Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Xuất bản với việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.08 KB, 49 trang )

MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế ngày
càng diễn ra mạnh mẽ trên qui mô lớn. Cùng với sự phát triển như vũ bão của
cuộc cánh mạng khoa học - công nghệ hiện đại và mạng thông tin toàn cầu,
“ngôi nhà” Thế Giới dường như trở nên “nhỏ bé” hơn. “Toàn cầu hóa kinh tế
tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây
khó khăn, thách thức lớn cho quốc gia, nhất là các nước đang phát triển”. Sự
ảnh hưởng này không chỉ về phương diện kinh tế. Bất luận tham gia chủ động
hay buộc phải cuốn theo một cách bị động vào quá trình toàn cầu hóa thì văn
hóa dân tộc đều phải tiếp xúc, giao thoa với các nền văn hóa khác trên Thế
Giới. Điều này đặt ra cho đất nước ta những thách thức mới trong quá trình
hội nhập, đặc biệt là vấn đề xây dựng và giữ gìn nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc.
Việt Nam là một bộ phận của Thế Giới. Một dân tộc mà phần lớn
những trang sử hào hùng được viết nên bằng máu và nước mắt của người dân
bởi chiến tranh liên miên. Đó là một dân tộc anh hùng đã anh dũng chiến đấu
và chiến thắng những đế quốc hùng mạnh nhất Thế Giới trong mọi thời kì lịch
sử để hôm nay vững tin vào công cuộc xây dựng đất nước, hội nhập với Thế
Giới. Việc mở cửa hội nhập kinh tế với Thế Giới là một nhu cầu thiết yếu đối
với lẽ sinh tồn của mỗi quốc gia. Thực tế cho thấy không một quốc gia nào có
thể tự phát triển nếu đứng đơn lập. Và với một đất nước đã trải qua thời kì
phong kiến gần nghìn năm, sự thống trị của thực dân, đế quốc ngót trăm năm
như Việt Nam chúng ta thì yêu cầu hội nhập càng được coi trọng. Hội nhập
với những nền kinh tế Thế Giới cho phép ta đi tắt đón đầu, thực hiện cùng
một lúc hai bước đi đó là công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Nhưng bên cạnh
đó nó lại đặt nước ta và những nước phát triển khác trước những khó khăn,
thử thách mới.
1



Văn hóa là Thế Giới riêng do con người sáng tạo ra phục vụ nhu cầu
con người, đặc trưng cho mỗi dân tộc. Văn hóa của một dân tộc là những cái
mà qua đó một dân tộc tự biểu hiện mình tự nhận biết mình và là “tấm thẻ căn
cước” để giúp mỗi dân tộc phân biệt dân tộc mình với dân tộc khác. Một quốc
gia phát triển bền vững phải đi lên từ nền tảng văn hóa bởi văn hóa là nền
tảng tư tưởng của xã hội. Bất cứ nước nào tự đặt ra cho mình mục tiêu phát
triển kinh tế mà tách rời mục tiêu văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra mất cân đối
cả về kinh tế lẫn văn hóa và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu đi
rất nhiều.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một trong
những vấn đề cấp bách của đất nước ta hiện nay. Bởi đây không phải vấn đề
liên quan đến cá nhân hay tổ chức nào mà nó liên quan tới vấn đề quốc gia
dân tộc. Vậy làm thế nào trong khi hội nhập mà chúng ta vẫn giữ gìn và phát
huy được bản sắc văn hóa dân tộc đã và đang là vấn đề bức xúc đặt ra cho
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hiện nay. Vì mục đích của chúng ta tham
gia hội nhập không chỉ vì một cuộc sống tiện nghi mà còn là phát triển một
nền văn hóa dân tộc Việt Nam ngày càng tiên tiến, hiên đại và đậm đà bản sắc
dân tộc. Hiểu được tầm quan trọng của văn hóa đối với xã hội, Xuất bản luôn
coi văn hóa là một trong những mục tiêu hàng đầu của mình nhất là trong giai
đoạn hiện nay của đất nước.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đất nước ta đã có
nhiều chuyển biến tích cực. Từ lĩnh vực kinh tế, chính trị đến các lĩnh vực như
văn hóa, xã hội, khoa học - kĩ thuật,... Mọi ngành nghề, lĩnh vực như “khoác
trên mình tấm áo mới”. Hòa vào dòng chảy đó, ngành Xuất bản đã có nhiều
chuyển biến tích cực và ngày càng khẳng định vai trò của mình trong xã hội.
Xuất bản đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội. Nó là
công cụ để truyền bá tri thức, trao đổi thông tin, lưu giữ những giá trị văn hóa,
…là một trong những hoạt động trung tâm của hệ thống giáo dục, tạo lập,
phân phối kiến thức và nuôi dưỡng một nền trí tuệ dân tộc. Bê cơn - nhà Triết
2



