ chức giám định, giám định viên. Như đã đề cập, hoạt động yêu
cầu giám định xác lập một hợp đồng cung ứng dịch vụ giám định giữa người yêu
cầu, trưng cầu giám định với tố chức giám định SHTT. Cho nên, theo quy định
luật thương mại người yêu cầu dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán chi phí giám định
theo thỏa thuận cho người cung ứng dịch vụ. Nếu trong quá trình giám định, tổ
chức giám định, giám định viên cần một khoản phí để phục vụ giám định thì
người yêu cầu giám định phải tạm ứng phí khi có yêu cầu.
- Nhận lại đối tượng giám định khi có yêu cầu của tổ chức giám định,
giám định viên. Sau khi giám định xong và có yêu cầu nhận lại đối tượng giám
định của tổ chức giám định, giám định viên, thì người yêu cầu, trưng cầu giám
định phải thực hiện; hoặc trong trường hợp không thể giám định được đối tượng
giám định và có yêu cầu nhận lại đối tượng đó của tổ chức giám định, giám định
viên thì người yêu cầu, trưng cầu giám định phải nhận lại.
2.2.1.2. Chủ thể có quyền trưng cầu giám định SHTT
Quyền trưng cầu giám định là quyền của cơ quan bảo vệ quyền bằng biện
pháp hành chính yêu cầu tổ chức, giám định viên SHTT tiến hành nghiên cứu, có
kết luận vấn đề chuyên môn về tình trạng pháp lý của các đối tượng SHTT đang
được xem xét, tình trạng tương tự, trùng hoặc vi phạm phạm vi bảo hộ của các


đối tượng SHTT. Trưng cầu giám định là một trong những biện pháp được sử
dụng để giải quyết tranh chấp về SHTT mà các cơ quan tiến hành tố tụng được

phép áp dụng. Kết luận giám định là một trong những nguồn chứng cứ được sử
dụng để giải quyết vụ án.
Theo Khoản 4 Điều 201 Luật SHTT 2005 được sửa đổi, bổ sung 2009 thì:
“Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm quyền SHTT có quyền
trưng cầu giám định về SHTT khi giải quyết vụ việc mà mình đang thụ lý.” Cơ
quan có thẩm quyền trưng cầu giám định SHTT gồm các cơ quan có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp, xử lý xâm phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về SHTT
theo Khoản 1 Điều 200 Luật SHTT 2005 được sửa đổi, bổ sung 2009: Các cơ
quan Tòa án, Thanh tra, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an, Ủy ban nhân
dân các cấp.
Để có căn cứ trước khi ra quyết định thanh tra, kiểm tra hoặc trước khi ra
quyết định xử phạt, các cơ quan có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm, xâm
phạm quyền SHCN thường tiến hành việc trưng cầu giám định về SHTT. Mục
đích của việc trưng cầu này là để làm rõ tình trạng pháp lý của đối tượng SHTT
có liên quan. Sau đó, so sánh các đối tượng SHTT có dấu hiệu nghi ngờ vi phạm
với đối tượng SHTT đang được bảo hộ và phạm vi bảo hộ để làm căn cứ cho
việc đánh giá, kết luận về tình trạng có sự vi phạm, xâm phạm quyền hay không.
Người có quyền trưng cầu giám định có quyền và nghĩa vụ tương tự như
quyền và nghĩa vụ của người có quyền yêu cầu giám định theo quy định tại Điều
41 Nghị định 105/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật SHTT
2.2.2. Chủ thể thực hiện giám định về SHTT
Chủ thể thực hiện giám định về SHTT (Bên giám định) bao gồm giám
định viên và tổ chức giám định SHTT. Giám định viên có thể hoạt động độc lập
hoặc hoạt động trong một tổ chức giám định, ở mục này người viết chỉ đề cập
đến quy định của pháp luật về điều kiện để trở thành giám định viên và tổ chức
giám định; quyền và nghĩa vụ của giám định viên và tổ chức giám định.
2.2.2.1. Giám định viên


