Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

Luận văn thạc sĩ đánh giá kết quả công tác thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới tại xã phong châu – huyện trùng khánh – tỉnh cao bằng giai đoạn 2012 – 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.62 KB, 81 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

rr-1 -*Ầ

.A•

Tên đê tài:
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CÔNG TÁC THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI XÃ PHONG CHÂU
HUYỆN TRÙNG KHÁNH - TỈNH CAO BẰNG
GIAI ĐOẠN 2012 - 2014

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo

: Chính quy : Quản

Chuyên

lý đất đai : Quản lý

ngành Khoa

Tài nguyên : K43 -

Lớp

QLĐĐ - N02 : 2011 -


Khóa học

2015


HOÀNG NGÔN SAN
rr-1 -*Ầ

.A•

Tên đê tài:
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CÔNG TÁC THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI XÃ PHONG CHÂU
HUYỆN TRÙNG KHÁNH - TỈNH CAO BẰNG
GIAI ĐOẠN 2012 - 2014
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo Chuyên

: Chính quy : Quản lý

ngành Lớp Khoa

đất đai : K43 - QLĐĐ

Khóa học

(N02)

Giảng viên hướng dẫn


: Quản Lý Tài
Nguyên : 2011 - 2015 :
ThS. Nguyễn Quý Ly


3
LỜI CẢM ƠN
Thực hiện phương châm đào tạo nguồn nhân lực vừa hồng vừa chuyên, thực tập tốt
nghiệp để khẳng định chất lượng đào tạo nguồn cán bộ kế cận. Được sự đồng ý của ban
giấm hiệu, ban chủ nhiêm khoa Quản Lý Tài Nguyên em tiến hành đề tài : ”Đánh giá kết
quả công tác thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới tại xã Phong Châu —
huyện Trùng Khánh — tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2012 - 2014”.
Có được kết quả này lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thạc sĩ Nguyễn
Quý Ly - Giảng viên khoa Quản Lý Tài Nguyên. Giáo viên hướng dẫn em trong quá trình
thực tập. Thầy đã chỉ bảo và hướng dẫn tận tình cho em những kiến thức lý thuyết và thực
tế cũng như các kỹ năng trong khi viết bài, chỉ cho em những thiếu sót và sai lầm của mình,
để em hoàn thành bài báo cáo thực tập tốt nghiệp với kết quả tốt nhất. Thầy luôn động viên
và theo dõi sát sao quá trình thực tập và cũng là người truyền động lực cho em, giúp em
hoàn thành tốt đợt thực tập của mình.
Cho phép em gửi lời cảm ơn chân thành tới các phòng, cán bộ sở Tài nguyên - Môi
trương tỉnh Cao Bằng và các phòng, cán bộ UBND xã Phong Châu đã nhiệt tình giúp đỡ
em, cung cấp những thông tin và số liệu cần thiết cho để phục vụ cho bài báo cáo. Ngoài ra,
các cán bộ xã còn chỉ bảo tận tình, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong quá trình công
tác, đó là những ý kiến hết sức bổ ích cho em sau này khi ra trường. Đã tạo mọi điều kiện
giúp em hoàn thành đợt thực tập tốt nghiệp này.
Em cũng xin cảm ơn người dân xã Phong Châu đã tạo điều kiện cho em trong thời
gian ở địa phương thực tập.
Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình dạy dỗ của các thầy cô trong khoa Quản Lý Tài
Nguyên trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên

Sau nữa em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã luôn bên
cạnh động viên em trong những lúc khó khăn.
Thái Nguyên, tháng 05 năm 2015
Sinh viên

Hoàng Ngôn San


4
DANH MỤC CÁC BẢNG


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


6
Chữ Viết tắt

Giải nghĩa

ANTQ

An ninh tổ quốc

BQ

Bình quân

BQL


Ban quản lý

BHYT

Bảo hiểm y tế

CNH - HĐH

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CBXD

Chuẩn bị xây dựng

GTVT

Giao thông vận tải

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

HTX

Hợp tác xã

KHKT

Khoa học - kỹ thuật


KVA

kilovolf ampere

NTM

Nông thôn mới

NSNN

Ngân sách nhà nước

PTNT

Phát triển nông thôn

SX-KD

Sản xuất - Kinh doanh

TBKT

Tiến bộ kỹ thuật

VH-TT-DL

Văn hóa thể thao và du lịch
MỤC LỤC

PHỤ LỤC



7
PHẦN 1
MỞ ĐẦU

1.1.

Tính cấp thiết của đề tài
Sau 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, khu vực nông thôn việt nam đã có sự thay

đổi rõ nét. Trong nông nghiệp, để khắc phục tình trạng khủng hoảng về mô hình tổ chức sản
xuất, ngày 13/1/1981, Ban Bí thư TW đã ban hành chỉ thị 100 CT/CP, chính thức quy định
chủ trương khoán sản phẩm cuối cùng tới nhóm và người lao động. Chỉ thị của Ban Bí thư
đã đáp ứng được nguyện vọng của người dân vì vậy mà nông dân khắp mọi miền hưởng
ứng nhiệt tình. Hình thức này đã khắc phục được những hạn chế của các hình thức khoán
trong HTX nông nghiệp trước đây, gắn được lợi ích của người lao động với sản phẩm họ
làm ra. Do người nông dân rất tích cực tham gia sản xuất, vì vậy năng suất, sản lượng tăng
đáng kể. Nền kinh tế dần được phục hồi nhưng chưa ổn định.
Để đưa đất nước thoát dần cuộc khủng khoảng kinh tế- xã hội, tháng 12/1986, Đại hội
VI của Đảng quyết định thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, mở ra thời kì mới cho phát
triển kinh tế Việt Nam. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực, hoạt động dịch vụ phát
triển mạnh, hình thành và phát triển các mô hình kinh tế mới (khu công nghiệp, trang trại,
doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp tư nhân) hoạt động có hiệu quả thu hút nhiều lao
động nông thôn, tạo ra nhiều sản phẩm cho nền kinh tế. Kết cấu kinh tế - xã hội ở nông thôn
có nhiều thay đổi, hệ thống điện, đường trường trạm, cơ sở y tế, nước sạch, môi trường
được quan tâm và đẩy mạnh. Công tác xóa đói giảm nghèo đạt thành tựu đáng kể, tỷ lệ hộ
nghèo giảm.
Xây dựng nông thôn mới là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước. Ngày 4-6-2010,
Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng

nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 với mục tiêu xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội
từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông


8
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo
quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường
sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của
người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau hơn hơn một năm hưởng ứng phong trào xây dựng nông thôn mới đã làm thay
đổi một cách căn bản diện mạo nông thôn, nếp sống, nếp nghĩ. Giúp người dân biết áp dụng
KH - KT vào sản xuất trồng trọt, chăn nuôi,... làm cho cả đời sống vật chất và tinh thần của
người dân đều được nâng cao, bộ mặt làng xã đã có sự thay đổi rõ rệt, cảnh quan môi
trường được bảo vệ.
Nhưng mặt hạn chế cũng không phải là ít, theo Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới
của tỉnh, thì đây là một lĩnh vực mới, trong khi kinh nghiệm của cán bộ chưa có nhiều. Khi
đề xuất nội dung xây dựng đã yêu cầu chỉ chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng mà chưa quan
tâm nhiều tới các mô hình sản xuất. Sự trông chờ, ỉ lại của một bộ phận cán bộ cơ sở, dân
cư là khá lớn, vẫn tồn tại quan niệm “xin-cho”. Vì thế mà họ chỉ quan tâm tới việc giải ngân
tốt mà chưa để ý tới mục tiêu chất lượng của chương trình.
Được sự đồng ý của Ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Quản Lý Tài
Nguyên trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo ThS.
Nguyễn Quý Ly, em tiễn hành thực hiện đề tài: “Đánh giá kết quả công tác thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới tại xã phong Châu - huyện Trùng Khánh - tỉnh
Cao Bằng giai đoạn 2012 - 2014”.

1.2.

Mục đích nghiên cứu
Kết quả thực hiện xây dựng nông thôn mới tại xã Phong Châu - huyện Trùng Khánh -


tỉnh Cao Bằng và đề xuất một số giải pháp để chương trình thực hiện nông thôn mới đạt
hiệu quả cao nhất.

1.3.
-

Mục tiêu nghiên cứu

Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về mô hình nông thôn mới và xây dựng nông thôn
mới ở nước ta hiện nay.


9

-

Tìm hiểu và đánh giá công tác thực hiện mô hình nông thôn mới và quy trình xây dựng
nông thôn mới ở xã Phong Châu - huyện Trùng Khánh - tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2012 2014.

-

Rút ra những ưu điểm và vấn đề còn tồn tại trong việc thực hiện chương trình nông thôn
mới tại xã Phong Châu - huyện Trùng Khánh - tỉnh Cao Bằng

-

Phân tích nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nông thôn mới ở
địa bàn nghiên cứu.


-

Đề xuất định hướng và các giải pháp chủ yếu đẩy mạnh quá trình xây dựng nông thôn mới
ở địa phương trong những năm tới.

1.4.

Yêu cầu của đề tài

-

Điều tra chính xác tình hình cơ bản của xã Phong Châu.

-

Đánh giá kết quả công tác thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới của xã Phong
Châu.

-

Đối tượng được lựa chọn phỏng vấn là đại diện các tầng lớp, các lứa tuổi làm việc ở nhiều
ngành nghề khác nhau.

-

Số liệu thu thập phải chính xác, khách quan, trung thực.

-

Tiễn hành điều tra theo bộ câu hỏi, bộ câu hỏi phải dễ hiểu và đầy đủ các thông tin cần thiết

cho việc đánh giá.

-

Các kiến nghị đưa ra phải phù hợp với tình hình địa phương và có tính khả thi cao.

1.5.
1.5.1.
-

Ý nghĩa nghiên cứu
Ý nghĩa học tập và nghiên cứu

Đây là cơ hội tốt cho sinh viên thực hành khảo sát thực tế, áp dụng những kiến thức lý
thuyết vào thực tiễn, và có cơ hội gặp gỡ, học tập, trao đổi kiến thức với những người có
kinh nghiệm và người dân địa phương.

-

Củng cố kiến thức về nông thôn mới cho sinh viên.

-

Giúp sinh viên tiếp xúc thực tế, nâng cao năng lực, rèn luyện kĩ năng và trang bị kiến thức


1
thực tế phục vụ cho quá trình công tác sau này.

-


Là tài liệu tham khảo cho khoa Quản lý tài nguyên, nhà trường và các sinh viên quan tâm.

1.5.2.
-

Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp các địa phương khác có thể nhìn nhận, khai thác và
áp dụng và phát huy những điểm mạnh và hạn chế những điểm yếu của địa phương mình
Đề xuất những giải pháp khả thi để khắc phục những khó khăn nhằm thực hiện tốt
hơn chương trình xây dựng nông thôn mới nhằm cải thiện đời sống người dân
nông thôn.


PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1.
2.1.1.