học người Anh đã từng nói: “Sách vở là con tàu tư duy vượt qua sóng nước
thời gian và trân trọng chở những hàng hóa quý giá từ thế hệ này sang thế hệ
khác”. Mà “sách” lại là sản phẩm chính của xuất bản.
Xuất bản là một lĩnh vực văn hóa tư tưởng, là bộ phận thiết yếu của đời
sống văn hóa. Bởi lẽ, trong tổng thể các hoạt động văn hóa, công tác xuất bản
có khả năng thực hiện có hiệu quả hầu hết các nhiệm vụ cơ bản của hoạt động
văn hóa. Công tác xuất bản thực sự là một trong những mũi xung kích góp
phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Thấy được vai trò to lớn của ngành Xuất bản trong công cuộc xây dựng
và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, em đã quyết định chọn làm tiểu luận với
đề tài: “Xuất bản với việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc ở Việt Nam hiện nay”.
II. Mục đích nghiên cứu
Chứng minh được đề tài cần nghiên cứu là mục đích của bài tiểu luận.
Đó là vai trò của hoạt động xuất bản đối với văn hóa, ở đây là việc xây dựng
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể là:
1) Làm sáng tỏ các khái niệm có liên quan đến xuất bản và văn hóa.
2) Vai trò của hoạt động xuất bản đối với lĩnh vực văn hóa.
3) Những ảnh hưởng của văn hóa tới hoạt động xuất bản.
4) Thực trạng xuất bản ở nước ta hiện nay đối với văn hóa.
5) Từ đó nêu ra một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng của công tác xuất bản ở nước ta hiện nay.
Tất cả đi đến làm rõ vấn đề đó là vai trò của hoạt động xuất bản đối với
việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện
nay. Xuất bản là một bộ phận quan trọng trong hoạt động văn hóa xã hội, là
nhân tố không thể thiếu trong đời sống văn hóa. Có vai trò quan trọng trong
việc xây dựng, bảo tồn, giữ gìn, truyền bá văn hóa dân tộc. Với định hướng xã
hội chủ nghĩa, nền văn hóa Việt Nam hiện đại phải là nền văn hóa có những

phẩm chất ưu tú, thể hiện được những đặc trưng tiến bộ nhất của nhân loại
3


hiện nay. Những phẩm chất ấy đã được khẳng định trong mục tiêu: Xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
III. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng tài liệu trong giáo trình, các bài giảng được học trên lớp,
những báo cáo thực tế trong các kì Đại hội của Đảng; tham khảo các sách,
báo, tạp chí.
Sử dụng các phương pháp: Tổng hợp, phân tích tài liệu, thống kê, đánh
giá, so sánh,…
IV. Kết cấu
Tiểu luận được chia làm 3 phần: Mở đầu, nội dung, kết luận.

4


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. Các khái niệm liên quan
1. Văn hóa, hoạt động văn hóa, nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc.
a. Văn hóa
Muốn nghiên cứu vai trò của văn hoá đối với sự tồn tại và phát triển,
trước hết chúng ta phải có một khái niệm về văn hoá. Văn hoá là một lĩnh vực
rộng lớn rất phong phú và đa dạng. Cho đến nay khái niệm văn hóa vẫn còn
được quan niệm khác nhau và thường được xét trên những phạm vi và bình
diện khác nhau.

