MỞ ĐẦU
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con người sáng
tạo ra, chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm cung
cấp năng lượng tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện.
Với tư là chủ thể và đồng thời là vật mang văn hóa, con người hoạt động, tác động
đến môi trường xung quanh dựa trên những chuẩn mực văn hóa được thừa hưởng
từ truyền thống và giáo dục. Bởi vậy để phát huy tiềm năng con người và công
cuộc phát triển xã hội nói chung và vào việc thức đẩy tăng trưởng kinh tế nói riêng,
cần phải tính đến các yếu tốt văn hóa mà mỗi con người đang mang trong bản thân.
Em xin tìm hiểu thêm về vấn đề “ Tại sao nói Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là
động lực phát triển kinh tế - xã hội? liên hệ thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.”
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HÓA.
1. Khái niệm văn hóa.
Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển
trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia
vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được
tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người.
Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các
kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá
trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Vì thế mà số lượng các định nghĩa về văn hóa rất lớn nhưng nhìn chung
có thể phân các định nghĩa về văn hóa theo những loại chính về văn hóa như sau:
* Các định nghĩa miêu tả: Trọng tâm được đặt vào việc liệt kê tất cả
những gì mà khái niệm văn hóa bao hàm.
1
* Các định nghĩa lịch sử: Nhấn mạnh các quá trình thừa kế xã hội, truyền
thống. Các định nghĩa kiểu này dựa trên việc giả định về tính ổn định và bất biến
của văn hóa, bỏ qua tính tích cực của con người trong việc phát triển và cải biến
văn hóa.
* Các định nghĩa về chuẩn mực: Hướng vào quan niệm về lý tưởng và giá
trị.
* Các định nghĩa tâm lý học: Các định nghĩa tâm lý học nhấn mạnh vào
quá trình thích nghi với môi trường, quá trình học hỏi, hình thành thói quen, lối ứng
xử của con người.
* Các định nghĩa cấu trúc: Các định nghĩa cấu trúc chú trọng tới tổ chức
cấu trúc của văn hóa. Như R. Linton chú trọng đến hai khía cạnh của văn hóa: “a)
Văn hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của các thành
viên xã hội; b) Văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà người ta học được và các
kết quả ứng xử mà các thành tố của nó được các thành viên cuẩ xã hội đó tán
thành và truyền lại nhờ kế thừa”.
* Các định nghĩa nguồn gốc: Các định nghĩa nguồn gốc cho rằng văn hóa
được xác định từ nguồn gốc của nó. Nhà xã hội học P. Sorokin định nghĩa: “văn
hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra hay được cải biến bởi hoạt động có ý thức
hay vô thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau và tác động tới lối ứng
xử của của nhau”.
* Định nghĩa của UNESCO:
UNESCO văn hóa phản ánh và thể cũng đưa ra định nghĩa chính thức về
văn hóa: “Văn hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của đời sống của cá
nhân và các cộng đồng đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện
tại, qua hang bao thế kỷ nó đã cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống,
2
thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của
mình”.
2. Văn hóa có những đặc trưng.
- Tính hệ thống là đặc trưng đầu tiên của văn hóa, Chính nhờ có tính hệ
thống mà văn hóa, với tư cách là một đối tượng bao trùm mọi hoạt động của xã hội,
thực hiện được một trong ba chức năng cơ bản của mình là chức năng tổ chức xã
hội . Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã
hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình.
- Tính giá trị, văn hóa chỉ chứa cái đẹp, chứa các giá trị. Là thước đo mức
độ nhân bản của xã hội và con người. Các giá trị văn hóa theo chất liệu có thể chia
thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần; theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử
dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mĩ ( chân, thiện, mĩ); theo thời gian có thể chia
thành giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Sự phân biệt các loại giá trị theo thời gian
cho phép ta có được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá tính giá
trị của sự vật, hiện tượng. Nhờ thường xuyên xem xét, phân loại các giá trị mà văn
hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai là chức năng điều chỉnh xã hội,
nó định hướng các giá trị, điều chỉnh các ứng xử, nó là động lực cho sự phát triển
của xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động của mình.
