Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Đề cương môn Đường lối của ĐCSVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.44 KB, 33 trang )

Câu 1: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1921 đến 1930?
Sự thất bại của phong trào yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong
kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Sau nhiều năm bôn ba hải ngoại tìm đường
cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đọc được Bản sơ thảo lần thứ nhất Luận cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo - cơ quan
Trung ương của Đảng Cộng sản Pháp. Người vui mừng đến phát khóc lên và
muốn nói to lên như đang nói trước đông đảo quần chúng: “Hỡi đồng bào bị đọa
đày đau khổ ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
chúng ta” . Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Từ đó Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn tin vào Lênin,
tin vào Quốc tế thứ ba. Người từng nói: “ Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ
nghĩa Lê Nin”.
Từ năm 1921, Người tích cực học tập, nghiên cứu và truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lê Nin về Việt Nam nhằm chuẩn bị tiền đề về tư tưởng, chính trị, tổ
chức cho sự ra đời của chính đảng. Vai trò của NAQ đối với sự nghiệp cách
mạng của nước nhà được thể hiện rõ nhất ở các mặt sau:


Thứ nhất, về tư tưởng, thông qua 2 tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp
(1925) và Đường kách mệnh(1927) Người đã vạch trần tội ác của thực dân
Pháp nói riêng và chủ nghĩa thực dân nói chung, thức tỉnh tinh thần dân tộc;
đồng thời tuyên truyền chủ nghĩa Mác , kêu gọi các dân tộc thuộc địa đoàn kết
để cùng chống lại kẻ thù chung và kêu gọi sự đoàn kết giữa thuộc địa với thuộc
địa, giữa thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc. NAQ khẳng định; Muốn
thắng lợi thì cách mạng phải có 1 lãnh đạo, Đảng có vững mạnh,CM mới thành
công,các dân tộc thuộc địa muốn giải phóng dân tộc phải đi theo con đường
cách mạng vô sản.
Thứ hai, về chính trị, sau khi tìm được con đường cứu nước, NAQ tích cực


tham gia hội nghị, diễn đàn, viết báo,tham gia phong trào công nhân để tuyên
truyền về vấn đề dân tộc,thuộc địa; đồng thời tiếp tục nghiên cứu về chủ nghĩa
Mác-Lenin.
Năm 1922: NAQ sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari để đoàn kết các lực
lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân và thông qua tổ chức này để đem
chủ nghĩa Mác – Lênin đến với với các dân tộc thuộc địa. Hội quyết định sáng
lập ra tờ báo sáng lập ra tờ báo Người cùng khổ, tờ báo Người cùng khổ do
Nguyễn Ái Quốc chủ biên kiêm chủ bút đã vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột
dã man của Chủ nghĩa đế quốc nói chung và đế quốc Pháp nói riêng, đồng thời
thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải phóng.
Năm 1923-1924: NAQ sang Liên Xô tham dự 1 số hội nghị như Hội nghị Quốc
tế nông dân, Đại hội Quốc tế cộng sản, Đại hội của Công hội Đỏ,...


Năm 1927, tác phẩm Đường kách mệnh do Người tập hợp từ những bài giảng
đào tạo cán bộ ở Quảng Châu đã vạch ra phương hướng cơ bản về chiến lược và
sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Chỉ ra bản chất của chủ
nghĩa thực dân và xác định CNTD là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa,
của GCCN và nhân dân lao động trên thế giới. Mục tiêu của cách mạng là đem
độc lập tự do cho nhân dân; tính chất và nhiệm vụ của cách mạng VN là cách
mạng giải phóng dân tộc, cách mạng GPDT có thể giành thắng lợi trước CMVS
chính quốc sau đó tiến lên xã hội cộng sản. Đồng thời nhấn mạnh cách mạng là
sự nghiệp của toàn dân, cách mạng VN là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Thứ ba, về tổ chức, Người đến Quảng Châu để xúc tiến thành lập chính đảng
mác xít vào năm 1924.Tháng 6/1925, NAQ cải tổ tổ chức Tâm Tâm xã để
thành lập nên Hội VN Cách mạng thanh niên, tiền thân của ĐCSVN. Sau đó,
NAQ cùng với 1 số người yêu nước ở Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ,...thành
lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông vào 7/1925.
1925-1927: NAQ mở các lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu để truyền bá
chủ nghĩa Mác-Lenin và chuẩn bị cán bộ cho CMVN. Các bài giảng của

Nguyễn Ái Quốc về sau được tập hợp trong cuốn Đường cách mệnh (1927).
Đây là tài liệu nhằm chuẩn bị cho những người yêu nước Việt Nam những quan
điểm cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam.