Theo thư tịch cổ Trung Hoa, “văn hóa” được hiểu theo nghĩa văn trị,
giáo hóa, là chế độ lễ nhạc, điển chương, là cách thức cai trị mang hình thức
đẹp đẽ kết hợp với giáo hóa.
Trong văn minh phương Tây cổ đại, khởi đầu “văn hóa” là sự gieo
trồng, cày vỡ đất đai, chăm sóc cây trồng,… xuất hiện trong văn hóa Hy Lạp La Mã. Đến cuối thời cổ đại, “văn hóa” mở rộng có thêm nghĩa trừu tượng:
Chỉ sự mở mang phát triển tinh thần của con người.
Đến thế kỉ XVIII, văn hóa trở thành một thuật ngữ được dùng khá rộng
rãi trong các ngành khoa học mới xuất hiện do nhu cầu tìm hiểu nền văn hóa
của các dân tộc ngoài châu Âu. Đây cũng là cơ sở thực tiễn thúc đẩy sự ra đời
của ngành học này. Thế kỉ XIX, khoa học văn hóa thực sự ra đời trước hết là
ở Anh, gắn với tên tuổi E.B.Tylor.
Ông Mayo (F.Mayor), nguyên Tổng giám đốc UNESCO đưa ra khái
niệm vừa khái quát, vừa có tính đặc thù về văn hóa: “Văn hóa bao gồm tất cả
những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác từ những sản phẩm tinh
vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao

5


động”. Khái niệm này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên
Chính phủ về các chính sách văn hóa tại Vơnise năm 1970.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 4, “Văn hóa: Toàn bộ những
hoạt động sáng tạo và những giá trị của nhân dân một nước, một dân tộc về
sản xuất vật chất và tinh thần trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước...”
Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh thì cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt
hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa”.
Văn hoá là một hiện tượng khách quan, là tổng hoà của tất cả các khía

cạnh của đời sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của cuộc sống
cũng mang những dấu hiệu văn hoá. Rất nhiều thứ thoạt nhìn thì giống nhau,
nhưng nếu xem xét kỹ lại có những điểm riêng biệt.
Văn hóa với nghĩa đích thực của nó là sự tổng hòa của mọi giá trị vật
chất và tinh thần do con người tạo ra, là nền tảng của mỗi con người cũng như
của xã hội. Văn hóa là môi trường thứ hai, trong đó mỗi người được sinh ra
và lớn lên. Môi trường văn hóa tác động trực tiếp tới sự hình thành nhân cách,
sự phát huy mọi năng lực sáng tạo, khả năng giao tiếp giữa con người với con
người, giữa con người với tự nhiên. Văn hóa là sự tổng hợp của các phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
Cũng như tất cả các ngành khoa học xã hội khác, văn hoá cũng có lịch
sử hình thành và phát triển lâu dài trong lịch sử xã hội loài người. Do đó,
trong quá trình phát triển của lịch sử thì quan niệm về văn hoá cũng có những
biến đổi. Văn hoá tồn tại dưới các hình thức như: Các công trình kiến trúc, vật
dụng, ẩm thực, ngôn ngữ, tập quán, âm nhạc, tôn giáo,…
Văn hoá tồn tại và phát triển trong mối quan hệ thích nghi giữa con
người với tự nhiên, giữa con người với con người. Vì vậy, văn hoá không
6


phải là giá trị cố định, bất biến mà văn hoá luôn phát triển. Văn hoá là mục
tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, kết tinh mọi sáng tạo trên các
lĩnh vực do con người tạo ra. Văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy, văn hóa là toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra
trong quá trình hoạt động thực tiễn trên cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và
sản xuất tinh thần. Các giá trị này được cộng đồng chấp nhận, vận hành trong
đời sống xã hội, được xã hội giữ gìn, trao chuyển cho thế hệ sau. Văn hóa thể

