Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

đề cương môn đường lối cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.68 KB, 37 trang )

Đề cương môn đường lối ĐCS VN câu 1-2-3-4-5-9-10-11-12-15-16-17
Hạnh Min làm và sưu tầm. chúc các tình yêu thi tốt!
www.taichinh2a.com
Câu 1:
Trình bày tác động của việc thực dân Pháp xâm lược thống trị ở Việt Nam tới
kinh tế xã hội hồi cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX?
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang giai đoạn độc
quyền và nhu cầu về thuộc địa càng trở nên cấp thiết đối với tất cả các nước đế
quốc. Bằng ưu thế của các nước có nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển sớm, đế
quốc Pháp (cũng như Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan…) đã nhanh chóng
thôn tính nhiều vùng đất làm thuộc địa cho mình.
Nhìn lại xã hội Việt Nam trước khi trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, chúng ta
thấy nổi lên một số đặc điểm chủ yếu như:
Thứ nhất, nền kinh tế tự nhiên (tự cấp, tự túc) chiếm địa vị chi phối toàn bộ hoạt
động của nền kinh tế.
Thứ hai, giai cấp thống trị duy nhất lúc đó là vua và địa chủ phong kiến (lực lượng
chiếm hữu đại bộ phận ruộng đất trong xã hội). Giai cấp nông dân hầu như không
có ruộng đất (chủ yếu là làm thuê cho địa chủ hoặc lĩnh canh). Ngoài hai giai cấp
cơ bản đó xã hội Việt Nam lúc này đã có sự manh nha của những giai cấp mới như:
địa chủ tư sản hoá hoặc nông dân, thợ thủ công mất việc (trở thành bộ phận đầu
tiên của giai cấp vô sản).
Thứ ba, quyền lực nhà nước tập trung trong tay vua, quan lại phong kiến và hệ
thống bộ máy trấn áp nhân dân. Quyền chiếm hữu ruộng đất và bóc lột địa tô hoàn
toàn do địa chủ, cường hào trực tiếp nắm giữ.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, cùng với sự xâm lược của thực dân Pháp thì quan hệ sản
xuất TBCN cũng xâm nhập và dần làm biến đổi xã hội Việt Nam. Từ một nước
phong kiến nước ta trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến.
So với xã hội phong kiến, đặc điểm chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc này là:
1. Quan hệ sản xuất TBCN đã xâm nhập vào, kinh tế hàng hoá và kinh tế tiền tệ
được mở rộng, từng bước đẩy lùi và thu hẹp phạm vi của nền kinh tế tự cấp, tự túc.
Một nền kinh tế không hoàn toàn là phong kiến cũng không hoàn toàn là TBCN,


đó là nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến. Để bóc lột, vơ vét nguồn lợi từ thuộc
địa, Pháp thực hiện một chính sách kinh tế thực dân rất bảo thủ và phản động:
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
“Duy trì phương thức sản xuất phong kiến kết hợp với việc thiết lập một cách hạn
chế phương thức sản xuất TBCN” ( 1 ).
2. Do sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của quan hệ sản xuất TBCN và chính sách
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp mà nền sản xuất trong nước đã có những
biến đổi sâu sắc. Một số nghành công nghiệp đã ra đời như khai thác mỏ, giao
thông vận tải…Quan hệ ruộng đất cũng không còn giữ nguyên được hiện trạng và
hình thức bóc lột đặc thù vốn có của nó.
Sự phân hoá rõ rệt và sâu sắc trong xã hội đã tạo nên một cơ cấu giai cấp mới.
Ngoài giai cấp địa chủ và nông dân, bắt đầu xuất hiện các giai cấp khác là công
nhân, tư sản, tiểu tư sản thành thị, thậm chí trong giai cấp nông dân còn phân hoá
thành phú nông, trung nông và bần nông.
3. Trong thời kỳ phong kiến, bộ máy nhà nước trong xã hội Việt Nam do giai cấp
địa chủ độc quyền nắm giữ. Sau khi thực dân Pháp xâm lược, quyền lực nhà nước
chuyển sang tay bọn tư bản nước ngoài, chúng trực tiếp nắm bộ máy quân sự, hành
chính và tư pháp. Mọi quyền hành đều ở trong tay quan lại thống trị từ Toàn quyền
đến Thống sứ, Khâm sứ, Thống đốc, Công sứ …Viên chức thuộc địa là loại người
ăn bám, là gánh nặng trên lưng nhân dân Việt Nam. Hãy xem một phép so sánh
của Nguyễn Ái Quốc trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”: Ở Ấn Độ
thuộc Anh, dân số là 325 triệu người, có 4.898 viên chức người Âu. Ở Đông
Dương thuộc Pháp, dân số 15 triệu người, có 4.300 viên chức người Âu ” ( 2 ).
Với những đặc tính riêng trong bản chất đế quốc của mình, thực dân Pháp đã tạo
nên một cơ sở xã hội làm chỗ dựa cho hệ thống cai trị thuộc địa bao gồm giai cấp
địa chủ phong kiến và tầng lớp tư sản mại bản. Chúng biến bộ máy cai trị của giai
cấp phong kiến thành hệ thống tay sai giúp chúng bóc lột và đàn áp nhân dân.
4. Trước đây, ở nước ta phương thức sản xuất phong kiến giữ địa vị thống trị thì
lúc này đặc điểm đó không còn có thể duy trì được nữa trước sự mở rộng của kinh
tế hàng hoá, tiền tệ và của ngành giao thông vận tải.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong lúc tiếp tục đối phó với hàng loạt cuộc khởi
nghĩa và đấu tranh yêu nước của các tầng lớp nhân dân Việt Nam, thực dân Pháp
đã bắt đầu triển khai chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Kết quả là một
số yếu tố của thành phần kinh tế TBCN (như Ngân hàng Đông Dương, các công ty
khai thác mỏ, một số đồn điền, hãng buôn, xí nghiệp và mạng lưới giao thông
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
đường sắt, đường bộ…) đã xuất hiện. Nói đúng hơn là những thành phần này được
ghép từ ngoài vào xã hội Việt Nam cổ truyền trong điều kiện vẫn bảo tồn ở một
mức độ đáng kể những tàn dư của phương thức sản xuất phong kiến, ( thể hiện rõ
nhất là sự bảo tồn chế độ ruộng công cùng các thiết chế thượng tầng phù hợp với
nó trong các cộng đồng làng xã).
Thủ đoạn của thực dân Pháp ở Việt Nam là vẫn tiếp tục sử dụng giai cấp địa chủ
phong kiến làm chỗ dựa cho nền thống trị của chúng. Vì thế, chúng tìm mọi cách
để duy trì và cho phép phát triển mạnh thêm thành phần kinh tế của giai cấp này.
Câu 2:
Vai trò của Hồ Chí Minh trong việc chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức
cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam?
A,Truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê Nin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng
chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng:
- Ngày 5 - 6 - 1911, từ cảng Nhà Rồng, Nguyễn Ái Quốc làm phụ bếp trên tàu Đô
đốc Trêvin và bắt đầu cuộc hành trình vạn dặm, hòa mình vào cuộc sống lao động
Pháp để tìm đường cứu nước. Từ 1911 đến 1917, Người đã đến nhà nước châu Âu,
châu Phi và châu Mĩ. Cuối năm 1917, Người trở lại Pháp sau 8 năm bôn ba và gia
nhập Đảng Xã hội Pháp vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp theo đuổi lí tưởng của
Đại Cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng và Bác ái.
- Ngày 18 - 6 - 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn
Tất Thành với tên gọi là Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Véc-xai Bản yêu sách
của nhân dân An Nam. Bản yêu sách đòi chính phủ Pháp và các nước đồng minh
thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của nhân dân An Nam.
- Bản yêu sách đó đã không được Hội nghi Véc-xai chấp nhận. Sự thật đó cho thấy