Cơ sở lí luân của đề tài
Khái niệm về mô hình nông thôn mới
Trước hết chúng ta cần phải có cái hiểu đúng về nông thôn mới. Khái niệm “nông

thôn” thường đồng nghĩa với làng, xóm, thôn... Trong Nghị quyết số 26-NQ/TW đưa ra mục
tiêu: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế
và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân
tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn

dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường”; Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách
mạng của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Nông thôn mới không chỉ là vấn
đề kinh tế - xã hội, mà là vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp. đề ra mục tiêu đến năm 2020
xây dựng được khoảng 50% số xã trên toàn quốc đạt tiêu chuẩn nông thôn mới. Đây là một
chủ trương có ý nghĩa to lớn cả về chính trị, kinh tế, xã hội; thực hiện thắng lợi chủ trương
này sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nền kinh tế
của đất nước, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, một lực lượng xã hội
đông đảo chiếm khoảng 70% dân số của cả nước, tạo ra diện mạo nông thôn mới "ổn định,
hòa thuận, dân chủ, có đời sống văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc", thể hiện rõ
bản chất ưu việt, tốt đẹp của chế độ ta.
Xây dựng nông thôn mới giúp cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ,
đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
Như vậy, nông thôn mới trước tiên nó phải là nông thôn, không phải là thị tứ, thị trấn,
thị xã, thành phố và khác với nông thôn truyền thống hiện nay, có thể khái quát gọn theo
năm nội dung cơ bản sau: (1) làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; (2) sản xuất phải
phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hoá; (3) đời sống về vật chất và tinh thần của


dân nông thôn ngày càng được nâng cao; (4) bản sắc văn hoá dân tộc được giữ gìn và phát
triển; (5) xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lý dân chủ. . Đô thị hóa và phi nông hóa nông
dân chính là nguồn động lực quan trọng để xây dựng nông thôn mới. Xây dựng nông thôn
mới phải đặt trong bối cảnh đô thị hóa. Trong khi đó, chuyển dịch lao động nông thôn chính
là nội dung quan trọng của sự nghiệp xây dưng nông thôn mới và chủ thể là các tổ chức
nông dân. Các tổ chức hợp tác khu xã nông dân kiểu mới đóng một vai trò đặc biệt trong sự
nghiệp này.
Khái niệm mô hình nông thôn mới mang đặc trưng của mỗi vùng nông thôn khác
nhau. Nhìn chung, mô hình nông thôn mới là mô hình cấp xã, thôn được phát triển toàn diện
theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa và văn minh hóa.
Sự hình dung chung của các nhà nghiên cứu về mô hình nông thôn mới là những kiểu
mẫu cộng đồng theo tiêu chí mới, tiếp thu những KHKT hiện đại, song vẫn giữ được nét

đặc trưng, tính cách Việt Nam trong cuộc sống văn hóa, tinh thần.
Mô hình nông thôn mới được quy định bởi các tính chất: Đáp ứng yêu cầu phát triển;
Có sự đổi mới về tổ chức, vận hành và cảnh quan môi trường; Đạt hiệu quả cao nhất trên tất
cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; Tiến bộ hơn so với mô hình cũ; Chứa đựng
các đặc điểm chung, có thể phổ biến và vận dụng trên cả nước. Xây dựng nông thôn mới là
việc đổi mới tư duy, nâng cao năng lực của người dân, tạo động lực giúp họ chủ động phát
triển kinh tế, xã hội, góp phần thực hiện chính sách vì nông nghiệp, nông dân, nông thôn,
thay đổi cơ sở vật chất và diện mạo đời sống, văn hóa, qua đó thu hẹp khoảng cách sống
giữa nông thôn và thành thị. Đây là quá trình lâu dài và liên tục, là một trong những nội
dung trọng tâm cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo trong đường lối, chủ trương phát triển đất
nước và của các địa phương trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài.
Mục tiêu chính của xã nông thôn mới làm sao để nhân dân làm chủ, Đảng lãnh đạo,
chính quyền hỗ trợ. Vì vậy, địa phương cần phát huy nội lực của người dân, tạo ra mô hình
kinh tế mới, sáng tạo trong sản xuất. Bên cạnh đó, cần phải tuyên truyền tập trung hơn nữa
về nội dung đăng ký thực hiện hộ, tổ, ấp nông thôn mới để người dân giúp đỡ lẫn nhau, góp


phần phát triển toàn diện. Có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; Cơ cấu kinh tế và các
hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch
vụ, đô thị theo quy hoạch; Xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; Môi
trường sinh thái được bảo vệ; Nâng cao sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo
của Đảng ở nông thôn; Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nông và đội
ngũ tri thức, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc, đảm bảo thực hiện thành
công CNH - HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

2.1.2.

Sự cần thiết phải xây dựng nông thôn mới ở nước ta
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là chương trình tổng thể


phát triển kinh tế - xã hội có quy mô rất lớn và toàn diện lần đầu tiên được thực hiện tại
nước ta trên quy mô cả nước theo tinh thần Nghị quyết 26- NQ/T.Ư của Ban chấp hành
Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Theo đó, để phát triển nông nghiệp, nông
thôn bền vững, phải xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước
hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát
triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội
nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo
vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng
được nâng cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, thực trạng nông thôn nước ta nói chung và của tỉnh Cao Bằng nói riêng
hiện nay phát triển còn kém bền vững và còn nhiều hạn chế, đòi hỏi phải có sự quan tâm
đầu tư của Chính phủ, chính quyền địa phương và sự cố gắng, nỗ lực của toàn thể cộng
đồng để thực hiện Chương trình có hiệu quả trên địa bàn của tỉnh:
+ Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch và tự phát.
Cơ chế quản lý phát triển theo quy hoạch còn yếu. Xây dựng tự phát, kiến trúc cảnh
quan làng quê bị pha tạp, lộn xộn, nhiều nét văn hóa truyền thống bị mai một. Nhà nào
mạnh người ấy tự ý phát triển, xây dựng tràn lan không theo một quy hoạch hay khuôn mẫu
nhất định nảo cả. Làm mất mỹ quan nông thôn.


+ Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn lạc hậu, chưa trở thành động lực lớn thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội lâu dài.
Trong đó giao thông nông thôn, đặc biệt là ở các xã khó khăn vùng sâu, vùng xa trở
thành rào cản lớn nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, cần được đầu tư
mạnh mẽ phục vụ sản xuất và sinh hoạt của cư dân nông thôn.
Thủy lợi chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất nông nghiệp và dân sinh. Tỷ lệ kênh
mương do xã quản lý được kiên cố hóa mới đạt 25%. Giao thông chất lượng thấp, không có
quy chuẩn, chủ yếu phục vụ dân sinh, nhiều vùng giao thông chưa phục vụ tốt sản xuất, lưu
thông hàng hóa, phần lớn chưa đạt chuẩn quy định. Hệ thống lưới điện hạ thế ở tình trạng
chắp vá, chất lượng thấp, quản lý lưới điện ở nông thôn còn yếu, tổn hao điện năng cao (2225%), nông dân phải chịu giá điện cao hơn giá trần Nhà nước quy định. Hệ thống các

trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở ở nông thôn có tỷ lệ đạt chuẩn về cơ sở vật chất
thấp. Tỷ lệ chợ nông thôn đạt chuẩn thấp. Cả nước hiện còn hơn hàng nghìn nhà ở tạm bợ
(tranh, tre, nứa lá), hầu hết nhà ở nông thôn được xây không có quy hoạch, quy chuẩn.
+ Quan hệ sản xuất chậm đổi mới, đời sống người dân nông thôn còn ở mức thấp:
Kinh tế hộ ở nông thôn vẫn là chủ yếu với quy mô nhỏ, kinh tế trang trại, HTX hoạt động
chưa thực sự hiệu quả trong việc thu hút lao động, giải quyết việc làm và tạo ra giá trị hàng
hoá lớn, doanh nghiệp đầu tư hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp không đáng kể, lợi
nhuận thấp; Thu nhập bình quân của người dân nông thôn chỉ bằng 70% mức thu nhập bình
quân của tỉnh.
+ Văn hoá - xã hội - môi trường khu vực nông thôn còn nhiều vấn đề cần quan tâm
đầu tư, giải quyết: Tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo còn rất thấp (dưới 5%), một số tệ
nạn xã hội còn phổ biến ở nhiều nơi, môi trường sống bị giảm cấp và ô nhiếm nghiêm trọng
(70% số hộ khu vực nông thôn chưa có nhà vệ sinh đạt chuẩn, 144/144 xã chưa có khu thu
gom, xử lý rác thải).
+Hệ thống chính trị cơ sở còn yếu (nhất là trình độ năng lực quản lý, điều hành): Tỷ
lệ cán bộ xã (do dân bầu) đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, trình độ quản lý là 58,19%,


chủ yếu là trình độ trung cấp và sơ cấp; công chức xã đạt chuẩn về chuyên môn tỷ lệ là
86,58%; 29,17% số Đảng bộ, chính quyền xã chưa đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh.
Việc xây dựng nông thôn mới là một vấn đề cần thiết vì các nguyên nhân:
- Do kết cấu hạ tầng nội thôn (điện, đường, trường, trạm, chợ, thủy lợi, còn nhiều yếu
kém, vừa thiếu, vừa không đồng bộ); nhiều hạng mục công trình đã xuống cấp, tỷ lệ giao
thông nông thôn được cứng hoá thấp; giao thông nội đồng ít được quan tâm đầu tư; hệ
thống thuỷ lợi cần được đầu tư nâng cấp; chất lượng lưới điện nông thôn chưa thực sự an
toàn; cơ sở vật chất về giáo dục, y tế, văn hoá còn rất hạn chế, mạng lưới chợ nông thôn
chưa được đầu tư đồng bộ, trụ sở xã nhiều nơi xuống cấp. Mặt bằng để xây dựng cơ sở hạ
tầng nông thôn đạt chuẩn quốc gia rất khó khăn, dân cư phân bố rải rác, kinh tế hộ kém phát
triển.


-

Do sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, bảo quản chế biến còn hạn chế, chưa gắn chế biến với
thị trường tiêu thụ sản phẩm; chất lượng nông sản chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp còn chậm, tỷ
trọng chăn nuôi trong nông nghiệp còn thấp; cơ giới hoá chưa đồng bộ.

-

Do thu nhập của nông dân thấp; số lượng doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn
còn ít; sự liên kết giữa người sản xuất và các thành phần kinh tế khác ở khu vực nông thôn
chưa chặt chẽ. Kinh tế hộ, kinh tế trang trại, hợp tác xã còn nhiều yếu kém. Tỷ lệ lao động
nông nghiệp còn cao, cơ hội có việc làm mới tại địa phương không nhiều, tỷ lệ lao động
nông lâm nghiệp qua đào tạo thấp; tỷ lệ hộ nghèo còn cao.

-

Do đời sống tinh thần của nhân dân còn hạn chế, nhiều nét văn hoá truyền thống đang có
nguy cơ mai một (tiếng nói, phong tục, trang phục...); nhà ở dân cư nông thôn vẫn còn
nhiều nhà tạm, dột nát. Hiện nay, kinh tế - xã hội khu vực nông thôn chủ yếu phát triển tự
phát, chưa theo quy hoạch.