hiện trình độ phát triển và những đặc tính riêng của dân tộc. Văn hóa của một
dân tộc, theo nghĩa căn bản nhất là toàn bộ những cái qua đó một dân tộc tự
biểu hiện mình, tự nhận biết mình và giúp các dân tộc khác nhận biết mình văn hóa là “tấm thẻ căn cước” của các dân tộc.
b. Hoạt động văn hóa
Hoạt động văn hóa là khái niệm theo nghĩa hẹp của văn hóa, đó là một
lĩnh vực hoạt động của con người, một lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, khoa học,
công nghệ bên cạnh lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội.
Lĩnh vực văn hóa là những hoạt động đặc thù của con người thể hiện ý
thức muốn làm đẹp thêm cuộc sống của mình dưới nhiều hình thức phong
phú, đa dạng, ngày càng giàu chất sáng tạo, để biến cái ý thức làm đẹp đó
thành hiện thực cuộc sống.
Hoạt động văn hóa có những đặc điểm sau:
1) Là hoạt động mang tính kế thừa.
2) Mang dấu ấn cá nhân và có tính sáng tạo.
3) Đó là hoạt động văn hóa mang tính giao lưu rộng rãi.
Lĩnh vực văn hóa bao gồm rất nhiều bộ phận hoạt động với các chức
năng cụ thể khác nhau. Song chúng đều thực hiện bốn nhiệm vụ cơ bản:
1) Sáng tạo ra các giá trị văn hóa: Các giá trị phi vật thể, vật thể; sản
xuất các sản phẩm văn hóa phục vụ nhu cầu tinh thần con người. Đó là chức
7


năng của các Hội sáng tạo văn hóa, nghệ thuật, các viện nghiên cứu

khoa

học.
2) Truyền bá các giá trị, các sản phẩm văn hóa trong xã hội, biến các
giá trị văn hóa tinh thần thành các vật thể để truyền bá bằng các phương tiện
và công cụ khác nhau,… Đó là chức năng của các phương tiện thông tin đại

chúng nhà tuyên truyền, người biểu diễn nghệ thuật,...
3) Bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc, giao lưu văn hóa nhân loại, trao
truyền văn hóa cho các thế hệ sau. Nhiệm vụ này do nhiều cơ quan đảm
nhiệm: Bảo tồn, bảo tàng, hệ thống thư viện, du lịch văn hóa,...
4) Tổ chức đời sống văn hóa công cộng để tiêu dùng văn hóa, biến các
giá trị văn hóa tinh thần thành hiện thực trong cuộc sống, làm phong phú tinh
thần xã hội. Đó là chức năng của tất cả các cơ quan văn hóa.
Tóm lại, hoạt động văn hóa chính là quá trình hoạt động sáng tạo đặc
biệt của con người nhằm sản xuất, phổ biến và tiêu dùng các giá trị, các sản
phẩm văn hóa. Đó là quá trình sản xuất, tái sản xuất mở rộng các giá trị văn
hóa, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng tăng, xây dựng nền văn hóa
đa dạng của các dân tộc và nhân loại.
c. Nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Vậy như thế nào là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc? Có
rất nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề thế nào là “bản sắc dân tộc” của nền văn
hóa? Có ý kiến cho rằng nói đến bản sắc dân tộc của nền văn hóa chính là nói
đến một nền văn hóa có gốc rễ, cội nguồn dân tộc. Có ý kiến cho rằng nói bản
sắc văn hóa dân tộc thực chất là nói đến “thẻ căn cước” của một dân tộc, nó
chỉ rõ dân tộc ấy là ai, những truyền thống gì do dân tộc tạo nên và đã thâm
nhập vào tâm hồn của dân tộc, được nhân dân nuôi dưỡng và thường xuyên
bồi bổ, phát triển trong đời sống của mình. Theo ý kiến này, bản sắc dân tộc
của văn hóa khẳng định sự tồn tại của dân tộc, phân biệt sự khác nhau giữa
các dân tộc và nó biểu hiện tính độc đáo của dân tộc.