những lời tuyên bố của các nhà chính trị đế quốc về quyền tự do dân chủ và quyền
tự quyết của các dân tộc mà điển hình là chương trình 14 điểm của Tổng thống Mĩ
Uyn-xơn chỉ là trò bịp để lừa các dân tộc. Vì vậy, muốn được giải phóng, các dân
tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình.
- Giữa năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê-Nin đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội
Pháp, Luận cương của Lê-Nin đã giúp Nguyễn Ái Quốc khẳng định muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc thì phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
- Ngày 25 - 12 - 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng Xã hội Pháp họp tại thành phố Tua. Người đã đứng về phía đa số đại biểu bỏ
phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
Nguyễn Ái Quốc trở thành người đảng viên cộng sản Pháp, đồng thời là một trong
những người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
Từ đây, Nguyễn Ái Quốc càng tích cực hoạt động và tiếp tục học tập. Nghiên cứu
lí luận về con đường cách mạng thuộc địa để truyền bá vào Việt Nam.
- Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của An-giê-ri, Ma-rốc, Tuy-ni-di,
Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa ở Pa-ri để đoàn kết các
lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân. Cơ quan ngôn luận của Hội là báo
Người cùng khổ (1922) do Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Người còn viết
nhiều bài cho các báo Nhân đạo (của Đảng Cộng sản Pháp), Đời sống công nhân
(của Tổng Liên đoàn lao động Pháp), và đặc biệt là cuốn Bản án chế độ thực dân
Pháp. Các sách báo nói trên được bí mật chuyển về Việt Nam đã góp phần thúc
đẩy phong trào dân tộc trong nước phát triển mạnh mẽ hơn.
- Tháng 6 - 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời nước Pháp sang Liên Xô dự Hội
nghị Quốc tế Nông dân ( 10 - 1923 ) và được bầu vào Ban chấp hành Hội. Người ở
lại Liên Xô, vừa nghiên cứu, học tập, viết bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản
Liên Xô, tạp chí Thư tín Quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội Quốc tế Cộng
sản lần thứ V ( 1924 ), Nguyễn Ái Quốc trình bày lập trường quan điểm của mình
về vị trí chiến lược của cách mạng các nước thuộc địa, về mối quan hệ giữa phong

trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc
địa, về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa.
- Ngày 11 - 11 - 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) để trực
tiếp đào tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng, truyền bá lí luận cách mạng giải
phóng dân tộc vào Việt Nam. Sự chuyển biến về kinh tế, xã hội và giai cấp ở Việt
Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp đã tạo sẵn điều kiện để Chủ nghĩa xã
hội chỉ còn phải làm cái việc gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi.
- Khi đến Quảng Châu (Trung Quốc), Người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng
Việt Nam đang hoạt động ở đây và chọn một số thanh niên hăng hái trong tổ chức
Tâm tâm xã, mở các lớp huấn luyện chính trị ngắn hạn để đào tạo họ thành cán bộ
cách mạng đưa về nước hoạt động. Các bài giảng của Người được tập hợp lại và in
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
thành cuốn Đường cách mệnh, hàm chứa những vấn đề cơ bản trong đường lối
chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
- Tháng 6 - 1925, Người sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và lấy Cộng
sản đoàn làm nòng cốt. Đây là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nhờ hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên, phong trào cách mạng ở trong nước ngày càng phát triển sôi nổi, khuynh
hướng các mạng vô sản dần dần chiếm ưu thế trong phong trào dân tộc. Đến năm
1929, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã xây dựng cơ sở ở khắp ba kì.
Những hoạt động của Người từ 1911 đến 1929 có tác dụng quyết định trong việc
chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và đạo đức cho việc thành lập chính đảng của giai
cấp vô sản Việt Nam.
b. Thống nhất phong trào cộng sản, sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam:
- Sau một thời gian dài hoạt động có hiệu quả, tổ chức Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên dần dần mất vai trò lịch sử. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách
mạng trong nước đòi hỏi phải có một đảng cách mạng tiên phong đủ sức lãnh đạo
và đưa phong trào tiếp tục tiến lên. Để đáp ứng nhu cầu đó, từ giữa đến cuối năm
1929, ở Việt Nam đã lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng
sản đảng, An Nam Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn.

- Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản nói trên đánh dấu sự phát triển vượt bậc của
phong trào cách mạng nước ta. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, các tổ chức
này đã đả kích lẫn nhau, làm giảm uy tín của các tổ chức cộng sản và gây ảnh
hưởng tiêu cực đến phong trào cách mạng đang lên.
- Từ 3 - 2 đến 7 - 2 - 1930, Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị để hợp nhất các tổ
chức cộng sản tại Hương Cảng (Trung Quốc). Người chủ trì hội nghị và đã phân
tích những hoạt động bè phái, chia rẽ của ba tổ chức cộng sản và tác hại của nó. Do
yêu cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam và uy tín đức độ của Người nên đã đã
thống nhất được các tổ chức cộng sản. Hội nghị nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng
sản Việt Nam thành đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã
vạch ra đường lối, phương hướng cơ bản cho cách mạng Việt Nam (đây chính là
bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam).
=> Hai thập niên đầu thể kỉ XX, với những hoạt động cứu nước, Nguyễn Ái Quốc
đã truyền bá chủ nghĩa Mác-LêNin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng chính trị
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
và tổ chức cho việc thành lập Đảng. Đồng thời, Người đã thành công trong việc
hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 3: Trình bày nội dung cơ bản của chính cương và sách lược vắn tắt được
Hội Nghị thành lập ĐCS VN (3/2/1930) thông qua? Cho biết ý nghĩa của
cương lĩnh này?
1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng như: chánh cương
vắn tắt của Đảng, sách lược vắn tắt của Đảng, chương trình tóm tắt của Đảng,
hợp thành cương lĩnh chính trị đầu tien của Đảng cộng sản Việt Nam.
Những vấn đề cơ bản của cương lĩnh:
- Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng:
+ Về chính trị: Đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước Việt Nam

hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông.
+ Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn (công
nghiệp, vận tải, ngân hàng…) của đế quốc pháp để giao cho chín phủ công nông
binh quản lý, tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của
công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công
nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.
+ Về văn hoá xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền, phổ
thông giáo dục theo công nông hoá.
- Về lực lượng cách mạng: công nhân và nông dân là lực lượng cơ bản, là gốc;
đồng thời phải mở rộng rãi hơn các lực lượng khác đó là: tư sản vừa và nhỏ,
trung tiểu địa chủ.
- Về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam.
- Xác định mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế
giới: cách mạng Việt Nam là một bộ phận cấu thành của cách mạng thế giới,
phải tranh thủ cách mạng thế giới.
2. ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng cộng sản Việt Nam và cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng.
- Sự ra đời của Đảng đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam
đủ sức đảm đương sứ mạng lịch sử của mình lãnh đạo cách mạng Việt Nam
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
- Định hình ra được quy luật ra đời và phát triển của Đảng cộng sản ở nước ta:
Kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước dẫn tới sự ra đời cua Đảng.
- Đảng có cương lĩnh chính trị là bước vận dụng sáng tạo học thuyết chủ nghĩa
Mác-Lênin về cách mạng thuộc địa vạo thực tế Việt Nam. Vận dụng và phát
triển sáng tạo lý luận vào thực tiễn.
- Về thực tiễn: chấm dứt thời kỳ khủng hoảng và bế tắc về đường lối của phong
trào yêu nước, phong trào cách mạng Việt Nam, đã có một cương lĩnh hoàn
chỉnh, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho cách mạng Việt

Nam.
Tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, đồng thời cũng góp phần
tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Câu 4: Trình bày nội dung luận cương chính trị (10/1930) từ đó chỉ ra hạn chế
lịch sử của cương lĩnh này?
Sau hội nghị thành lập Đảng ngày 3-2-1930, cương lĩnh của Đảng đã được bí mật
đưa vào quần chúng đẩy phong trào cách mạng lên cao. Tháng 4-1930 đồng chí
Trần Phú về nước sau quá trình học tập tại trường Quốc tế Phương Đông. Tháng 7-
1930 Trần Phú được bầu vào Ban chấp hành Trung ương lâm thời và được giao
nhiệm vụ cùng với một số đồng chí soạn thảo Luận cương chuẩn bị cho hội nghị
Ban chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị diễn ra từ ngày 14 đến ngày 30-10-
1930 do đồng chí Trần Phú trủ chì. Hội nghị đã thông qua Luận cương chính trị
của đồng chí Trần Phú. Hội nghị đã quyết định đổi tên Đảng thành Đảng cộng sản
Đông Dương và bầu Trần Phú làm tổng bí thư.
Luận cương bao gồm những nội dung sau:
 Nội dung của luận cương lĩnh chính trị tháng 10/1930
Phương hướng chiến lược của CMVN: “Tiến hành tư sản dân quyền CM, sau
khi thắng lợi tiến tới phát triển bỏ qua thời kì tư bản mà tranh đấu thẳng lên con
đường XHCN”
Nhiệm vụ của CM tư sản dân quyền: Đánh đổ các di tích phong liến, đánh đổ
mọi cách bóc lột, đánh đổ thực dân Pháp làm Đông Dương hoàn toàn toàn độc lập
“trong đó vấn đề thổ địa là cái cốt lõi của CMTSDQ”
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
Lực lượng CM: giai cấp CN & giai cấp nông dân là động lực chính của CM,
còn các tầng lớp bóc lột theo đế quốc tiểu tư sản thì do dự, tri thức phải hăng hái
tham gia chống đế quốc lúc đầu chỉ những trí thức thất nghiệp và những phần tử
lao khổ đô thị mới theo CM
Phương pháp CM: Đảng phải chuẩn bị cho quần chúng về “con đường võ trang
bạo động” và “phải tuân theo khuôn phép nhà binh” đánh đổ chính phủ địch nhân,