Đến đầu 1929 Hội VNCMTN đã có cơ sở hầu khắp cả nước rồi các tổ chức
đoàn thể quần chúng của Hội cũng lần lượt ra đời. Đặc biệt phong trào vô sản
hóa của Hội từ 1928 trở đi đã góp phần thực hiện việc kết hợp chủ nghĩa Mác –
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thúc đẩy nhanh tiến
trình hình thành Đảng cộng sản ở Việt Nam. Đến giữa 1929 nhu cầu thành lập
tổ chức cộng sản chín muồi, Tân Việt cách mạng đảng có sự phân hóa và
chuyển mình theo khuynh hướng cộng sản.
Thứ Tư, Nguyễn Ái Quốc là người có công lao to lớn trong việc thành lập
Đảng cộng sản Việt Nam. Sự xuất hiện của 3 tổ chức cộng sản vào 1929 ở Việt
Nam lúc bấy giờ là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhưng vì cả 3
tổ chức đều hoạt động riêng lẻ, công kích lẫn nhau, tranh giành địa bàn lẫn nhau
nên đã gây trở ngại lớn cho phong trào cách mạng. Vì vậy, yêu cầu bức thiết của
cách mạng Việt Nam lúc này là phải có một Đảng cộng sản thống nhất trong cả
nước để lãnh đạo cách mạng. Đúng vào thời điểm khó khăn phức tạp đó, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện như một vị cứu tinh của cách mạng và phong trào
cộng sản Việt Nam. Được sự ủy nhiệm của Quốc tế cộng sản Nguyễn Ái Quốc
đã triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng duy nhất ở
Việt Nam lấy tên là ĐCS VN. Đồng thời thông qua Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ tóm tắt của Đảng do Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo. Bản Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng khẳng
định Đảng Cộng sản Việt Nam “ là đội tiên phong của vô sản giai cấp”. Đảng
chủ trương tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản”.



Như vậy, có thể nói rằng công lao của Nguyễn Ái Quốc đối với cách
mạng Việt Nam là rất lớn, nhất là giai đoạn trước năm 1930. Nguyễn Ái Quốc
là người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc – con đường cách
mạng vô sản; tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào nước ta nhằm
chuẩn bị mọi mặt về tư tưởng chính trị cho việc thành lập chính đảng vô sản ở
Việt Nam, đặc biệt chính Người đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản ở Việt Nam để thành lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời xác định
đúng đắn đường lối cách mạng, thể hiện trong Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng do Người khởi thảo. Đó
được xem là cương lĩnh cách mạng đúng đắn của Đảng có tác dụng chỉ đạo
xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Câu 2: CMR những phong trào yêu nước cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 gặp
sự khủng hoảng và bế tắc.
Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các Hiệp
ước Ácmăng (Harmand) năm 1883 và Patơnốt (Patenôtre) năm 1884, đầu hàng
thực dân Pháp, song phong trào chống thực dân Pháp xâm lược vẫn diễn ra. Tuy
nhiên, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư
sản ở Việt Nam cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu
cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng
một cách sâu sắc về đường lối cứu nước thực chất là thiếu một giai cấp tiên tiến
lãnh đạo.


Phong trào Cần Vương (1885-1896), một phong trào đấu tranh vũ trang
do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, đã mở cuộc tiến công trại lính
Pháp ở cạnh kinh thành Huế (1885). Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa
Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc dù sau đó

Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở Bắc Kỳ
và Bắc Trung Kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và
Đinh Công Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892)
và Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885-1895). Cùng thời gian này còn nổ ra
cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến
năm 1913. Phong trào Cần Vương bị thất bại vì giai cấp địa chủ phong kiến đã
thối nát, phần lớn đã đầu hàng thực dân Pháp, lại áp bức bóc lột nhân dân một
cách thậm tệ. Cho nên ngọn cờ Cần Vương không thể tập hợp được quần chúng
nhân dân, chủ yếu là nông dân. Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự
bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập
dân tộc do lịch sử đặt ra.
Cuộc khởi nghĩa của nông dân do cụ Hoàng Hoa Thám lãnh đạo bị thất bại vì
không có đường lối, chính sách rõ ràng, không tổ chức được quần chúng đông
đảo, cách đánh chưa tốt, vũ khí lại thiếu thốn….
Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ
yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước
theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Điều đó chẳng khác gì “Đưa hổ cửa
trước, rước beo cửa sau”.
Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng cao
dân khí, phát triển kinh tế theo hướng TBCN trong khuôn khổ hợp pháp, không
chủ trương đánh đổ thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai. Chẳng khác gì
“xin giặc rủ lòng thương”.


Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX
không thể tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh
giải phóng của dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt.
Ngoài ra còn kể đến một số phong trào khác như Phong trào yêu nước dân chủ
công khai (1925-1926) của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra

nhiều tổ chức chính trị như: Việt Nam Nghĩa đoàn, Phục Việt (1925), Hưng
Nam, Thanh niên cao vọng (1926); thành lập nhiều nhà xuất bản như Nam
Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư (Huế);
ra nhiều báo chí tiến bộ như Chuông rạn (La Cloche fêlée), Người nhà quê (Le
Nhaque), An Nam trẻ (La jeune Annam)... Có nhiều phong trào đấu tranh chính
trị gây tiếng vang khá lớn như đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy
điệu và để tang Phan Châu Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An
Ninh (1926. Tuy nhiên, càng về sau, cùng sự thay đổi của điều kiện lịch sử,
phong trào trên đây ngày càng bị phân hoá mạnh. Có bộ phận đi sâu hơn nữa
vào khuynh hướng chính trị tư sản (như Nam Đồng thư xã), có bộ phận chuyển
dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản (tiêu biểu là Phục Việt, Hưng Nam).
Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra đời
và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Cội nguồn Đảng này
là Nam Đồng thư xã, lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn
Khắc Nhu và Phó Đức Chính. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của
khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa
chủ và cả hạ sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp.