8


Theo Hiến pháp sửa đổi (1993) thì nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc
tức là nền văn hóa mang đầy đủ các nội dung về yếu tố dân tộc, dân chủ, nhân
văn và hiện đại. Tính dân tộc thể hiện qua 3 khía cạnh: Là nền văn hóa có cội

nguồn, gốc rễ dân tộc, phát triển dựa trên điều kiện sức mạnh của dân tộc và
phát triển luôn luôn vì lợi ích dân tộc, vì hạnh phúc, phồn vinh của dân tộc.
Tính dân chủ được biểu hiện thông qua sự mở rộng và phát triển dân chủ để
khẳng định chủ thể của nền văn hóa thuộc về nhân dân, để khai thác triệt để
tiềm nặng văn hóa dân tộc, phát hiện và phát triển những tài năng văn hóa.
Tính nhân văn của nền văn hóa biểu hiện sự trân trọng những giá trị của con
người, nền văn hóa thấm nhuần những giá trị nhân đạo sâu sắc và phát triển
nhấn mạnh quy luật quan hệ nhân tính, khẳng định vai trò văn hóa ở con
người, khoan dung và mang nặng tình người. Tính hiện đại của nền văn hóa
thể hiện qua việc phát triển nền văn hóa dựa trên cơ sở vật chất ngày càng
hiện đại, dựa trên khoa học - công nghệ hiện đại và phục vụ cho việc đào tạo,
giáo dục con người theo hướng hiện đại, phát triển dựa trên tư tưởng tiến bộ
xã hội.
Bản sắc văn hoá dân tộc là sắc thái “gốc”, là những đường nét, màu sắc
riêng biệt không thể trộn lẫn của một nền văn hoá. Bản sắc dân tộc làm nên
cốt lõi vững chắc giúp cho nền văn hoá luôn giữ được tính duy nhất, tính nhất
quán trong quá trình phát triển. Mỗi cá nhân với tư cách là một chủ thể sáng
tạo văn hoá luôn thống nhất cái riêng của bản thân mình và cái chung của dân
tộc và cái nhân loại. Do vậy, bản sắc dân tộc của văn hoá luôn chứa đựng cả
tính nhân loại, cả tính khu vực và tính tộc người.
Bản sắc văn hóa dân tộc được ví như tấm chứng minh thư, thẻ căn
cước, những màu sắc và đường nét riêng biệt không thể trộn lẫn của một nền
văn hoá. Do đó, bản sắc văn hoá dân tộc có vai trò cực kỳ quan trọng đối với
sự tồn tại và phát triển của đất nước. Với vai trò là “bệ đỡ” bản sắc văn hoá
dân tộc đã giúp cho dân tộc Việt Nam đứng vững suốt hàng chục thế kỷ trước
sự nô dịch cũng như âm mưu đồng hoá của ngoại bang. Và chính sự du nhập
9


của văn hoá ngoại bang đã tạo nên cốt cách, diện mạo không thể bị tiêu diệt

của văn hoá Việt Nam. Nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một
nền văn hóa biết lưu truyền những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
biết “gạn đục khơi trong” để tiếp nối dòng chảy của nền văn hóa mà tổ tiên họ
để lại. Giao lưu và tiếp biến văn hóa là một quy luật tất yếu, một nhu cầu tự
nhiên của mỗi dân tộc, mỗi con người hiện đại. Vấn đề đặt ra là làm thế nào
để giao lưu và tiếp biến văn hóa mà không đánh mất đi bản sắc riêng của dân
tộc mình hay là nói cách khác là làm thế nào để “hòa nhập mà không hòa tan”
vào nền văn hóa được tiếp nhận.
2 . Xuất bản và xuất bản phẩm
a. Xuất bản
Xuất bản là một từ Hán Việt. Về từ loại là một động từ, có nghĩa là phổ
biến rộng bằng cách in và phát hành những sách, báo, tranh ảnh và các văn
bản khác.
Trong ngôn ngữ châu Âu, xuất bản theo tiếng Anh là Publish, theo
tiếng Pháp là Publeir, đều bắt nguồn từ tiếng Lating là Publicare có nghĩa là
công bố cho mọi người biết.
Trong lịch sử văn minh, ngành xuất bản ra đời là sản phẩm của nền văn
minh nhân loại đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nó vừa là thành quả
vừa là công cụ thiết yếu thúc đẩy sự phát triển của văn minh nhân loại, có vai
trò quan trọng đối với sự phát triển của văn minh.
Khái niệm xuất bản với tư cách là khái niệm của khoa học xuất bản là sự
khái quát hóa một quá trình hoạt động vừa là hoạt động sáng tạo tinh thần, vừa
hoạt động sáng tạo vật chất. Khái niệm xuất bản có thể được hiểu theo ba nghĩa:
• Thứ nhất, xuất bản là hoạt động gia công biên tập đối với các tác
phẩm, làm cho nó phù hợp với nhu cầu của độc giả.
• Thứ hai, xuất bản là hoạt động nhân bản hàng loạt tác phẩm đã được
gia công, làm cho nó có một hình thức vật phẩm xác định để cung cấp cho
độc giả sử dụng.
10