- Tính lịch sử, được thể hiện ở chỗ bao giờ nó cũng hình thành trong một
quá trình và được tích luỹ qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa là một
chiều sâu; và chính nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân
loại và phân bố lại các giá trị. Và được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền
thống văn hóa là những giá trị ổn định thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được
tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian và được cố
định hoá dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán… Truyền thống văn hóa được
3
tồn tại nhờ giáo dục. Văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân
cách ở con người, trồng người, Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái
sinh là đảm bảo tính kế tục của lịch sử.
- Tính nhân sinh. là một hiện tượng xã hội, là sản phẩm hoạt động thực
tiễn của con người, Đặc trưng này cho phép phân biệt văn hóa với những giá trị tự
nhiên chưa mang dấu ấn sáng tạo của con người. Sự tác động của con người đối với
tự nhiên có thể mang tính vật chất như việc luyện quặng để chế tạo đồ dùng, đẽo gỗ
tạc tượng… hoặc mang tính tinh thần như việc đặt tên, tạo truyền thuyết cho các
cảnh quan thiên nhiên: vịnh Hạ Long, núi Ngũ Hành Sơn...
II.Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã
hội.
1. Văn hóa là mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con người sáng
tạo ra, chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm cung
cấp nhu cầu về tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện
hơn.
Phải coi văn hoá là mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội thì mới có thể khác
phục được tình trạng mâu thuẫn giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Thực
tế cho thấy không phải bao giờ giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của xã
hội cũng tỉ lệ thuận với nhau. Rất có thể xảy ra trường hợp kinh tế phát triển, đời
sống vật chất được nâng lên song xã hội lại có sự gia tăng các tệ nạn xã hội; văn
hoá, đạo đức xuống cấp. Giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi chúng ta phải khắc phục
khoảng cách giữa văn hoá và văn minh kỹ thuật.
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời là mục tiêu của sự phát
triển. Vì xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người quyết định mà văn hóa
4
thể hiện trình độ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con người và xã hội, làm
cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ; điều đó nghĩa là ngày một xa
rời trạng thái nguyên sơ, mông muội để tiến tới một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân cũng
như của cả cộng đồng được bồi dưỡng; phát huy trở thành giá trị cao quý và chuẩn
mực tốt đẹp của toàn xã hội. Mục tiêu này phù hợp với khát vọng lâu đời của nhân
loại và là mục đích phát triển bền vững, tiến bộ của các quốc gia, dân tộc. Đây là
một nội dung quan trọng của Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng.
Văn hóa do con người sáng tạo ra, chi phối hoạt động của con người, làm
cho con người ngày càng hoàn thiện, xa rời trạng thái nguyên sơ ban đầu khi từ con
vật phát triển thành con người. Con người tồn tại, không chỉ cần những sản phẩm
vật chất mà còn có nhu cầu hưởng thụ sản phẩm văn hóa tinh thần, con người và xã
hội loài người càng phát triển thì nhu cầu văn hóa tinh thần đòi hỏi ngày càng cao.
Đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần đó chính là đảm bảo sự phát triển ngày càng
nhiều của cải vật chất cho con người và xã hội.
Văn hóa là nền tảng tinh thần, đòi hỏi phải đặt văn hóa vào vị trí quan
trọng. Cũng như kinh tế tạo nên giá trị vật chất, nền tảng vật chất và nền tảng tinh
thần tạo những điều kiện cần và đủ để xã hội tồn tại và phát triển. Thiếu điều kiện
vật chất thì không có sự tồn tại của con người, nhưng thiếu điều kiện tinh thần thì
xã hội không thể phát triển được. Trong quá trình tồn tại và phát triển của lịch sử,
cơ sở vật chất và tinh thần thường xuyên thấm lẫn vào nhau và hỗ trợ lẫn nhau.