-

Do yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, cần 3 yếu tố chính: đất
đai, vốn và lao động kỹ thuật. Qua việc xây dựng nông thôn mới sẽ triển khai quy hoạch
tổng thể, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa.


-


Mặt khác, mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Vì vậy, một
nước công nghiệp không thể để nông nghiệp, nông thôn lạc hậu, nông dân nghèo khó.
Phát triển nông thôn là một quá trình nhằm cải thiện và nâng cao đời sống của người
dân nông thôn một cách bền vững về kinh tế xã hội, văn hóa và môi trường, quá trình này
trước hết là do nỗ lực của chính người dân nông thôn và có sự hỗ trợ tích cực của Chính
phủ, các tổ chức khác.
Xây dựng nông thôn mới là chính sách về một mô hình phát triển cả nông nghiệp và
nông thôn, nên vừa mang tính tổng hợp, bao quát nhiều lĩnh vực, vừa đi sâu giải quyết
nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời giải quyết các mối quan hệ với các chính sách khác, các lĩnh
vực khác trong sự tính toán, cân đối mang tính tổng thể, khắc phục tình trạng rời rạc, duy ý
chí.

2.1.3.

Vai trò của mô hình nông thôn mới trong phát triển kinh tế - xã hội
* Về kinh tế
Nông thôn có nền sản xuất hàng hóa mở, hướng đến thị trường và giao lưu, hội nhập.

Để đạt được điều đó, kết cấu hạ tầng của nông thôn phải hiện đại, tạo điều kiện cho mở
rộng sản xuất giao lưu buôn bán.

-

Thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển nhanh, khuyến khích mọi người tham gia vào
thị trường, hạn chế rủi ro cho nông dân, điều chỉnh, giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo,
chênh lệch về mức sống giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị.

-


Hình thức sở hữu đa dạng, trong đó chú ý xây dựng mới các hợp tác xã theo mô hình kinh
doanh đa ngành. Hỗ trợ các hợp tác xã ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ phù hợp với
các phương án sản xuất kinh doanh, phát triển ngành nghề ở nông thôn.
- Sản xuất hàng hóa có chất lượng cao,mang nét độc đáo, đặc sắc của từng vùng, địa
phương. Tập trung đầu tư vào những trang thiết bị, công nghệ sản xuất, chế biến bảo quản,
chế biến nông sản sau thu hoạch.

* Về chính trị
Phát huy dân chủ với tinh thần thượng tôn pháp luật, gắn lệ làng, hương ước với pháp


luật để điều chỉnh hành vi con người, đảm bảo tính pháp lý, tôn trọng kỉ cương phép nước,
phát huy tính tự chủ của làng xã.
Phát huy tối đa quy chế dân chủ ở cơ sở, tôn trọng hoạt động của các đoàn thể, các tổ
chức hiệp hội vì lợi ích cộng đồng, nhằm huy động tổng lực vào xây dựng nông thôn mới.

* Về văn hóa- xã hội
Xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư, giúp nhau xóa đói, giảm nghèo, vươn
lên làm giàu chính đáng.
Xây dựng khu dân cư đoàn kết, phát triển cộng đồng, tinh thân bền vững từ các dòng
họ phát triển lâu dài.

* Về con người
Xây dựng hình mẫu người nông dân sản xuất hàng hóa khá giả, giàu có, kết tinh các
tư cách: Công dân, dân của làng, con người của các dòng họ, gia đình.

* Về môi trường
Xây dựng và củng cố, bảo vệ môi trường, sinh thái. Bảo vệ rừng đầu nguồn, chống ô
nhiễm nguồn nước, môi trường không khí vè chất thải từ các khu công nghiệp để nông thôn
phát triển bền vững.

Các nội dung trên trong cấu trúc mô hình nông thôn mới có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau. Nhà nước đóng vai trò chỉ đạo, tổ chức điều hành quá trình hoạch định và thực thi
chính sách, xây dựng đề án, cơ chế, tạo hành lang pháp lý, hỗ trợ vốn, kĩ thuật, nguồn lực,
tạo điều kiện, động viên tinh thần. Nhân dân tự nguyện tham gia, chủ động trong thực thi
chính sách. Trên tinh thần đó, các chính sách kinh tế- xã hội sẽ tạo hiệu ứng tổng thể nhằm
xây dựng mô hình nông thôn mới.

2.1.4.

Nội dung xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới không phải chỉ nhằm xây dựng con đường, kênh mương,

trường học, hội trường...mà cái chính là qua cách làm này sẽ tạo cho người nông dân hiểu
rõ được nội dung, ý nghĩa và thúc đẩy họ tự tin, tự quyết, đưa ra sáng kiến, tham gia tích
cực để tạo ra một nông thôn mới năng động hơn. Phải xác định rằng, đây không phải đề án


đầu tư của Nhà nước mà là việc người dân cần làm, để cuộc sống tốt hơn, Nhà nước chỉ hỗ
trợ một phần.
Theo tinh thần Nghị quyết 26-NQ/T.Ư của Trung ương, nông thôn mới
là khu vực nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế
và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân
chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật
tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao;
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với tinh thần đó, nông thôn mới cần có năm nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất: Là nông thôn có làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại.
Hai là: Sản xuất bền vững, theo hướng hàng hóa.
Ba là: Đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao.

Bốn là: Bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển.
Năm là: Xã hội nông thôn được quản lý tốt và dân chủ. Những nội dung trên có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, trong quá trình thực hiện cần phải giải quyết đồng bộ và toàn
diện nhằm khơi dậy và phát huy tốt vai trò người nông dân trong công cuộc xây dựng nông
thôn mới ở nước ta ngày càng văn minh, hiện đại.