• Thứ ba, xuất bản là hoạt động truyền bá rộng rãi các sản phẩm xuất
bản đã hoàn thành sau quá trình sản xuất, nhân bản.
Xuất bản là hoạt động truyền bá xã hội. Nó không sáng tác ra tác phẩm
mới, mà sử dụng các tác phẩm đã có để truyền bá, phổ biến. Xuất bản là khâu
nối tiếp, nâng cao các giá trị văn hóa, nhân rộng và mang chúng đến với
quảng đại quần chúng trong xã hội.
Tóm lại, xuất bản là công việc trung gian giữa tác giả với độc giả, là
hoạt động truyền bá xã hội. Xuất bản là một tổ hợp hoạt động văn hóa vật
chất và tinh thần, là một quá trình nối tiếp, đồng bộ hoàn chỉnh, gồm ba khâu:
Biên tập, in và phát hành các xuất bản phẩm trong xã hội.
Hoạt động xuất bản là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa - tư tưởng
thông qua việc sản xuất, phổ biến những xuất bản phẩm đến nhiều người.
Bản chất của hoạt động xuất bản là hoạt động truyền bá xã hội. Xuất
bản không tạo ra các tác phẩm nhưng sử dụng các tác phẩm đó để truyền bá,
phổ biến. Nó là khâu tiếp nối, nâng cao các giá trị văn hóa, nhân rộng và
mang đến với quần chúng quảng đại trong xã hội.
Xuất bản vừa là một hoạt động văn hóa tinh thần, vừa là một hoạt động
sản xuất lưu thông. Đáp ứng những nhu cầu văn hóa, tư tưởng xã hội là mục
đích của hoạt động xuất bản. Việc sản xuất, lưu thông các xuất bản phẩm là
phương thức, phương tiện hoạt động của sự nghiệp xuất bản.
b. Xuất bản phẩm
Xuất bản phẩm gắn liền với sự ra đời của hoạt động xuất bản. So với
sách xuất bản phẩm ra đời sau bởi lịch sử khẳng định rằng có thời kì tương
đối dài. Sách được sáng tác song chỉ là độc bản chủ yếu để ghi nhớ, lưu trữ.
Sách cổ không phải là một xuất bản phẩm theo nghĩa thông thường. Khi xuất
bản ra đời mà bản chất nó là hoạt động truyền bá và sách khi đó được nhân
bản để phát hành thì sách mới trở thành một xuất bản phẩm quan trọng.
Luật xuất bản năm 1993 của Việt Nam quy định: “Xuất bản phẩm là
tác phẩm tài liệu về chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, văn học,