Về tư tưởng, Việt Nam quốc dân Đảng mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của
Tôn Trung Sơn. Về chính trị, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương đánh đuổi đế
quốc, xóa bỏ chế độ vua quan, thành lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ có một
đường lối chính trị cụ thể, rõ ràng. Về tổ chức, Việt Nam quốc dân Đảng chủ
trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở, nhưng cũng chưa bao giờ có
một hệ thống tổ chức thống nhất.
Ngày 9-2-1929, một số đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng ám sát tên trùm
mộ phu Badanh (Bazin) tại Hà Nội. Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố phong
trào yêu nước. Việt Nam Quốc dân Đảng bị tổn thất nặng nề nhất. Trong tình
thế hết sức bị động, các lãnh tụ của Đảng quyết định dốc toàn bộ lực lượng vào
một trận chiến đấu cuối cùng với tư tưởng “không thành công cũng thành

nhân”.
Những phong trào yêu nước trên lần lượt bị thất bại vì không có đường lối đúng
đắn. Các nhà lãnh đạo những phong trào ấy đều không phân biệt thực dân Pháp
với giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp; chưa nhận rõ được nhiệm vụ
của cách mạng Việt Nam là phải đánh đổ đế quốc Pháp, giành lại độc lập và
đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, mang lại ruộng đất cho dân cày; thiếu tổ
chức chính trị có khả năng đưa cách mạng tiến tới thành công (thiếu chính đảng
đủ sức lãnh đạo); chưa nhận rõ lực lượng đông đảo nhất trong nhân dân là nông
dân v.v…


Phong trào yêu nước lúc bấy giờ lâm vào khủng hoảng và bế tắc về
đường lối. Yêu cầu được đặt ra là phải tìm một đường lối đấu tranh đúng đắn,
cần một chính đảng đủ sức lãnh đạo cách mạng VN. Mặc dù thất bại nhưng các
phong trào yêu nước đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân
dân ta, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc
đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí thức có khuynh hướng dân
chủ tư sản chọn lựa một con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng
dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu mới của nhân dân Việt Nam.
Câu 3: So sánh điểm giống và khác nhau giữa Luận cương chính trị của
Trần Phú và Chính cương vắn tắt do HCM soạn thảo.
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một tất yếu của lịch sử, là một bước
ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Để xác lập đường lối, chiến lược, sách
lược cơ bản của cách mạng Việt Nam và tôn chỉ mục đích, nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam, tại hội nghị thành lập Đảng từ ngày
3/2/1930 đến ngày 7/2/1930 ở Hương Cảng – Trung Quốc, các đại biểu đã nhất
trí thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược văn tắt và Chương trình tóm tắt do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Tiếp theo đó, vào tháng 10.1930 cũng tại Hương
Cảng-Trung Quốc Ban chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất đã
thông qua Luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú soạn thảo.

Chính cương vắn tắt và Luận cương chính trị là những văn kiện thể hiện
đường lối cách mạng của Đảng ta. Hai văn kiện trên được xây dựng trên cơ sở
lý luận và cơ sở thực tiễn, xác định rõ phương hướng chiến lược, nhiệm vụ cụ
thể và cơ bản, lực lượng cách mạng, phương pháp cách mạng, đoàn kết quốc tế
và vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong mỗi khía cạnh trên đều thể hiện rõ sự giống
và khác nhau giữa hai văn kiện.
Chính cương vắn tắt và Luận cương chính trị có những điểm giống nhau sau:


Về mục đích và đường lối chiến lược, cả hai đều chủ trương đưa cách mạng
phát triển qua 2 giai đoạn: cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng XHCN.
Về nhiệm vụ chiến lược, giai đoạn đầu (CMTSDQ) là đánh đổ đế quốc và
phong kiến làm cho VN được độc lập, nhân dân được tự do, đưa ruộng đất cho
dân cày nghèo.
Về lực lượng cách mạng, chủ yếu là công nhân và nông dân. Đây là hai lực
lượng nòng cốt và cơ bản đông đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc
giải phóng dân tộc nước ta.
Về giai cấp lãnh đạo, cả 2 đều khẳng định GCVS là giai cấp lãnh đạo thông
qua chính đảng là ĐCSVN (Chính cương) hoặc ĐCSĐD (Luận cương).
Về phương pháp cách mạng, sử dụng bạo lực cách mạng tức là phải sử dụng
sức mạnh của nhân dân.
Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông Dương là một bộ
phận khăng khít với cách mạng thế giới đã thể hiện sự mở rộng quan hệ bên
ngoài, tìm đồng minh cho mình.
Sự giống nhau trên là do cả hai văn kiện đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin
và cách mạng vô sản chiụ ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại
năm 1917.
Bên cạnh những điểm giống nhau, hai cương lĩnh trên có một số điểm khác sau:



Một là, xác định kẻ thù và nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng: Trong Chính
cương vắn tắt xác định kẻ thù, nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ giặc Pháp
sau đó mới đánh đổ phong kiến và tay sai phản cách mạng( nhiệm vụ dân tộc và
dân chủ). Nhiệm vụ dân tộc được coi là nhiệm vụ trọng đại của cách mạng,
nhiệm vụ dân chủ cũng dựa vào vấn đề dân tộc để giải quyết. Như vậy mục tiêu
của Chính cương xác định: làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được
tự do, dân chủ, bình đẳng, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc Việt gian chia cho
dân cày nghèo, thành lập chính phủ công nông binh và tổ chức cho quân đội
công nông, thi hành chính sách tự do dân chủ bình đẳng phổ thông giáo dục
theo hướng công nông hóa. Trong Luận cương chính trị thì xác định phải “tranh
đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư
bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Nghĩa là, Luận cương
chưa xác định được kẻ thù, nhiệm vụ hàng đầu ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến nên không nêu cao vấn đề dân tộc lên hàng đầu đó là nêu cao vấn đề đấu
tranh giai cấp, vấn đề cách mạng ruộng đất.