2.1.5.

Tiêu chí xây dựng nông thôn mới
Căn cứ Quyết định số: 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về

việc ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới.
Căn cứ Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ Nông nghiệp và
PTNT về việc Hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới.
* Các nhóm tiêu chí: gồm 5 nhóm

-

Nhóm I : Quy hoạch (có 01 tiêu chí)

-

Nhóm II : Hạ tầng kinh tế - xã hội (có 08 tiêu chí)

-

Nhóm III : Kinh tế và tổ chức sản xuất (có 04 tiêu chí)


-


Nhóm IV : Văn hóa - xã hội - môi trường (có 04 tiêu chí)

-

Nhóm V : Hệ thống chính trị (có 02 tiêu chí)

2.2.
2.2.1.

Cơ sở thực tiễn
Kinh nghiệm của một số nước về xây dưng mô hình nông thôn mới trên thế giới
Hiện nay các nước trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau hơn, việc trao đổi thông

tin kinh nghiệm ngày càng trở lên dễ dàng hơn giữa các quốc gia. Với tinh thần hội nhập
cùng nhau phát triển thì việc tham khảo học tập kinh nghiệm phát triển nông nghiệp, nông
thôn của các nước trên thế giới là một yếu tố quan trọng tác động đến sự phát triển kinh tế
nước ta hiện nay.

2.21.1.

Xây dựng nông thôn mới ở Hàn Quốc
Hàn Quốc nằm trên bán đảo Triều Tiên, một nước từng bị đô hộ từ cuối thế kỷ 19,

xuất phát điểm là một trong những quốc gia nghèo đói. Cuối thập kỷ 60, GDP bình quân
đầu người chỉ có 85 USD, phần lớn người dân không đủ ăn, 80% người dân nông thôn vẫn
không có điện thắp sáng và phải dùng đèn dầu, ở trong những căn nhà lợp bằng lá. Lúc ấy,
nền kinh tế của Hàn Quốc phải dựa vào nông nghiệp trong khi khắp đất nước, lũ lụt và hạn
hạn lại xảy ra thường xuyên. Xã hội Hàn Quốc thời đó là một xã hội thờ ơ, hỗn độn và vô
vọng. Mối lo lớn nhất của Chính phủ là làm sao thoát khỏi đói nghèo.

Sau trận lụt năm 1969, người dân phải tu sửa lại nhà cửa và đường sá mà không có sự
trợ giúp của Chính phủ. Điều này làm Tổng thống suy nghĩ rất nhiều và nhận ra rằng “Viện
trợ của Chính phủ cũng là vô nghĩa nếu người dân không nghĩ cách tự giúp chính mình”.
Hơn thế nữa, khuyến khích người dân tự hợp tác và giúp đỡ nhau là điểm mấu chốt để phát
triển nông thôn. Những ý tưởng này chính là nền tảng của phong trào xây dựng nông thôn
mới của Hàn Quốc sau này (Saemaul Udong).
Từ đó đến nay, phong trào Saemaul Udong đã thu được những thành tựu rất to lớn,
sau 40 năm đưa đất nước Hàn Quốc từ nghèo đói sang một nước phát triển, nằm trong tốp
G20 của thế giới với thu nhập bình quân đầu người hơn 30.000 USD/năm.

2.2.I.2.

Xây dựng nông thôn mới ở Mỹ: phát triển ngành “kinh doanh nông nghiệp ”


Mỹ là nước có điều kiện tự nhiên cực kỳ thuận lợi để phát triển nông nghiệp. Vùng
Trung Tây của nước này có đất đai màu mỡ nhất thế giới. Lượng mưa vừa đủ cho hầu hết
các vùng của đất nước; nước sông và nước ngầm cho phép tưới rộng khắp cho những nơi
thiếu mưa.
Ngành nông nghiệp Mỹ đã phát triển thành một ngành “kinh doanh nông nghiệp”,
một khái niệm được đặt ra để phản ánh bản chất tập đoàn lớn của nhiều doanh nghiệp nông
nghiệp trong nền kinh tế Mỹ hiện đại. Kinh doanh nông nghiệp bao gồm rất nhiều doanh
nghiệp nông nghiệp và các cơ cấu trang trại đa dạng, từ các doanh nghiệp nhỏ một hộ gia
đình cho đến các tổ hợp rất lớn hoặc các công ty đa quốc gia sở hữu những vùng đất đai lớn
hoặc sản xuất hàng hóa và nguyên vật liệu cho nông dân sử dụng. Cũng giống như một
doanh nghiệp công nghiệp tìm cách nâng cao lợi nhuận bằng việc tạo ra quy mô lớn hơn và
hiệu quả hơn, nhiều nông trại Mỹ cũng ngày càng có quy mô lớn hơn và củng cố hoạt động
của mình sao cho linh hoạt hơn.
Sự ra đời ngành kinh doanh nông nghiệp vào cuối thế kỷ XX đã tạo ra ít trang trại
hơn, nhưng quy mô các trang trại thì lớn hơn nhiều. Đôi khi được sở hữu bởi những cổ

đông vắng mặt, các trang trại mang tính tập đoàn này sử dụng nhiều máy móc hơn và ít bàn
tay của nông dân hơn. Vào năm 1940, Mỹ có 6 triệu trang trại và trung bình mỗi trang trại
có diện tích khoảng 67 ha, đến cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, số trang trại chỉ còn 2,2
triệu nhưng trung bình mỗi trang trại có diện tích 190 ha. Cũng chính trong khoảng giai
đoạn này, số lao động nông nghiệp giảm rất mạnh - từ 12,5 triệu người năm 1930 xuống còn
1,2 triệu người vào cuối thập niên 90 của thế kỷ trước - dù cho dân số của Mỹ tăng hơn gấp
đôi. Và gần 60% trong số nông dân còn lại đó đến cuối thế kỷ này chỉ làm việc một phần
thời gian trên trang trại; thời gian còn lại họ làm những việc khác không thuộc trang trại để
bù đắp thêm thu nhập cho mình.
Hiện nay, trong cuộc sống hiện đại ồn ào, đầy sức ép, người Mỹ ở vùng đô thị hay ven
đô hướng về những ngôi nhà thô sơ, ngăn nắp và những cánh đồng, phong cảnh miền quê
truyền thống, yên tĩnh. Tuy nhiên, để duy trì “trang trại gia đình” và phong cảnh làng quê đó


thực sự là một thách thức.