11


nghệ thuật được xuất bản, in, nhân bản bằng các loại vật liệu và các phương
tiện khác nhau bằng Tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số khác và bằng tiếng
nước ngoài, được xuất bản không định kì để phổ biến cho mọi người”.
Luật xuất bản năm 2004 đã định nghĩa lại xuất bản phẩm như sau:
“Xuất bản phẩm là tác phẩm tài liệu về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn học, nghệ thuật được xuất
bản bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài và còn
được thể hiện bằng hình ảnh, âm thanh trên các vật liệu, phương tiện kĩ thuật
khác nhau”.
Theo nghĩa thông thường, xuất bản phẩm là sản phẩm của hoạt động
xuất bản. Nói cách khác, xuất bản phẩm là các tác phẩm sau khi gia công biên
tập, qua chế bản, nhân bản để phát hành tới công chúng.
Trong điều 1 Nghị định 111/CP của Chính phủ năm 2005 ghi rõ :
Xuất bản phấm quy định tại điều 4, Luật Xuất bản được thể hiện dưới
các hình thức sau đây:
1) Sách, kể cả sách cho người khiếm thị, sách điện tử, sách trên mạng
thông tin máy tính (Internet);
2) Tranh ảnh, áp phích, bản đồ, tờ rơi, tờ gấp, câu đối, cuốn thư;
3) Lịch tờ, lịch Blog, lịch bàn, lịch túi, lịch sổ, lịch bướm;
4) Băng, đĩa âm thanh, băng đĩa do nhà xuất bản xuất bản có nội dung
thay sách hoặc minh họa cho sách.
Sách là xuất bản phẩm quan trọng nhất trong các xuất bản phẩm. Đây là
một sản phẩm văn hóa vật chất và tinh thần của nhân loại đã có từ thời cổ đại.
Nó ra đời gắn với sự phát minh ra chữ viết. Nội dung của sách chứa đựng các
giá trị văn hóa tinh thần thuộc tất cả các hình thái ý thức xã hội và nghệ thuật
khác nhau, được ghi lại dưới dạng ngôn ngữ khác nhau (chữ viết, hình vẽ, kí
hiệu, âm thanh, số hóa,...) của các dân tộc khác nhau nhằm lưu trữ, tích lũy

hoặc truyền bá rộng rãi trong xã hội. Các hình thức và thể loại sách luôn luôn
vận động, biến đổi theo sự phát triển của lịch sử và của khoa học công nghệ.
12


Sách là sản phẩm xuất bản phẩm khác chứa đựng các tác phẩm văn
hóa, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần để lưu trữ truyền bá các giá trị văn
hóa tinh thần rộng rãi trong xã hội và từ thế hệ này cho thế hệ khác.
Nhà văn Nga Puskin đã từng nói: “Sách - bánh mì của tinh thần”. Văn
minh nhân loại có được như ngày hôm nay không thể không kể tới vai trò to
lớn của sách. Những trang sách không phải chỉ là quá khứ, sách còn là
phương tiện giúp ta là chủ hiện tại, nắm lấy tất cả mọi chân lí và sức mạnh
được tìm ra qua nhiều đau khổ, đôi khi nhuốm đầy mồ hôi hòa với máu. Mặc
dù hiện nay có sự phát triển của các phương tiện khác nhưng không có gì có
thể thay đổi được sách. Hay như P.Paplenko đã từng nói: “Sách làm cho con
người trở thành chủ nhân của vũ trụ”.
II. Vai trò của hoạt động xuất bản trong lĩnh vực văn hóa.
1. Xuất bản là một bộ phận thiết yếu của đời sống văn hóa, thúc
đẩy các hoạt động văn hóa khác.
Xuất bản là một hoạt động văn hóa: Lựa chọn, gia công, truyền bá các
sản phẩm văn hóa. Nó là bộ phận thiết yếu của đời sống văn hóa. Bởi lẽ, trong
tất cả các hoạt động văn hóa, công tác xuất bản có khả năng thực hiện hiệu
quả hầu hết các nhiệm vụ cơ bản của hoạt động văn hóa.
Vai trò này thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất: Xuất bản góp phần sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa.
Nếu như sáng tạo các giá trị văn hóa là công việc của các tác giả nghiên
cứu, sáng tác thuộc tất cả các hình thái ý thức xã hội khác nhau thì hoạt động
xuất bản cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo ra các sản phẩm văn hóa đó.
Xưa nay, người ta thường ví các nhà xuất bản là các “bà đỡ” cho các ý
tưởng sáng tạo, đó là nói đến vai trò của xuất bản đối với hoạt động sáng tác,

sáng tạo, biên soạn của những tác giả, soạn giả. Các nhà xuất bản, tòa soạn báo
trở thành đối tác của các tác giả, soạn giả. Họ đại diện cho công chúng tuyển
chọn và hoàn thiện những tác phẩm của các nhà sáng tạo. Và các tác phẩm này
chỉ được phổ biến đến tay độc giả thông qua các công đoạn xuất bản.
13