Hai là, về lực lượng cách mạng: Chính cương xác định lực lượng cách mạng là
giai cấp công nhân và nông dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên minh đoàn
kết với tiểu tư sản, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và
tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng. Như vậy, ngoài việc xác định lực
lượng nòng cốt của cách mạng là giai cấp công nhân thì cương lĩnh cũng phát
huy được sức mạnh của cả khối đoàn kết dân tộc, hướng vào nhiệm vụ hàng đầu
là giải phóng dân tộc. Với Luận cương thì xác định giai cấp vô sản và nông dân
là hai động lực chính của cách mạng mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp
vô sản là đông lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nông dân có
số lượng đông đảo nhất, là một động lực mạnh của cách mạng, còn những giai
cấp và tầng lớp khác ngoài công nông như tư sản thương nghiệp thì đứng về
phía đế quốc chống cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc

gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Điều đó
cho thấy ta chưa phát huy được khối đoàn kết dân tộc, chưa đánh giá đúng khả
năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc và phong kiến
ở mức độ nhất định của tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu
địa chủ tham gia mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc và tay sai.


Tóm lại, Luận cương đã thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những
quan điểm chủ yếu của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt,
xác định được nhiệm vụ nòng cốt của cách mạng. Tuy nhiên, Luận cương cũng
có những mặt hạn chế nhất định: Sử dụng một cách dập khuôn máy móc chủ
nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, còn quá nhấn mạnh đấu tranh giai
cấp. Còn Chính cương đã vạch ra phương hương cơ bản của cách mạng nước ta,
phát triển từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Chính cương thể hiện sự vận dụng đúng đắn sáng tạo, nhạy bén chủ nghĩa MácLênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thực
tiễn cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới,
đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử. Hai cương lĩnh trên cùng với sự thống
nhất về tổ chức có ý nghĩa hết sức to lớn cùng với sự ra đời của Đảng ta, là sự
chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy
vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta.
Câu 4: Đảng đã giải quyết mối quan hệ dân tộc, dân chủ như thế nào giai
đoạn 1930-1941?


Từ khi bị Pháp xâm chiếm, Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Với đặc trưng của một nước tư bản chủ nghĩa, Pháp trong cả hai lần
khai thác thuộc địa đã áp dụng chính sách độc quyền - chia để trị. Chúng chia
nước ta làm ba xứ để cai trị : Bắc kì - Trung kì và Nam kì. Giữa thực dân Pháp
và phong kiến Việt Nam có sự cấu kết chặt chẽ với nhau. Pháp dựa vào phong

kiến để lấy cơ sở đàn áp nhân dân, còn phong kiến Việt Nam lại nhờ vào Pháp
để duy trì địa vị của mình. Những hình thức áp bức, bóc lột tàn nhẫn, dã man
của phong kiến chẳng những không được xoá bỏ mà còn bị thực dân Pháp lợi
dụng để bóc lột, áp bức nhân dân Việt Nam nặng nề thêm. Nguyên nhân đó là
dẫn đến sự mâu thuẫn gay gắt giữa nhân dân VN và TD Pháp, giữa nông dân và
phong kiến. Nhiệm vụ cấp bách là phải giải quyết 2 mâu thuẫn trên. Vấn đề dân
tộc dân chủ được đặt ra.


Thông qua quá trình tìm tòi, học hỏi và khảo cứu tình trạng nước ngoài
kết hợp với việc phân tích tình hình trong nước, đến ngày 3-2-1930 tại Hương
Cảng, Trung Quốc. Nguyễn Ái Quốc đã thành lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam
và đề ra “Chính cươngvắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt; tất cả hợp
thành Cuong lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.” Trong đó Người nêu ra cách
mạng Việt Nam phải trải qua 2 giai đoạn: cách mạng tư sản dân quyền và cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn đó kế tiếp nhau, không có bức tường nào
ngăn cách. Như vậy ngay từ đầu Người đã thông suốt con đường phát triển tất
yếu của cách mạng nước ta là con đường kết hợp giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và xã hội chủ nghĩa. Như vậy mục tiêu đó cho thấy tính chất của cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đó là cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân- một cuộc cách mạng của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân,
giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản dân tộc, do giai cấp công nhân lãnh đạo, dựa
trên cơ sở liên minh công nông, nhằm mục đích đánh đổ đế quốc, phong kiền,
giải phóng dân tộc, thực hiện người cày có ruộng đất, lập nên nước Việt Nam
dân chủ công hoà, tức nhà nước dân chủ nhân dân, mà tạo điều kiện cho nhà
nước Việt Nam không qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên xã hội chủ
nghĩa. Và một cuộc cách mạng như thế người ta gọi là cuộc cách mạng dân tộc,
dân chủ nhân dân. Tiến hành cuộc cách mạng dân tộc chính là tiến tới đánh đuổi
đế quốc thực dân làm cho nước nhà hoàn toàn độc lập. Còn giải quyết nhiệm vụ
dân chủ chình là đánh đổ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nhân dân. Đó là

nhiệm vụ cơ bản và xuyên suốt của cách mạng Việt Nam nhưng không phải lúc
nào cũng diễn ra cùng một lúc. Tuỳ từng thời kỳ, từng giai đoạn mà vận dụng
hợp lý. Vậy hai nhiệm vụ đó được thực hiện như thế nào và thực hiện đến đâu
đi từng vào giai đoạn cụ thể sẽ sáng rõ.