giành chính quyền
Về quan hệ quốc tế: CMVN là 1 bộ phận của CMTG phải đoàn kết với vô sản
TG trước hết là vô sản Pháp và phong trào CM thuộc địa để tăng cường lực lượng
của mình
Về Đảng: Phải có 1 Đảng với đường lối chính trị đúng, kỉ luật tập trung liên hệ
mật thiết với quần chúng lấy chủ nghĩa Mác – Lenin làm gốc thì lãnh đạo mới đạt
mục đích cuối cùng là CN cộng sản
* Nhận xét:
Bản luận cương đã khẳng định lại nhiều vấn đề mà cương lĩnh đã nêu ra: đường lối
cách mạng, lực lượng cách mạng, đoàn kết quốc tế, vai trò lãnh đạo của Đảng.
Luận cương của Trần Phú có những điểm sáng tạo hơn như đã đề ra phương pháp
cách mạng, nguyên tắc Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
 Ưu điểm:
Luận cương 10/1930 làm sâu sắc nhiều vấn đề thuộc về chiến lược của CMVN
mà cương lĩnh 2/1930 đã nêu
Hạn chế:
- Luận cương đã không vạch ra được đâu là mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc
địa coi trọng vấn đề chống phong kiến không phù hợp với cách mạng Việt Nam.
- Không đề ra được mối liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh
dân tộc và bọn tay sai.
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
- Đánh giá không đúng vai trò vị trí của các giai cấp tầng lớp khác do đó không lôi
kéo được bộ phận có tinh thần yêu nước.
Nguyên nhân dẫn đến hạn chế của Luận cương:
- Do ảnh hưởng tư tưởng tả khuynh của Quốc tế cộng Sản
- Do không nắm được thực tiễn đất nước, không xác định được mâu thuẫn nào là
mâu thuẫn chủ yếu dẫn tới không xác định được tầng lớp trung gian cũng là đối
tượng của cách mạng.
So sánh Luận cương chính trị của Đảng( 10/1930) và Cương lĩnh chính
trị( 2/1930).

 So sánh với văn kiện tháng 2/1930
 Điểm giống nhau
Về phương hướng: CM tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua giai
đoạn TBCN để đi tới xã hội cộng sản
Về nhiệm vụ: chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất và giành độc lập
dân tộc.
Về lực lượng: chủ yếu là công nhân và nông dân.
Về phương pháp: sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam cả về
chính trị và vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc CM là đánh đổ đế quốc và
phong kiến, giành chính quyền về tay công nông.
Về vị trí quốc tế: CM Việt Nam là một bộ phận khăng khít với CM thế giới đã
thể hiện sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.
Lãnh đạo cách mạng: là giai cấp vô sản thông qua Đảng cộng sản, Đảng là đội
tiên phong
 Sự giống nhau trên là do cả hai văn kiện đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-
Lênin và cách mạng vô sản chiụ ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại
năm 1917
 Điểm khác nhau
Cương lĩnh 2/1930 Luận cương 10/1930
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
Quan hệ quốc tế
CMVN là 1 bộ phận của CMTG CMĐD là 1 bộ phận của CMTG
Nhiệm vụ:
Đánh đổ Pháp & PK Đánh đổ PK  thực hành CM ruộng
đất  đánh đổ Pháp
Lực lượng CM
Công – nông liên lạc với trí thức, tiểu
TS, trung nông
Công – nông
Phương pháp CM

Bạo lực quần chúng + đấu tranh chính trị
+ đấu tranh vũ trang
Võ trang bạo động
Câu 5: Tại sao từ những năm 1936 trở đi Đảng ta có chủ trương điều chỉnh
chiến lược cách mạng? trình bày nội dung cơ bản của việc điều chỉnh này?
1. Từ 1936-1939
Đảng chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng cho phù hợp với tình hình
mới.
* Nguyên nhân:
- Thế giới:
+ Chủ nghĩa phát xít ra đời và ráo riết chuẩn bị chiến tranh thế giới để chia lại thị
trường thế giới và tiêu diệt Liên Xô thành trì của phong trào cách mạng thế giới.
+ Quốc tế cộng sản triệu tập Đại hội lần thứ VII( 7-1935) tại Matxcơva:
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
++ Vạch ra nhiệm vụ cho cách mạng thế giới là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít,
chống chiến tranh, giành dân chủ, hòa bình, bảo vệ Liên Xô.
++ Lập mặt trân nhân dân rộng rãi chống chủ nghĩa phát xít
++ Đối với những nước thuộc địa, mặt trận dân tộc thống nhất có tầm quan trọng
đặc biệt
+ Ở nhiều nước, mặt trận nhân dân chống chủ nghĩa phát xít lần lượt ra đời
* Nội dung chuyển hướng:
- Hội nghị Trung ương Đảng tháng 7-1936 họp tại Thượng Hải, Trung Quốc, do
Đ/C Lê hồng Phong chủ trì đã chỉ rõ:
+ Nhiệm vụ chiến lược đánh đổ đế quốc và địa chủ, phong kiến không thay đổi
nhưng nhiệm vụ, mục tiêu trước mắt của cách mạng Việt Nam lúc này là đấu tranh
chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, chống phát xít và chiến tranh đế quốc,
đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình.
+ Hội nghị quyết định thành lập mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông
Dương,( sau đổi tên thành MTDCĐD) bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các
đoàn thể chính trị và tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông

Dương “để cùng nhau tranh đấu đòi những điều dân chủ đơn sơ”
+ Hội nghị chủ trương thay đổi hình thức tổ chức và hình thức đấu tranh: chuyển
từ đấu tranh bất hợp pháp là chủ yếu sang hình thức công khai, hợp pháp, nửa công
khai là chủ yếu.
+ Hội nghị đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng Đông Dương. Trong văn kiện “Chung
quanh vấn đề chiến sách mới” của Đảng ( 10-1936), Đảng chỉ rõ:Công cuộc giải
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
phóng dân tộc không nhất thiết phải gắn với cuộc cách mạng điền địa. Nếu
nhiệm vụ chống đế quốc cần kíp hơn thì tập trung lực lượng đánh đổ đế quốc.
+ Về đoàn kết quốc tế: Phải xây dựng tình đoàn kết với giai cấp công nhân và ĐCS
Pháp, ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp để cùng nhau chống kẻ thù chung là bọn
phát xít ở Pháp và bọn phản động thuộc địa.
Đảng nhắc nhở không được mơ hồ giữa sách lược phân hóa kẻ thù với chủ nghĩa
cải lương” Pháp- Việt đề huề”.
+ Về công tác xây dựng Đảng: không phải Đảng bỏ cách bí mật mà theo chủ nghĩa
công khai. Đảng vẫn củng cố tổ chức và công tác Đảng bí mật hơn xưa.
- Chủ trương của hội nghị được bổ sung, phát triển ở các hội nghị TƯ tháng 3-1937,
tháng 9-1937 và tháng 3-1938.
- Tác phẩm “ Tự chỉ trích” của Tổng bí thư Nguyễn văn Cừ xuất bản năm 1939 đã
tổng kết sự lãnh đạo của Đảng, rút kinh nghiệm vấn đề tập hợp lực lượng cách
mạng
* Nhận xét:
Hội nghị TW tháng 7-1936 đánh dấu nhận thức đúng đắn của Đảng về giải quyết
mối quan hệ giữa dân tộc, giai cấp, hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến.
Tuy nhiên, nhận thức đúng đắn đó chưa được kiểm nghiệm trong thực tiễn
2. Chủ trương chiến lược mới của Đảng 1939-1945
* Nguyên nhân:
- Tình hình thế giới:
+ Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.

+ Chiến tranh sẽ làm cho các nước đế quốc suy yếu.
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
+ Phong trào cách mạng thế giới phát triển nhanh chóng.
+Cách mạng nhiều nước sẽ thành công.
- Tình hình trong nước:
+ Chiến tranh đã ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta.
++ Chính phủ phản động Pháp đàn áp các lực lượng tiến bộ ở trong nước và các
thuộc địa.
++ Ở Đông Dương, chính phủ phản động Pháp điên cuồng tiến công vào ĐCSĐD
và các tổ chức quần chúng do Đảng lãnh đạo. Nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt, bị tù
đày.
++ Một số quyền tự do, dân chủ giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu.
Hàng vạn thanh niên bị bắt sang Pháp làm bia đỡ đạn cho chúng.
++ Tháng 9-1940, Nhật vào Đông Dương, từ đó nhân dân ta bị một cổ hai tròng.
++ Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với phát xít Pháp, Nhật ngày càng gay gắt
• ND Chủ trương chiến lược mới của Đảng.
Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11-1939, 11-1940, 5-1941 đã đề ra, bổ sung và
hoàn chỉnh chủ trương mới về vấn đề giải phóng dân tộc với một số nội dung cơ
bản sau:
- Phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Nhiệm vụ
chống phong kiến và các nhiệm vụ dân chủ khác phải rải ra, thực hiện từng bước
có kế hoạch, phục tùng và phục vụ nhiệm vụ chống đế quốc.
- Phải đặt quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi của bộ phận, của giai cấp. Trong
điều kiện lịch sử mới,nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
giành được độc lập ,tự do thì quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm
cũng không đòi lại được.
- Vấn đề dân tộc phải được giải quyết riêng trong phạm vi từng nước dựa trên
nguyên tắc dân tộc tự quyết.
- Để thực hiện nhiệm vụ trung tâm ấy, phải tập hợp mọi lực lượng chống đế quốc và

bè lũ tay sai vào mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi.
- Về khởi nghĩa vũ trang: Hội nghị TW tháng 5-1941 quyết định phải xúc tiến chuẩn
bị khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng và toàn dân
trong giai đoạn cách mạng hiện tại.
• Nhận xét:
Từ năm 1930-1945, đây là thời kỳ đấu tranh để đi đến sự thống nhất về đường
lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng.
Đến tháng 5-1941, tư tưởng đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu đã
thống nhất trong toàn Đảng.
Đó chính là sự kế tục, phát triển tư tưởng giải phóng dân tộc của Nguyễn ái
Quốc được Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng thông qua.
Việc xác định, bổ sung, phát triển đường lối CMDTDCND của Đảng là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm
1945.
Câu 9: phân tích làm rõ quá trình đổi mới tư duy của Đảng về CNH – HĐH từ
Đại Hội VI(1986) đến Đại Hội X(2006)
a. Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) phê phán sai lầm trong nhận thức
và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960 - 1985
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
Với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật",
Đại hội VI của Đảng đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận thức
và chủ trương công nghiệp hóa. Đó là:
- Sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất
- kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, v.v Muốn xóa bỏ
những bước đi cần thiết nên đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong
khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế.
- Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu
tư: thiên về công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập
trung sức giải quyết các vấn đề căn bản về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu

dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
- Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết Đại hội V: chưa thật sự coi
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
b. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa từ Đại hội VI đến Đại hội X
- Đại hội VI của Đảng đã cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên thời kỳ quá
độ là thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu: lương thực, thực phẩm,
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
- Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (tháng 1/1994) có
bước đột phá mới, trước hết ở nhận thức về khái niệm công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại,
dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ của khoa học - công nghệ,
tạo ra năng xuất lao động xã hội cao".
- Đại hội VIII của Đảng (tháng 6/1996) nhận định nước ta đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá
độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép
chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội nêu sáu quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và định hướng
những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa những năm còn lại
của thế kỷ XX. Sáu quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa là:
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
+ Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế; đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; dựa vào nguồn lực trong nước là chính,
đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài; xây dựng một nền kinh tế
mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời
thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.

+ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
+ Lấy việc phát huy yếu tố con người làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển
nhanh, bền vững; động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không
ngừng tăng cường tích lũy cho đầu tư và phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn
với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
+ Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa; kết
hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào
hiện đại ở những khâu quyết định.
+ Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án
phát triển; lựa chọn dự án đầu tư công nghệ; đầu tư chiều sâu để khai thác
tối đa năng lực hiện có; trong phát triển mới, ưu tiên qui mô vừa và nhỏ,
công nghệ tiên tiến, tạo việc làm, thu hồi vốn nhanh,
+ Kết hợp kinh tế với quốc phòng.
- Đại hội IX (tháng 4/2001) và Đại hội X (tháng 4/2006) của Đảng tiếp tục
bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới về công nghiệp hóa:
+ Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so
với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu
hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới. Cần thực hiện các yêu cầu sau: phát triển kinh tế và công nghệ
phải vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những lợi
thế của đất nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển
kinh tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con
người Việt Nam, đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho công nghệp hóa.
+ Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phát triển nhanh và có
hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu.
+ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh

ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Câu 10: Pt mục tiêu quan điểm của ĐCS VN về CNH-HĐH thời kỳ đổi mới?
theo anh chị cần phải có trách nhiệm j` đối với sự nghiệp đổi mới CNH-HĐH
đất nước?
Mục tiêu:
Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ
XHCN, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Quan niệm:
Một là, Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng , hiệu lực quản lí của Nhà nước, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, làm cho hệ thống chính trị hoạt động năng động hôn, có
hiệu quả hơn, phù hợp với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước; đặc biệt
là phù hợp với yêu cầu của nền KTTT định hướng XHCN, của sự CNH, HĐH gắn
với kinh tế tri thức, với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một cách toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước
đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Bốn là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị với
nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều theo hướng tiềm năng, thúc đẩy
xã hội phát triển; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Chủ trương:
Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị.
Đại hội X xác định : “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của

cả dân tộc”.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng việc đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống chính trị. Nghị quyết trung ương 5 khoá X về “Tiếp tục
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị”
đã chỉ rõ các mục tiêu giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa
học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự
gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân; nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của
Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường kỷ luật, kỷ cương
trong Đảng và trong xã hội; làm cho nước ta phát triển nhanh và bền vững theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị
phải trên cở sở kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, thực hiện
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong
xã hội, đẩy nhanh phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là của
những người đứng đầu.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị
ở mỗi cấp, mỗi ngành vừa phải quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp
với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính thực tế, khả thi của các quy định trong văn
bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện có kiểm tra, giám sát tính hợp hiến hợp pháp
trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử
nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo
hướng xây dựng cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại.
Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, quyền con người.

Nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự
chịu trách nhiêm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp.
Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -xã hội trong hệ thống chính
trị.
Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị
- xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức CT- XH, khaéc phục tình
trạng hành chính hoá, nhà nước hoá, phô trương, hình thức; nâng cao chất lượng
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
hoạt động; làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân,
học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.
Câu 11: phân tích làm rõ thành tựu hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới
CNH-HĐH đất nước?
Bạn tham khảo Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam: thành tựu, bài
học qua 20 năm , tự tóm tắt lấy nhé các bà kon =))=)) in đậm biểu thị ý chính :D
(ĐCSVN)- Vào cuối những năm bảy mươi của thế kỷ XX do những điều kiện khắc
nghiệt của hoàn cảnh đất nước và cả do những khuyết điểm chủ quan trong lãnh
đạo và quản lý mà đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân
dân gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã
từng bước thử nghiệm tìm tòi con đường đổi mới để đưa đất nước phát triển.
Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về CNXH và về thời kỳ quá
độ lên CNXH, dựa vào những kết quả bước đầu của sự đổi mới từng phần, lắng
nghe, tổng kết sáng kiến, kinh nghiệm của nhân dân, của các địa phương và cơ sở,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã
hoạch định đường lối đổi mới. Trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối đổi mới
do Đại hội VI đề ra, nhiều Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và
đặc biệt Đại hội VII (6-1991) với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội VIII (6-1996) và Đại hội IX (4-2001) đã không
ngừng bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới, làm rõ hơn nhiều vấn đề
lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới và xây dựng CNXH ở Việt Nam.