Chừng nào nền tảng tinh thần suy yếu, chừng đó xã hội sẽ lâm vào khủng hoảng,
các tệ nạn xã hội xuất hiện và sự phát triển kinh tế sẽ gặp khó khăn.
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển. mọi sự phát triển đều do con người
quyết định mà văn hóa thể hiện trình độ vun trồng ngày càng cao, làm cho con
người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ; Trong đó, bản chất nhân văn, nhân
đạo của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng được bồi dưỡng; phát huy trở
5
thành giá trị cao quý và chuẩn mực tốt đẹp của toàn xã hội. Mục tiêu này phù hợp
với khát vọng lâu đời của nhân loại và là mục đích phát triển bền vững, tiến bộ của
các quốc gia, dân tộc.
2. Văn hóa là động lực để phát triển kinh tế - xã hội.
Văn hóa là động lực của sự phát triển, mà mọi sự phát triển đều do con
người quyết định và chi phối. Các nguồn lực tác động đến sự phát triển kinh tế gồm
các nguồn lực về: nhân lực lao động, khoa học công nghệ, nguồn lực bên ngoài
nguồn vốn… yếu tố con người là quan trọng nhất. văn hóa khơi dậy và nhân lên
mọi tiềm năng sáng tạo của con người, huy động sức mạnh nội sinh to lớn trong
con người đóng góp vào sự phát triển xã hội. bảo đảm cho sự phát triển được hài
hòa, cân đối, lâu bền. Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào chuẩn
mực của nó là chân, thiện, mỹ. để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không
ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất hàng hóa
với số lượng ngày càng nhiều với chất lượng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu
không ngừng tăng lên của xã hội.
Một chính sách phát triển đúng đắn là chính sách làm cho các yếu tố cấu
thành văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người văn hóa
trong sản xuất, trong sinh hoạt gia đình, trong giao tiếp, trong quản lý, trong giao
lưu quốc tế, trong ẩm thực..(hình minh họa phần mục lục)Tức là hàm lượng trí tuệ,
hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao nhiêu
thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng trở nên hiện thực bấy nhiêu.
Vì con người là chủ thể, cũng là kết quả của văn hóa. Các giá trị văn hóa
làm nên nhưng phẩm chất năng lực tinh thần của con người, mỗi một nền văn hóa
sẽ có một kĩ thuật đặc trưng cho nền văn hóa của mình, nên mới dẫn tới sự đa dạng
hóa ngành nghề.
6
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào chuẩn mực của nó
là chân, thiện, mỹ để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy
sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, nâng cao năng suất lao động, đáp
ứng nhu cầu không ngừng tăng lên của xã hội; mặt khác, văn hóa sử dụng sức
mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý, dân tộc để hạn chế những mặt tiêu
cực của nền kinh tế thị trường.
văn hóa không chỉ là mục tiêu, động lực phát triển kinh tế- xã hội mà văn
hóa còn là định hướng và là kết quả nhân văn của một nền kinh tế lành mạnh. Bởi
vì văn hóa là yếu tố căn bản nhất để định nghĩa con người: con người là một sinh
vật có văn hóa.
Toàn cầu hóa kinh tế quốc tế là một xu thế, đòi hỏi chúng ta phải chủ
động và tích cực hội nhâp. Đây là cơ hội để chúng ta phát triển nhanh có hiệu quả,
nhưng cũng là thách thức rất lớn với nước ta trên nhiều mặt, trong đó có cả văn
hóa. Lúc này, nền văn hóa dân tộc sẽ đóng vai trò định hướng và điều tiết để hội
nhập và phát triển bền vững, hội nhập để phát triển nhưng vẫn giữ vững được độc
lập, tự chủ. Do đó, chúng ta cần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong
quá trình hội nhập, phát triển.
III. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
1. Thực tiễn ở Việt Nam.
* Mặt tích cực.