Trong nhiều văn kiện của Đảng từ năm 1930 đến 1935, đặc biệt là trong Hội
nghị lần thứ nhất BCHTƯ (10-1930) do Trần Phú chủ trì, thông qua Luận
cương chính trị, Đảng khẳng định: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân
quyền là phải đánh đổ các thế lực phong kiến, ách áp bức bóc lột theo lối tư
bản; thực hiện cách mạng ruộng đất và đánh đổ đế quốc Pháp làm cho Đông
Dương hoàn toàn độc lập. Đường lối này có hạn chế là chưa chỉ ra được mâu
thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc địa, chưa đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu, nặng về vấn đề giai cấp.
Mới ra đời chưa lâu, Đảng đã phát động được phong trào cách mạng rộng lớn
mà đỉnh cao là Xô Viết – Nghệ Tĩnh. Giữa lúc phong trào lên cao, cuối năm
1931, Pháp đã thi hành chính sách Khủng bố trắng làm cho lực lượng cách
mạng Việt Nam tổn thất nặng nề. Hàng ngàn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn người
yêu nước bị bắt, giết hoặc tù đày, các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương
và lần lượt các địa phương bị phá vỡ, toàn bộ Ban Chấp hành Trung ương bị
bắt. Do đó phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống. Tuy bị quân địch khủng
bố ác liệt nhưng nhờ tinh thần và nghị lực phi thường được rèn luyện qua thực
tiễn đấu tranh cách mạng trong những năm 1930 -1931, Đảng và quần chúng đã
vượt qua khó khăn thử thách, từng bước khôi phục tổ chức đảng và phong trào
cách mạng.
Đầu năm 1932 Quốc tế cộng sản chỉ thị Lê Hồng Phong cùng một số đồng chí
chủ chốt ở trong và ngoài nước tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng.
tháng 6 – 1932, Ban lãnh đạo Trung ương đã công bố Chương trình hành động
của Đảng cộng sản Đông Dương



Đảng chuẩn bị cho cuộc võ trang bạo động thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc,
chống phong kiến và tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo quần chúng
đấu tranh giành những quyền lợi hàng ngày, rồi đưa quần chúng tiến lên đấu
tranh cho những mục tiêu chính trị cao hơn.
Chương trình hành động còn đề ra những yêu cầu cụ thể cho từng giai cấp và
tầng lớp nhân dân, vạch rõ phải ra sức tuyên truyền mở rộng ảnh hưởng của
Đảng trong quần chúng.
Nhũng yêu cầu chính trị trước mắt cùng với những biện pháp tổ chức và đấu
tranh do Đảng vạch ra trong Chương trình hành động năm 1932 phù hợp với
điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. Nhờ vậy, phong trào cách mạng của quàn chúng
và hệ thống tổ chức Đảng nhanh chóng được phục hồi
Tháng 3 – 1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao – Trung
Quốc đã khẳng định thắng lợi của cuộc đấu tranh khôi phục phong trào cách
mạng và hệ thống tổ chức Đảng. Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ trước mắt đó là :
củng cố và phát triển Đảng, đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng, mở
rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, ủng hộ
cách mạng Trung Quốc…


Năm 1936, tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến động, đòi hỏi Đảng
phải có sự chuyển hướng lãnh đạo về chính trị, tổ chức và đấu tranh. Thời gian
này Đảng cũng đặt vấn đề nhận thức lại ảnh hưởng của yếu tố dân tộc trong
cách mạng thuộc địa, quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và
phản phong trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền. Trong văn kiện Chung
quanh vấn đề chiến sách mới công bố tháng 10-1936, Đảng nêu rõ: “Cuộc dân
tộc giải phóng không nhất định kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là
không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền
địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có
chỗ không xác đáng. Vì rằng tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc, nếu việc tranh

đấu chống đế quốc là cần kíp, còn vấn đề giải quyết điền địa tuy quan trọng
nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc thì có thể trước đánh đổ đế quốc rồi sau giải
quyết vấn đề điền địa...”.
Đến đây, Đảng đã có chuyển hướng, có nhận thức mới về cách mạng tư sản dân
quyền, về nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, biết đặt nhiệm vụ cấp bách
lên hàng đầu. Đây là quan điểm đúng đắn, phù hợp với tư tưởng chiến lược
trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo. Thực tiễn cách
mạng VN đã chứng minh tính đúng đắn sáng tạo trong Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo. Đồng thời qua thực tiễn đấu tranh, Đảng ta đã
có những đổi mới trong chủ trương, đường lối cách mạng, những nhược điểm
mang tính tả khuynh, giáo điều trước đây dần được các hội nghị BCHTƯ khắc
phục.