Có thể thấy rõ những nội dung đổi mới quan trọng và chủ yếu cả về nhận thức, tư
duy lý luận và cả về lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn suốt 20 năm qua.
Trước hết, đó là đổi mới tư duy lý luận mà thực chất là nắm vững và vận
dụng đúng đắn quy luật khách quan, khắc phục căn bệnh nóng vội, chủ quan,
duy ý chí. Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thức rằng, từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan và độ
dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước.
“Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất
nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất
khó khăn”1. Đại hội IX (4-2001) tổng kết 15 năm đổi mới, khẳng định: “Xây dựng
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã
hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra
sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”2. Trong hàng loạt các quy luật
khách quan, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ hơn quy luật về quan hệ sản
xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, sửa chữa sai
lầm trước đó là là đã đưa quan hệ sản xuất đi quá nhanh, quá xa trong khi lực
lượng sản xuất còn rất lạc hậu, tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
thông qua thực hiện cách mạng khoa học - công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hóa, từ đó điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp. Các quy luật vận
động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là các quy luật kinh tế đã từng
bước nhận thức và vận dụng đúng đắn và có hiệu quả hơn. Khi quyết định đường
lối đổi mới ở Đại hội VI Đảng ta đã nghiêm túc chỉ ra rằng, cuộc sống cho ta một
bài học thấm thía là không thể nóng vội làm trái quy luật.
Thứ hai, từ nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ, Đảng quyết định đổi mới
cơ cấu kinh tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng
của thời kỳ quá độ. Đại hội VI đã vận dụng đúng đắn quan điểm của Lênin về
kinh tế nhiều thành phần. Chính Lênin cũng cho rằng tên nước Cộng hoà xã hội

chủ nghĩa là để khẳng định hướng tiến lên chứ điều đó chưa có nghĩa là nền kinh tế
của ta đã hoàn toàn là kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, ở nước ta cần thiết phải có
nhiều thành phần kinh tế phát triển bình đẳng trước pháp luật, đó là yêu cầu khách
quan. Đại hội VI khẳng định nước ta có các thành phần: kinh tế xã hội chủ nghĩa
bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa;
kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp. Đại
hội IX bổ sung thêm một thành phần nữa là kinh tế 100% vốn nước ngoài. Trong
quá trình đổi mới, 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Thực
tiễn đổi mới cũng cho thấy nhiều thành phần kinh tế đương nhiên là có nhiều hình
thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Cùng với đổi mới cơ cấu kinh tế, Đảng chủ trương đổi mới cơ chế quản lý dứt
khoát bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch
toán, kinh doanh và từng bước đưa nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó chính là nền kinh
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân
dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất
mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý, phân phối.
Thứ ba, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và vai trò, chức
năng quản lý điều hành của Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Củng cố sức mạnh của hệ thống chính trị. Đại
hội VI của Đảng đặt ra yêu cầu xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của
một Đảng cầm quyền, tăng cường sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo và năng lực tổ
chức thực tiễn, đổi mới phong cách làm việc, đi sâu, đi sát thực tế, sát cơ sở, gắn
bó với nhân dân. Nâng cao trình độ trí tuệ, nắm bắt và vận dụng đúng đắn quy luật

khách quan, hiểu biết sâu sắc những vấn đề kinh tế, xã hội. Từ HNTW3 khoá VII
(6-1992), đặc biệt từ HNTW6 (lần 2) khóa VIII (1-1999) Đảng đẩy mạnh nhiệm vụ
xây dựng chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội VI của Đảng đã xác định rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội
của bộ máy Nhà nước, nghĩa là, Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và chính
sách để điều hành, quản lý nền kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô. Từ sau Đại hội VII,
đặc biệt là HNTW8 khoá VII (1-1995), HNTW3 khoá VIII (6-1997) đẩy mạnh xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Quan điểm cơ bản là: quyền lực Nhà nước là thống nhất, song có sự phân công và
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Từ Quốc hội khoá VIII (1987), khoá IX (1992), khoá X (1997) và
khoá XI (2002) hoạt động của Quốc hội ngày càng đổi mới và thực hiện có hiệu
quả các chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và
quyền giám sát tối cao. Từng bước đẩy mạnh công cuộc cải cách nền hành chính
nhà nước cả về chức năng, cơ chế vận hành, quản lý, tổ chức bộ máy và đội ngũ
công chức. Bộ máy và hoạt động tư pháp được củng cố và tăng cường. Cùng với
việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhiệm vụ xây dựng hoàn thiện Nhà nước là những
nội dung quan trọng về đổi mới hệ thống chính trị và có ý nghĩa quyết định đến
toàn bộ tiến trình của sự nghiệp đổi mới.
Thứ tư, thật sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tăng cường và đổi mới công tác vận động
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
quần chúng nhân dân và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI
của Đảng đã rút ra bài học là trong toàn bộ hoạt động, Đảng phải quán triệt tư
tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động. Chính lợi ích sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi
mới Một trong những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới mà HNTW6 (khoá
VI) 3-1989 nêu ra là phải thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng dân
chủ luôn luôn gắn liền với tập trung, gắn liền với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân,
với kỷ cương, kỷ luật pháp luật, dân chủ phải có lãnh đạo và lãnh đạo bằng phương