Trong bối cảnh hiện nay vai trò của văn hoá đã và đang tham gia vào quá
trình phát triển kinh tế. Lịch sử phát triển của loài người cho thấy, ở bất kỳ thời kỳ
nào, con người cũng đều đóng vai trò quyết định với quá trình sản xuất, mà trước
hết, họ là một thực thể văn hoá. Tố chất con người có ý nghĩa quyết định làm nên
sức mạnh của văn hoá ở mỗi quốc gia - dân tộc. Hiện nay nói đến tiềm năng phát
7
triển của mỗi quốc gia, người ta không chỉ nói tới tiềm lực về kinh tế, tài nguyên
thiên nhiên, mà phải nói tới yếu tố quyết định là văn hoá, được thể hiện qua năng
lực, trí tuệ, tài năng, đạo đức của con người ở quốc gia đó...
Chúng ta xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội theo hướng xã hội chủ
nghĩa, và điều Đảng ta khẳng định: Văn hoá vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đã chỉ rõ vai trò cực kỳ quan trọng của văn hoá
đối với sự phát triển của đất nước. Vì vậy, cần nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò
của văn hoá trong sự nghiệp đổi mới. Theo đó Đảng ta xác định tiến hành đồng bộ
và gắn kết chặt chẽ ba lĩnh vực: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng,
chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt cùng với việc xây dựng văn hóa, nền tảng
tinh thần của xã hội nhằm tạo nên sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của
đất nước, quan điểm của Đảng ta, phát triển là một bước tiến toàn diện và đồng bộ
về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và môi trường. Phát triển bao hàm sự
tăng trưởng về kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển
văn hoá tiên tiến mang đậm phong cách Việt.
Dân tộc ta luôn có một lối sống hòa hợp, hài hòa với thiên nhiên. Nó đưa
ra mô hình ứng xử có văn hóa của con người đối với thiên nhiên, vì sự phát triển
bền vững của thế hệ hiện nay và các thế hệ con cháu mai sau, bản sắc văn hoá, tinh
thần dân tộc là nguồn tài nguyên của dân tộc, của đất nước. Có thể nói rằng, trong
lịch sử hàng chục thế kỷ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta, nguồn lực quan
trọng nhất trong truyền thống văn hoá là tinh thần yêu nước. Từ khi ra đời, Đảng ta
đã động viên, bồi dưỡng và cổ vũ toàn dân phát huy cao độ tinh thần yêu nước để
giành lại, giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tế cho thấy,
những thành tựu to lớn mà, toàn dân ta đã đạt được trong hơn nửa thế kỷ qua có vai
trò của bản lĩnh, của sức mạnh của văn hoá Việt Nam.
8
Thế kỷ XIX đã sang, đặt ra cho ta nhiều cơ hội mới, vì lý do đó chúng ta
cần đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, mở rộng giao lưu quan hệ
quốc tế, để đạt tới các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay
và về lâu dài trong tương lai, một trong các vấn đề quan trọng trước hết là chúng ta
cần triển khai thực hiện các quan điểm như Nghị quyết Trung ương khoá VIII và
Kết luận Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã nêu lên:
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đó là
nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc mang nội dung cốt lõi là độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những
tinh hoa văn hoá của nhân loại. Điều đó đòi hỏi chúng ta cần tiếp tục củng cố, phát
triển một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong
đa dạng; và văn hoá đó phải là tổng hoà các tinh hoa văn hoá của các dân tộc anh
em cùng chung sống trên đất nước Việt Nam. Văn hoá đó phải giữ vị trí là bộ phận
cấu thành bản chất của xã hội, là bộ phận cấu thành phẩm chất của mỗi người trong
xã hội.
Hơn nữa, trong những năm qua thì Nhà nước ta không ngừng cải cách và nâng
cao chất lượng của bộ máy giáo dục nhằm phát triển văn hóa tri thức của con người
một cách toàn diện. Mở rộng giao lưu văn hóa với các quôc gia trong khu vực và
trên thế giới nhằm trau rồi và tiếp thu nhưng tinh hoa văn hóa của các nước…
* Mặt tiêu cực.