Điều kiện được công nhận và được cấp thẻ giám định viên SHTT được quy

định tại Khoản 12 Điều 1 Nghị định 119/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định
105/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí
tuệ: “Giám định viên sở hữu trí tuệ là người có đủ trình độ kiến thức, nghiệp vụ
chuyên môn để đánh giá, kết luận về những vấn đề có liên quan đến nội dung cần
giám định, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và cấp Thẻ giám
định viên sở hữu trí tuệ.”
Khi một cá nhân muốn trở thành giám định viên SHTT thì cần được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền công nhân và cấp Thẻ giám định viên để có tư
cách hành nghề. Để được công nhận và được cấp Thẻ giám định viên đòi hỏi chủ
thể phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Khoản 3 Điều 201 Luật SHTT 2005
được sửa đổi, bổ sung năm 2009 sau:
Thứ nhất, Cá nhân đó phải là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ. Công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam, có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của BLDS năm 2005.
Thứ hai, Phải thường trú tại Việt Nam, người đó phải có nơi sinh sống
thường xuyên, ổn định, không có thời hạn gia hạn tại Việt Nam và đăng ký
thường trú theo quy định pháp luật về nơi cư trú;
Thứ ba, Giám định viên cần phải có phẩm chất đạo đức tốt, có nghĩa là
không bị xử lý vi phạm hành chính do vi phạm pháp luật về SHTT hoặc về hành
vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp và không thuộc diện bị truy cứu trách nhiệm
hình sự hoặc đã bị kết án mà chưa được xoá án tích;
Thứ tư, Trình độ của giám định viên phải từ đại học trở lên về chuyên
ngành phù hợp với lĩnh vực đề nghị cấp thẻ giám định, đã qua thực tế hoạt động
chuyên môn trong lĩnh vực đó từ 05 (năm) năm trở lên và đạt yêu cầu kiểm tra
nghiệp vụ về giám định.
Quyền và nghĩa vụ của Giám định viên SHTT.
Với tư cách là chủ thể thực hiện giám định SHTT thì giám đinh viên có
các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật như sau:



Thứ nhất, về quyền thì Giám định viên có các quyền quy định tại Khoản
12 Điều 1 Nghị định 119/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định
105/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ
như sau:
- Có thể hoạt động trong 1 tổ chức giám định SHTT dưới danh nghĩa của
tổ chức đó hoặc hoạt động độc lập. Giám định viên có quyền thành lập văn
phòng hoạt động độc lập hoặc hoạt động trong một tổ chức giám định, giám định
viên có quyền lấy danh nghĩa là đang hoạt động của tổ chức giám định đó.
- Từ chối giám định trong trường hợp tài liệu liên quan không đủ hoặc
không có giá trị để đưa ra kết luận giám định.
Căn cứ vào việc người yêu cầu, trưng cầu giám định không cung cấp đầy
đủ các tài liệu liên quan cần thiết để thực hiện hoạt động giám định; hoặc cung
cấp những tài liệu không có giá trị khi Giám định viên yêu cầu thì Giám định
viên có quyền từ chối giám định, vì trong trường hợp này sẽ tạo ra khó khăn cho
quá trình thực hiện và đưa ra kết luận giám định. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể
của bản thân người giám định có quyền quyết định nhận hoặc không nhận yêu
cầu, trưng cầu giám định. Như vậy, trong nhiều trường hợp, người giám định có
quyền thực hiện quyền từ chối tham gia vào hoạt động giám định, khi xét thấy
các điều kiện không đảm bảo để đưa ra một kết luận giám định chính xác và
không đáp ứng được đầy đủ nội dung của bên yêu cầu đưa ra. Sau khi xem xét
tài liệu và các nội dung của bên yêu cầu cung cấp, người giám định cần phải cân
nhắc xem xét trong khả năng chuyên môn của mình có thể hoàn thành tốt được
công việc giám định hay không.
- Sử dụng kết quả thẩm định hoặc kết luận chuyên môn, ý kiến chuyên gia
phục vụ việc giám định;
Khi được cung cấp các kết quả thẩm định, kết luận chuyên môn, giám
định viên có quyền sử dụng để phục vụ cho việc giám định; trong quá trình thực
hiện giám định khi xét thấy cần thiết, giám định viên có quyền xin ý kiến

chuyên gia về hoạt động giám định của mình. Quyền này được quy định để hỗ


×