pháp dân chủ. Nghị quyết Trung ương 8B (khoá VI) 3-1990 về đổi mới công tác
quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Đảng nhấn
mạnh các quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; động lực
thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết
hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân; các hình thức
tập hợp nhân dân phải đa dạng; công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể. Đảng cũng chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các tổ
chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Cùng với Đảng, Nhà
nước, tổ chức Mặt trận và đoàn thể nhân dân như Tổng liên đoàn lao động, Hội
nông dân, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu
chiến binh hợp thành hệ thống chính trị. Công tác vận động quần chúng là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị ở tất cả các cấp.
Đảng chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc đổi mới. Đoàn kết các giai cấp, các
thành phần kinh tế, đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, mọi tầng lớp, cá nhân yêu
nước, đoàn kết người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài
nhằm phát huy nội lực của dân tộc Việt Nam.
Thứ năm, đổi mới chính sách đối ngoại, thực hiện đa phương hóa, đa dạng
hoá, Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới
trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Xây dựng
chiến lược bảo vệ Tổ quốc phù hợp với tình hình mới. Tại Đại hội VI (12-1986),
Đảng ta đã nêu rõ chủ trương: khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới
nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao. Đi đôi với
công bố luật đầu tư, cần có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho
người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh. Luật đầu tư
nước ngoài là luật sớm nhất của thời kỳ đổi mới, được Quốc hội khoá VIII thông
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
qua ngày 29-12-1987 và có hiệu lực từ 1-1-1988. Đại hội VII của Đảng tuyên bố
chính sách đối ngoại rộng mở, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong

cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển. Đại hội VIII của
Đảng nhấn mạnh sự hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước
và các tổ chức quốc tế. Tích cực đóng góp cho hoạt động ở các diễn đàn quốc tế,
tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân,
quan hệ với các tổ chức phi chính phủ. Đại hội IX của Đảng tiếp tục chủ trương
mở rộng quan hệ đối ngoại chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế. Đảng ta luôn luôn xác định, nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ
vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc
đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hóa
đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
Có thể thấy rõ thành tựu của 20 năm đổi mới cả về thực tiễn và nhận thức lý
luận để vững tin vào con đường đã lựa chọn và sự phát triển của đất nước.
Về thực tiễn, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội từ 1996, kinh tế tiếp
tục tăng trưởng khá nhanh (GDP bình quân 1986-1990 là 3,9%, 1991-1995 là
8,2%, 1996-2000 là 7% và 2001-2005 là 7,5%), nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng, công nghiệp hoá, hiện đại hóa được đẩy
mạnh, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tăng lên đáng kể. Hệ thống
chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc mà nền tảng là liên minh công nhân - nông
dân - trí thức do Đảng lãnh đạo ngày càng được tăng cường và củng cố. Nền quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân được giữ vững. Chính trị - xã hội ổn định.
Quan hệ đối ngoại được mở rộng. Vì thế nước ta trên thế giới được nâng cao.
Sức mạnh tổng hợp từ nguồn nội lực của đất nước tăng lên nhiều. Nhân dân tin
tưởng ở đường lối đổi mới và sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, tin
tưởng ở tương lai phát triển của đất nước.
Về lý luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam ngày càng rõ hơn, “hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới,
về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã

bước đầu hình thành trên những nét cơ bản” (Văn kiện trình Đại hội X trang
11). Nhận thức rõ hơn về mục tiêu, mô hình của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
Nam, rõ hơn về chặng đường, bước đi khi đã hoàn thành những nhiệm vụ đề ra cho
chặng đường đầu trên của thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang chặng đường đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, rõ hơn về những công cụ, giải pháp
để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, rõ hơn về
những mối quan hệ đặt ra cần được giải quyết một cách đúng đắn trên con đường
đổi mới vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà trước hết làm cho dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
20 năm đổi mới đã có cơ sở để rút ra một số bài học lớn có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn.
Đó là các bài học: trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm
phù hợp; đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai
trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái
mới; phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; đổi mới và hoàn thiện
phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
dân.
Câu 12: mục tiêu và quan điểm cơ bản về thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay?
1. Mục tiêu và quan điểm cơ bản
a) Thể chế kinh tế và thể chế kinh tế thị trường
- Thể chế kinh tế: Thể chế kinh tế nói chung là một hệ thống các quy phạm pháp
luật nhằm điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các
quan hệ kinh tế.Nó bao gồm các yếu tố chủ yếu là các đạo luật, quy chế, quy tắc,

chuẩn mực về kinh tế gắn với các chế tài về xử lý vi phạm, các tổ chức kinh tế, các
cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế, truyền thống văn hóa và văn minh kinh
doanh, cơ chế vận hành nền kinh tế.
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM
- Thể chế kinh tế thị trường: là một tổng thể bao gồm các bộ quy tắc, luật lệ và hệ
thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt động giao
dịch, trao đổi trên thị trường.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân theo các
quy luật của kinh tế thị trường vừa chịu sự chi phối của các yếu tố bảo đảm tính
định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa được hiểu là thể chế kinh tế thị trường, trong đó các thiết chế, công cụ và
nguyên tắc vận hành được tự giác tạo lập và sử dụng để phát triển sản xuất, cải
thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
b) Mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
- Mục tiêu cơ bản đến năm 2020: làm cho các thể chế phù hợp với các nguyên tắc
cơ bản của kinh tế thị trường, thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
- Mục tiêu cụ thể những năm trước mắt:
Một là, từng bước xây dựng hệ thống pháp luật, bảo đảm cho nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh
tế Nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình
doanh nghiệp. Hình thành một số tập đoàn kinh tế , các tổng công ty đa sở hữu, áp
dụng mô hình quản trị hiện đại, có năng lực cạnh tranh quốc tế.
Hai là, đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị
sự nghiệp công.
Ba là, phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả
nước, từng bước kiên thông với thị trường khu vực và thế giới.

Bốn là, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn
hóa, xã hội bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Năm là, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn tể chính trị - xã hội và nhân dân trong quản lý phát
triển kinh tế - xã hội.
c) Quan điểm về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
- Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của
kinh tế thị trường
- Đảm bảo tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế, giữa các
ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐCSVN – TAICHINH2A.COM

×