Nước ta đang trên đà hội nhập thế giới, su thế toàn cầu hóa là cơ hội để
văn hoá nước ta học hỏi và phát huy hơn nữa các giá trị văn hóa của mình. Kèm
theo đó thì chúng ta phải đối mặt với các thách thức của quá trình toàn cầu hoá khi
nó trực tiếp tác động tới bản sắc dân tộc, làm tha hoá nhân cách, rối loạn một số giá
trị xã hội, đặt không ít hoạt động văn hoá và nhiều quan hệ xã hội trước nguy cơ bị
thương mại hoá... vậy văn hoá phải góp phần bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá
9
đích thực, vì sự phát triển của xã hội và con người, để thúc đẩy, hướng dẫn sự phát
triển trước những thách thức của toàn cầu hoá và mặt trái của kinh tế thị trường.
Toàn cầu hóa quốc tế là một xu thế, đòi hỏi chúng ta phải chủ động và
tích cực hội nhâp. Đây là cơ hội để chúng ta phát triển nhanh có hiệu quả, nhưng
cũng là thách thức lớn với nước ta trên nhiều mặt, trong đó có cả văn hóa. Sự thâm
nhập của văn hóa độc hại, của sự lai căng văn hóa..., đã và đang ảnh hưởng, làm
hủy hoại những giá trị văn hóa truyền thống.
Hiện nay có rất nhiều phim ảnh, các loại hình nghệ thuật,âm nhạc, các
loại trò chơi trò chơi trực tuyến, chúng ta cần phải làm sao để các sản phẩm văn
hóa của ta đủ sức cạnh tranh, trước hết là ở thị trường nội địa, rồi sau sẽ tính tới thị
trường trên khu vực và thế giới.
Yếu tố văn hóa có một vị thế quan trọng xét về nội lực của con người và
xã hội của một dân tộc trong cuộc cạnh tranh toàn cầu hóa, hội nhập với thế giới,
vậy nước ta cần tăng cường nội lực của mình thông qua những chính sách văn hóa
như thế nào, để có thể giành thắng lợi trong hội nhập hiện nay?
2. Giải pháp nhằm nâng cao văn hóa ở nước ta.
Thứ nhất, đẩy mạnh và phát triển hơn nữa hệ thống giáo dục quốc gia :
Muốn làm tốt công tác này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ đồng bộ giữa các
cấp ủy Đảng, các bộ - nghành, các tổ chức đoàn thể và các phòng ban liên quan để
bộ máy giáo dục ngày càng trong sạch, quán triệt tối đa được những tiêu cực trong
giao dục.
Thứ hai, giáo dục lối sống văn hóa xây dựng lối sống văn hóa: Để hoạt
động này trở thành phong trào sâu rộng, có hiệu quả cần đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, tổ chức vào thời điểm phù hợp. Hình thức tổ chức là phối hợp chặt chẽ giữa
các ngành hữu quan để tổ chức chiến dịch “Ánh sáng văn hóa”, “Xóa nạn mù chữ”,
10
“Mùa hè xanh”, các đợt lao động tình nguyện làm đường, cầu, cống, nhà trẻ… ở
các địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, nơi căn cứ cách mạng.
Thứ ba, đổi mới cơ chế quản lí văn hóa, thể thao, du lịch phù hợp với
quản lí đa ngành, đa lĩnh vực. Tăng cường mức đầu tư cử nhà nước và xã hội cho
văn hóa. Tăng cường hơn nữa sự giao lưu, phát triển văn hóa với các quốc gia trong
khu vực và thế giới.
Thứ tư, cần xác định rõ phương hướng của chính sách phát triển văn hóa
Việt Nam là phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng, truyền thống đại đoàn
kết dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để thực
hiện được điều này cần bám sát và thực hiện theo đúng đương lối, chủ trương và
chính sách của Đảng,của Nhà nước.