Đầu tháng 9-1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Ở Đông Dương,
thực dân Pháp thi hành chính sách hết sức phản động cả về kinh tế và chính trị.
Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc xâm lược và bọn tay sai đã phát
triển đến đỉnh điểm, đòi hỏi phải được giải quyết. Vấn đề độc lập dân tộc được
đặt ra một cách cấp bách. Trước tình hình đó, Đảng đã có sự thay đổi chiến
lược. Tháng 11-1939, Hội nghị lần thứ VI quyết định thay đổi chiến lược cách
mạng: “Cách mệnh phản đế và cách mệnh điền địa là hai cái mấu chốt của cách
mệnh tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh điền địa thì không
giải quyết được cách mệnh phản đế. Trái lại, không giải quyết được cách mệnh
phản đế thì không giải quyết được cách mệnh điền địa. Cái nguyên tắc chính ấy
không bao giờ thay đổi được, nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế
nào để thực hiện được nhiệm vụ cốt yếu của cách mệnh là đánh đổ đế quốc”.
Như vậy, thực chất của sự thay đổi chiến lược là nêu cao ngọn cờ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu. Còn về dân chủ thì chủ trương tạm gác khẩu hiệu ruộng
đất, chỉ đề ra chính sách chống địa tô cao, cho vay nặng lãi và tịch thu ruộng đất
của đế quốc, địa chủ phản bội dân tộc chia cho dân cày.

Đặc biệt Hội nghị lần thứ VIII (5-1941) do Hồ Chí Minh chủ trì đã hoàn chỉnh
quá trình thay đổi chiến lược cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương, nhấn
mạnh: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư
sản dân quyền..., mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp: dân
tộc giải phóng...”(13).


Hội nghị Trung ương VIII cũng tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng
đất cho dân cày” thay vào đó là “tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc Việt gian
chia cho dân cày nghèo”, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm địa tô,
giảm tức. Quyết định này đánh dấu sự trưởng thành về tư duy chính trị, năng
lực lãnh đạo và chỉ đạo chiến lược, là sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng đã
được xác định từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Hồ Chí Minh soạn
thảo.
Chủ trương mới của Đảng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn
đề dân tộc và dân chủ, xác định mục tiêu trước mắt của CM. Từ đó đề ra các
hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt, thích hợp hướng dẫn quần chúng đấu
tranh giành chính quyền, chuẩn bị về tư tưởng, đường lối giải phóng dân tộc
đúng đắn có ý nghĩa quyết định đến thành công của cách mạng sau này.
Câu 5: CMR : Sau CMT8 tình cảnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Sau thành công của cách mạng tháng Tám nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà ra đời. Ngay từ khi ra đời, nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn: miền
Bắc 20 vạn quân Tưởng lấy cớ là giải giáp quân đội Nhật tiến vào nước ta, phía
Nam được sự hậu thuẫn Anh thực dân Pháp âm mưu xâm lược trở lại nước ta,
trong khi tình hình đất nước nạn đói, nạn đốt… Trước những khó khăn này có
thể nói rằng: “Vận mệnh nước ta như ngàn cân treo sợi tóc”.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, chính quyền cách mạng được
xây dựng từ trung ương xuống địa phương với mặt trận Việt Minh lấy cơ sở
công nông làm cốt và được nhân dân tin yêu hết sức bảo vệ. Có sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng và Hồ Chủ tịch bằng uy tín và tài năng của mình đã phát

huy được tinh thần đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên chúng ta gặp phải khó khăn to
lớn hơn nhiều.


Về ngoại giao, chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước
ta kể cả Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa làm cho chúng ta cô lập với thế
giới, không thể tranh thủ được sự ủng hộ của quốc tế. Chính quyền non trẻ thiếu
kiến thức và trình độ quản lý. Trong khi đó,lực lượng phản động trong nước và
quốc tế ráo riết chống phá cách mạng. Theo quy định của hiệp định Postdam,
cuối tháng 8 đầu tháng 9 từ vĩ tuyến 16: Miền Bắc 20 vạn quân Tưởng lấy cớ
giải giáp quân Nhật tiến vào nước ta theo con đường Móng Cái, Lào Cai, đằng
sau Tưởng là đế quốc Mỹ với âm mưu đặt Đông Dương dưới chế độ uỷ trị.
Theo sau quân Tưởng là tổ chức Việt gian phản động Việt Quốc, Việt Cách về
chống phá cách mạng, Việt Quốc, Việt Cách lập chính quyền ở Móng Cái,
Hồng Gai, Lào Cai; Lực lượng quân Tưởng vào Việt Nam thực hiện âm mưu lật
đổ chính quyền cách mạng thành lập chính quyền tay sai nguy cơ rất lớn đe doạ
nền độc lập của nước ta.
Đầu tháng 9 năm 1945 ở phía Nam có khoảng 1 vạn quân Anh vào rải rác quân
đội Nhật đã đồng loã với thực dân Pháp xâm lược nước ta. Ngày 23-9-1945
thực dân Pháp được sự giúp đỡ của Anh xâm lược trở lại nước ta. Ngoài ra ta
còn có 6 vạn quân Nhật đang chờ rải rác sẵn sàng thực hiện theo lệnh của
Tưởng và Anh chống phá cách mạng của ta. Ở Việt Nam có các lực lượng thân
Pháp cũng nổi lên chống phá cách mạng hết sức quyết liệt, lôi kéo nhân dân
chia rẽ dân tộc tôn giáo. Mặc dù đế quốc mâu thuẫn nhau về quyền lợi nhưng
chúng đều thống nhất ở mục tiêu diệt cách mạng Đông Dương bóp chết chính
quyền non trẻ ngay trong thời kỳ còn trứng nước.
Về quân sự, lực lượng quân đội chưa có đủ thời gian và điều kiện phát triển lực
lượng vũ trang và quân đội chính quy. Sau cách mạng tháng 8 lực lượng quân
đội chính quy của ta chỉ có khoảng 5 nghìn người với vũ khí thô sơ.