2.2.I.3.

Xây dựng nông thôn mới ở Thái Lan
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống với dân số nông thôn chiếm

khoảng 80% dân số cả nước. Để thúc đẩy sự phát triển bền vững nền nông nghiệp, Thái Lan
đã áp dụng một số chiến lược như: Tăng cường vai trò của cá nhân và các tổ chức hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh phong trào học tập, nâng cao trình độ của từng cá
nhân và tập thể bằng cách mở các lớp học và các hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực
nông nghiệp và nông thôn; tăng cường công tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giải quyết
tốt vấn đề nợ trong nông nghiệp; giảm nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ thống bảo hiểm rủi ro
cho nông dân.
Đối với các sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước đã hỗ trợ để tăng sức cạnh tranh với các
hình thức, như tổ chức hội chợ triển lãm hàng nông nghiệp, đẩy mạnh công tác tiếp thị;

phân bổ khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học và hợp lý, từ đó góp phần ngăn
chặn tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi và kịp thời phục hồi những khu vực mà tài
nguyên đã bị suy thoái; giải quyết những mâu thuẫn có liên quan đến việc sử dụng tài
nguyên lâm, thủy hải sản, đất đai, đa dạng sinh học, phân bổ đất canh tác. Trong xây dựng
kết cấu hạ tầng, Nhà nước đã có chiến lược trong xây dựng và phân bố hợp lý các công
trình thủy lợi lớn phục vụ cho nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu hết
đất canh tác trên toàn quốc, góp phần nâng cao năng suất lúa và các loại cây trồng khác
trong sản xuất nông nghiệp. Chương trình điện khí hóa nông thôn với việc xây dựng các
trạm thủy điện vừa và nhỏ được triển khai rộng khắp cả nước....
Thái Lan đã tập trung phát triển các ngành mũi nhọn như sản xuất hàng nông nghiệp,
thủy, hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp chế biến nông sản cho tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu, nhất là các nước công nghiệp phát triển.
Một số kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nêu trên cho thấy, những
ý tưởng sáng tạo, khâu đột phá và sự trợ giúp hiệu quả của nhà nước trên cơ sở phát huy
tính tự chủ, năng động, trách nhiệm của người dân để phát triển khu vực này, có ý nghĩa và


vai trò hết sức quan trọng đối với việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công nông
nghiệp - tạo nền tảng thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2.2.2.

Lịch sử hình thành và phát triển nông thôn ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp truyền thống với trên 70% dân số làm nông

nghiệp, đất trồng trọt và đất rừng chiếm 60% tổng diện tích lãnh thổ, tổng giá trị nông
nghiệp chiếm 20% GDP, nông nghiệp - nông thôn - nông dân chiếm địa vị quan trọng trong
nền kinh tế xã hội Việt Nam. Từ khi đổi mới mở cửa đến nay, Việt Nam đã không ngừng đổi
mới chính sách đất đai, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, khiến nông nghiệp nông thôn
phát triển mạnh và đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với toàn bộ quá trình phát triển kinh tế xã

hội Việt Nam.
Quá trình đổi mới chính sách đất đai ở nông thôn Việt Nam lấy sở hữu toàn dân về đất
đai làm tiền đề, lấy chế độ khoán sản phẩm đến từng hộ gia đình ở nông thôn làm khâu đột
phá. Thông qua giao quyền sử dụng đất cho nông dân, xác nhận bằng hình thức luật pháp
quyền sử dụng đất lâu dài và địa vị kinh tế chủ thể của nông dân, Việt Nam đã từng bước
thương mại hóa đất đai và quy mô hóa việc kinh doanh đất đai. Quá trình này nhìn chung
trải qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn I: chuyển từ chế độ tập thể hóa nông nghiệp sang chế độ khoán sản phẩm
đến từng hộ gia đình trong những năm 80 thế kỷ XX.
Tháng 4/1988, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết số
10 về “Đổi mới quản lý nông nghiệp”, quyết định thực hiện chế độ khoán sản phẩm đến
từng hộ gia đình trong cả nước, cho phép nông dân tự kinh doanh, quyền sử dụng đất từ 2
năm trước đây kéo dài đến 15 năm.
Giai đoạn II: bắt đầu từ những năm 90 thế kỷ XX, từng bước xây dựng chế độ về
quyền sở hữu đất đai lấy “5 quyền " làm trung tâm.
Tháng 6/1993, Hội nghị toàn thể trung ương 5 khóa 7 Đảng Cộng sản Việt Nam nêu
rõ phải để nông dân có “5 quyền” là: quyền trao đổi, quyền chuyển nhượng, quyền cho
thuê, quyền thừa kế, quyền thế chấp đất đai.