Thứ năm, tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa
vật thể và phi vật thể của đất nước ở các vùng, các miền, các dân tộc thiểu số, kết
hợp hài hòa việc bảo vệ và phát huy di sản với các hoạt động phát triển kinh tế, du
lịch, chú trọng việc giáo dục truyền thống lịch sử và truyền thống cách mạng cho
các thế hệ công dân.
Thứ sáu mỗi chúng ta hãy tích cực giữ gìn và phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, học tập, tiếp thu khoa học – kĩ thuật tiên tiến, tinh
hoa văn hóa của các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Từ đó, đưa Việt Nam lên một
bậc mới, lên một tầm cao mới, sánh vai với các cường quốc năm châu.
11
KẾT LUẬN
Với mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, Bản sắc văn hóa mỗi dân tộc đã đóng góp chung cho nền văn minh nhân
loại, làm cho nó đa dạng, phong phú, kết tinh những tinh hoa văn hóa của các dân
tộc ở khắp các châu lục. Văn hóa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế
- xã hội. Văn hóa với tư cách là sức mạnh mềm, sức mạnh nội sinh, nền tảng tinh
thần của một dân tộc, đóng vai trò to lớn thúc đẩy sự phát triển của cả dân tộc nói
chung và của nền kinh tế nói riêng. Việc giao lưu văn hóa giữa các nước trên thế
giới là rất cần thiết, nó là nguồn bổ sung, làm ữ được nền văn hóa dân tộc, không
đánh mất bản sắc của chính mình. giàu có thêm cho nền văn hóa mỗi dân tộc. Một
nền văn hóa đóng cửa khép kín sẽ khô héo, thiếu sức sống và kém phát triển. Vấn
đề đặt ra là khi giao lưu, hội nhập quốc tế là không chỉ tiếp thụ những tinh hoa văn
hóa của nhân loại, đồng thời chúng ta phải giữ gìn và phát huy những giá trị truyền
thống và kế thừa những tinh hoa văn hóa nhân loại, góp phần nâng Việt Nam lên
một tầm cao mới.
12
PHỤ LỤC
Liên hoan nghệ thuật các quốc gia ASEAN
Giao lưu văn hóa Hội An – Nhật Bản
13
Khai trương làng văn hóa – du lịch các dân tộc Việt Nam
Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, ngày 11 tháng 6 năm 2013.
14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại cương về văn hóa Việt Nam, nhà xuất bản văn hóa thông tin, Hà Nội
2004
2. Sự gia tăng vai trò của văn hóa trong điều kiện toàn cầu hóa, Phạm Thái
Việt, Tạp chí thông tin khoa học xã hội, viện thông tin KHXH, số 6,
2003.
3. Văn hóa – mở rộng giao lưu, mở rộng tiếp nhân, giữ gin bản sắc dân tộc:
Từ năm 1999 nhìn sang thế kỷ XXI. Trần Trọng Đăng Đàn, Tạp chí cộng
sản, số 4 – tháng 2, 1999.
4. />5. />6. />7. />option=com_content&view=article&id=5105:vn-hoa-vi-tinh-cach-la-nglc-phat-trin-ca-xa-hi&catid=112:tin-van-hoa-tu-tuong&Itemid=488
15
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………....1
NỘI DUNG………………………………………………………………...….1
I. Khái quát chung của văn hóa ……………………………………………….1
1. Khái niệm văn hóa…………………………………………………...….1
2. Văn hóa có những đặc trưng………………………………………...…..3
II. Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội…...…4
1.Văn hóa là mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội…………………………..4
2. Văn hóa là động lực để phát triển linh tế - xã hội……………………….6
III. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam hiện nay……………………………………7
1. Thực tiễn ở Việt Nam hiện nay…………………………………....…….7
2. Giải pháp nhằm nâng cao văn hóa nước ta……………………………..10
KẾT LUẬN…………………………………………………………………...12
PHỤ LỤC……………………………………………………………………..13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………..15
16