Tài chính-kinh tế, chính sách cai trị khắc nghiệt của thực dân Pháp và phát xít
Nhật đã để lại hậu quả hết sức nặng nề: Ruộng đất hoang hoá, công thương
nghiệp đình đốn, công nhân không có việc làm, hàng hoá khan hiếm. Nhân dân
ta vừa trải qua nạn đói 1945 thì nguy cơ nạn đói mới đe doạ, sản xuất nông
nghiệp chưa được phục hồi. Năm 1946 lại xảy ra hạn hán đe doạ đời sống nhân
dân. Tài chính cạn kiệt, ngân khố chống rỗng, thuế chưa thu được.
Về văn hoá xã hội: Do chính sách ngu dân của thực dân Pháp nên sau cách
mạng nước ta có hơn 95% dân số mù chữ, đồng thời tàn dư của chế độ cũ hết
sức lỗi thời các hủ tục lạc hậu diễn ra phổ biến.
Như vậy, sau cách mạng tháng 8 đất nước ta, dân tộc ta đứng trước tình
thế vô cùng hiểm nghèo, ta vừa giành được chính quyền lại đứng trước nguy cơ
mất chính quyền, vận mệnh dân tộc chẳng khác nào: “Ngàn cân treo sợi tóc”.
Giữ vững chính quyền là điều không tưởng nhưng bằng tài năng sáng suốt Đảng
đã lạnh đạo nhân dân vượt qua những khó khăn này.
Câu 6: Sự vận dụng chủ trương “ Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Đảng
trong giai đoạn 1945-1946.
Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh ẩn chứa
sự uyên thâm, tinh tế của một nhà hiền triết. Tư tưởng được vận dụng có hiệu
quả trong giai đoạn 1945-1946 và trở thành phương châm hành động, là phương
pháp luận, là cẩm nang cho Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
VN.
Dĩ bất biến ứng vạn biến là một triết lý, lấy cái bất biến (không thay đổi)
mà ứng phó với cái vạn biến (cái luôn thay đổi). Ý nghĩa triết lý trên là ở chỗ dù
mọi sự vật hiện tượng phong phú, đa dạng, thay đổi khôn lường nhưng đều xoay
quanh trục của nó, đó là bản thể, cái gốc. “Dĩ bất biến” là cái dĩ nhiên, là quy


luật tất yếu trên con đường phát triển của một xã hội, là lập trường kiên định
của toàn thể dân tộc Việt Nam yêu hòa bình, quyết tâm giữ vững nền độc lập

dân tộc mới giành được sau gần một thế kỷ đấu tranh. “Dĩ bất biến” là cái vốn
có của truyền thống dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước, là con
đường cách mạng đã chọn không thể biến đổi khác được, nhưng quá trình thực
hiện để đi đến thành công phải biết “ứng vạn biến”. "Ứng vạn biến” không có
nghĩa là thay đổi đường lối, thay đổi nền tảng tư tưởng mà là phải tìm ra các
giải pháp phù hợp nhất trong từng giai đoạn cách mạng, ít tổn thất nhất mà vẫn
đạt được hiệu quả cao. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, chỉ một lời ngắn gọn nhưng
hàm chứa cả một sách lược tài tình về phương châm giữ vững chính quyền cách
mạng.
Mục tiêu chiến lược là bất di bất dịch; nhưng tùy hoàn cảnh cụ thể ở trong nước
và quốc tế, tùy từng giai đoạn lịch sử mà đề ra những sách lược uyển chuyển,
phù hợp. Không giải phóng dân tộc, không giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc
thì mục đích giải phóng giai cấp sao thực hiện được. Ngược lại, không đi tới
chủ nghĩa xã hội cũng không có nhân tố đảm bảo vững chắc và triệt để cho độc
lập dân tộc. Để giành lấy độc lập dân tộc, Người chủ trương phải làm cách
mạng cho đến nơi, đến chốn, thành công rồi giao chính quyền vào tay nhân dân,
đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. Đảng cách mạng do Người sáng
lập; Chính cương, Sách lược và Chương trình hành động của Đảng do Người
soạn thảo đều nhằm hết vào mục đích ấy. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh điều
đó.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước ta đứng trước thực trạng
“ngàn cân treo sợi tóc”: nạn đói hoành hành, tài chính kiệt quệ, ngân khố rỗng
không, chính quyền còn non trẻ lại phải cùng một lúc đương đầu với thù trong,
giặc ngoài. Đứng trước tình hình khó khăn của đất nước, ngày 25-11-1945
Trung ương Đảng ra bản chỉ thị “ Kháng chiến, kiến quốc”. Bản chỉ thị nêu rõ: “
Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lăng, phải tập trung ngọn lửa


đấu tranh vào chúng”.