Tháng 7/1993, Quốc hội Việt Nam công bố bộ “Luật đất đai” thứ hai, xác nhận bằng hình
thức pháp luật quyền sử dụng đất lâu dài và địa vị chủ thể kinh tế của nông dân, quy định rõ
thời hạn sử dụng đất lâu dài và địa vị chủ thể kinh tế của nông dân, quy định rõ thời hạn sử
dụng đất canh tác n ông nghiệp dùng để trồng cây nông nghiệp ngắn ngày và đất nuôi trồng
thủy sản là 20 năm, thời hạn sử dụng dùng trong kinh doanh cây nông nghiệp dài ngày là 50
năm, nông dân sử dụng đất theo pháp luật, sau khi hết hạn có thể được gia hạn thêm; quyền
sử dụng đất có thể được kế thừa, cũng có thể trao đổi hoặc dùng làm thế chấp, trong một số
tình huống nào đó còn có thể cho thuê và chuyển nhượng, thời gian cho thuê và chuyển
nhượng nhiều nhất là 3 năm.
Sau đó, Việt Nam lần lượt sửa đổi, bổ sung “Luật đất đai” vào năm 1998 và năm

2001, công bố bộ “Luật đất đai” thứ 3 vào năm 2003, thời hạn sử dụng đất kéo dài nhất tới
70 năm, xác định rõ nghĩa vụ của nhà nước và người sử dụng đất, có những quy định tỉ mỉ
đối với việc phê duyệt, cho thuê, chuyển nhượng, đấu giá quyền sử dụng đất.
Giai đoạn III: Thúc đẩy thêm một bước thương mại hóa quyền sử dụng đất và quy mô
hóa kinh doanh đất đai trên cơ sở xây dựng chế độ về quyền sở hữu đất đai hoàn chỉnh.
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2001 đề xuất xây dựng và phát triển thị
trường bất động sản bao gồm cả buôn bán giao dịch quyền sử dụng đất. Đại hội X của Đảng
Cộng sản Việt Nam năm 2006 lại tiến thêm một bước nêu rõ muốn đảm bảo chuyển hóa
thuận lợi quyền sử dụng đất thành hàng hóa, làm cho đất đai thật sự trở thành vốn phát
triển, yêu cầu phải sớm giải quyết hiện trạng đất canh tác của các hộ nông dân nhỏ lẻ phân
tán, khuyến khích trao đổi đất canh tác tập trung, dùng cho thuê hoặc góp cổ phần bằng đất
đai.
Hội nghị toàn thể trung ương 7 khóa 10 Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 7/2008 thông
nghị quyết riêng về vấn đề “tam nông”, Các gia đình và cá nhân được sở hữu đất ổn định
lâu dài, nới lỏng kỳ hạn sử dụng đất, xây dựng cơ chế vận hành của thị trường về quyền sử
dụng đất công khai, minh bạch, thúc đẩy công tác dịch chuyển và tập trung đất đai để người
sở hữu đất có thể đầu tư vào các công ty và doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất như là tài


sản.
Chính sách phân phối đất đai cho nông dân sử dụng lâu dài đã giải phóng sức sản xuất
ở nông thôn, phát huy mạnh mẽ tính tích cực của nông dân, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp
và làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Từ một nước nhập khẩu lương thực trước khi đổi mới,
Việt Nam đã nhanh chóng trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo chủ yếu trên thế
giới, địa vị cơ sở của nông nghiệp được củng cố, trình độ phát triển kinh tế ở nông thôn
được nâng lên nhiều, đời sống khó khăn của người nông dân bấy lâu được cải thiện rõ rệt,
điều này đã có ý nghĩa quan trọng đối với việc đảm bảo an ninh xã hội, củng cố vững chắc
cơ sở chính quyền, nâng cao khả năng phòng tránh rủi ro của cả nền kinh tế quốc dân.
Đất đai có được trong quá trình đổi mới chính sách đã trở thành vốn ban đầu để
người nông dân thoát nghèo đi lên giàu có, ngoài chuyên tâm trồng cấy để có thu hoạch,

nông dân còn có thể tăng thêm thu nhập vào tài sản bằng các phương thức cho thuê, chuyển
nhượng, kế thừa và thế chấp đất. Địa vị kinh tế xã hội, phương thức sản xuất, sinh hoạt,
thậm chí cả cách tư duy của nông dân Việt Nam từ đó đã có những thay đổi to lớn.

2.2.3.

Lịch sử hình thành và phát triển nông thôn mới ở tỉnh Cao Bằng.
Cao Bằng là một tỉnh miền núi gồm nhiều các dân tộc sinh sống chủ yếu là các dân

tộc ít người, thiểu số, nên cuộc sống và hoạt động canh tác ở đây còn thiếu, kém phát triển,
thô sơ và lạc hậu.
Trong 5 năm 2001-2005, Ngành NN&PTNT đã có những chuyển biến tích cực, góp
phần thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV. Năm 2005,
GDP nông nghiệp chiếm 38,5%; tăng trưởng kinh tế trong nông nghiệp bình quân đạt
5%/năm; giá trị sản xuất/ 1ha đất nông nghiệp đạt 15 triệu đồng. Tổng sản lượng lương thực
có hạt đạt 205,8 nghìn tấn (tăng bình quân 9%/năm); cấp nước sinh hoạt nông thôn đạt
62,1% dấn số nông thôn (tăng bình quân 4%/năm); độ che phủ rừng đạt 48% (tăng bình
quân 1,4%/năm); phong trào xây dựng cánh đồng 30 triệu/ha ngày càng mở rộng. Xây dựng
được một số vùng nguyên liệu tập trung phục vụ công nghiệp chế biến nhằm thúc đẩy sản
xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chuyển đổi kinh tế nông nghiệp-nông thôn; đầu


tư xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, từng bước cải thiện đời sống của nhân dân.


×