Nhiệm vụ của Đảng toàn dân ta là phải củng cố chính

quyền, chống thực dân Pháp, bài trừ nội phản cải thiện đời sống nhân dân”.
Song, muốn đảm bảo thắng lợi của công cuộc chống thù trong giặc ngoài, trước
hết phải củng cố chính quyền nhân dân làm cho cho chính quyền của ta từ trên
xuống dưới thật sự là của nhân dân và được toàn dân ủng hộ.

Để có bộ máy

chính quyền thật sự là đại diện chân chính của của nhân dân, trước tiên phải tiến
hành cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, lập một Ban dự thảo hiến pháp và cử ra
Chính phủ chính thứccủa nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà, đứng đầu là Hồ
Chủ tịch. Là đại diện chân chính duy nhất của toàn dân, Quốc hội và Chính phủ
Việt Nam dân chủ Cộng hoà sẽ phát huy đầy đủ vai trò của mình trong việc lãnh
đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Đảng và Nhà nước
phát động các phong trào tăng gia sản xuất với khẩu hiệu: tăng gia sản xuất
ngay, tăng gia sản xuất nữa, tấc đất tấc vàng; phát động phong trào hũ gạo cứu
đói, hũ gạo tiết kiệm; phát động tuần lễ vàng, xây dựng Quỹ độc lập (quyên góp
được 370kg vàng và 20 triệu đồng tiền quỹ độc lập); tháng 11/1946 tiền Việt
Nam có in hình chủ tịch Hồ Chí Minh được lưu hành trên toàn quốc. Về ngoại
giao, thực hiện chiến lược ngoại giao mềm dẻo, nhân nhượng có nguyên tắc.
Đối với Tưởng thì “Hoa-Việt thân thiện”; đối với Pháp thì nhân nhượng về kinh
tế, dộc lập về chính trị.
Nhận rõ mâu thuẫn giữa hai tập đoàn đế quốc Anh - Pháp và Mỹ - Tưởng trong
vấn đề Đông Dương và căn cứ vào âm mưu và hành động cụ thể của từng tên
đối với chính quyền cách mạng, Đảng và Bác chủ trương thực hiện sách lược
hòa với Tưởng để kháng chiến chống Pháp. Về phía ta, đồng ý nhường cho
chúng 72 ghế trong Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đây là giải pháp thêm bạn bớt thù có lợi cho cách mạng, là sự “ứng vạn biến”
trong tình thế đất nước đang lâm nguy, là sự tích lũy dần dần về “lượng” để đạt

đến “bước nhảy” đưa đất nước thoát khỏi vòng vây của kẻ thù, tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Sau đó lại tạm hòa với Pháp để đuổi Tưởng ra khỏi miển Bắc. Còn


lại kẻ thù chính là thực dân Pháp, Hồ chủ tịch lại ra sách lược “hoà để tiến”
bằng Hiệp định sơ bộ ngày 06/ 3/ 1946 và sau đó là Tạm ước ngày 11/ 9/ 1946,
đã tạo thời gian quí báu cho chính quyền cách mạng củng cố lực lượng chuẩn bị
cho cuộc kháng chiến lâu dài với thực dân Pháp. Hiệp định sơ bộ là một chủ
trương đúng đắn, sáng tạo “Một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lêninít về lợi
dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về nhân nhượng có nguyên tắc”.
Như vậy, với những sách lược ngoại giao tài tình, sáng suốt Hồ Chí Minh đã lèo
lái con thuyền cách mạng vượt qua được bão tố phản cách mạng của năm 1946,
đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên giành thắng lợi mới.
Và sau ngày ta giành chính quyền về tay nhân dân, một bộ phận đáng kể trong
tầng lớp trung gian, tầng lớp trên, tầng lớp trí thức còn chưa hiểu và e ngại
Đảng Cộng sản. Để thu phục nhân tâm, đoàn kết toàn dân, tháng 11 năm 1945
Đảng ta tuyên bố "tự giải tán", nhưng sự thật là Đảng rút vào hoạt động bí mật.
Và dù là bí mật, Đảng vẫn lãnh đạo chính quyền và nhân dân. Đó là cái “bất
biến” trong cái “vạn biến”.
Bằng triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” với tinh thần yêu nước nồng
nàn, lòng dũng cảm, kiên cường, bất khuất của nhân dân ta, dưới sự chỉ đạo tài
tình, sáng suốt của Đảng - Nhà nước, chúng ta đã giành thắng lợi hoàn toàn
trong quá trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc.
Câu 7: Phân tích phương châm kháng chiến chống Pháp.
Cuối năm 1946, sau một thời gian hòa hoãn tạm thời, thực dân Pháp bắt
đầu tỏ ra khiêu khích chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa một cách không
che đậy. Sự nhẫn nhịn của chính phủ và nhân dân ta trước hàng loạt những vụ
nổ súng vô cớ của quân Pháp càng làm chúng thêm hung hăng hơn. Đến cao
trào là ngày 18, 19 tháng 12 năm 1946, chúng gửi tối hậu thư cho chính phủ ta
đe dọa đảo chính thì chúng ta không thể nhân nhượng thêm nữa. Đúng 20 giờ

ngày 19-12-1946, theo lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn quốc bước


×