Bằng hoạt động xuất bản, những người sáng tạo biết được nhu cầu của
xã hội, biết được phản hồi của độc giả đối với tác phẩm của mình, qua đó
hoàn thiện, nâng cao giá trị của những tác phẩm tiếp theo. Mặt khác, hoạt
động xuất bản còn đóng vai trò nâng đỡ những tác phẩm có giá trị nhưng chưa
được độc giả biết đến. Nếu các nhà xuất bản chỉ xuất bản những tác phẩm bán
chạy chắc chắn sẽ gạt ra nhiều tác phẩm có giá trị nhưng chưa phù hợp với
nhu cầu nhất thời của độc giả. Đối với loại tác phẩm này, các nhà xuất bản
ngoài nhiệm vụ hoàn thiện, phổ biến tác phẩm mà còn phải kích thích, hướng
dẫn và định hướng nhu cầu của độc giả.
Xuất bản tạo điều kiện, môi trường cho hoạt động nghiên cứu, sáng tác,
kích thích, giúp đỡ hoạt động đó phát triển. Xuất bản góp phần thúc đẩy và
nâng cao trình độ văn hóa của mọi thành viên trong xã hội. Nó giúp con người
tích lũy thành quả văn hóa của dân tộc, nhân loại, là công cụ giáo dục, nâng
cao trình độ tri thức cho bạn đọc. Đó cũng là điều kiện quan trọng trong việc
tạo nên các nghệ sĩ, các nhà khoa học để họ sáng tác ra những kiệt tác của
mình. Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, có hai điều kiện cơ bản để tạo ra
các thành tựu nghiên cứu có giá trị, đó là: Kế thừa những thành tựu đã có và
được trao đổi, phản biện giữa những người nghiên cứu. Xuất bản đã góp phần
tạo đầy đủ hai điều kiện đó.
Tri thức và các thông tin chứa trong xuất bản phẩm được truyền bá
trong xã hội làm cho đông đảo người nghiên cứu sử dụng, kế thừa các thành
tựu chung của nhân loại, tránh được sự trùng lặp trong nghiên cứu, chất lượng
và hiệu quả nghiên cứu khoa học sẽ còn cao hơn. Như vậy hoạt động xuất bản

có vai trò quan trọng trong việc sáng tạo ra các giá trị văn hóa.
Thứ hai: Công tác xuất bản còn là công cụ truyền bá, phân phối, các giá
trị văn hóa có hiệu quả cao.
Xã hội ngày càng phát triển, các phương tiện truyền thông cũng ngày
càng được cải tiến đặc biệt là sự ảnh hưởng của Internet. Tuy nhiên sách vẫn
là phương tiện chủ yếu trong hoạt động truyền bá văn hóa. Thật vậy, sách
14


mang đến cho người đọc tri thức, hiểu biết mới chuyên sâu về những vấn đề
của cuộc sống. Là công cụ truyền bá hữu hiệu tri thức nhân loại đồng thời bảo
tồn những giá trị văn hóa ấy một cách hiệu quả.
Xuất bản là đội quân chủ lực trong việc truyền bá các sản phẩm văn
hóa. Nó có thể đưa đến cho công chúng những tác phẩm có dung lượng tri
thức lớn, những thông tin tri thức phức tạp, sâu sắc, có tác dụng tích lũy tri
thức lâu dài, có hiệu quả cao nhất.
Các tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học được sáng tạo bằng ngôn
ngữ dân tộc, mang các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Nghệ thuật, trình
độ kế thừa, phát huy, giữ gìn các giá trị truyền thống ấy cũng tạo nên bản sắc
dân tộc của các tác phẩm văn hóa và chất lượng phản ánh, sáng tạo của chúng.
Thứ ba: Xuất bản là công cụ rất có hiệu quả để giữ gìn, bảo tồn các giá
trị văn hóa.
Xuất bản là một phương tiện phản ánh đời sống tinh thần, thông qua
hoạt động phát hiện, sưu tầm, chọn lựa, sản xuất để công bố dưới hình thức
xuất bản phẩm. So với các phương tiện khác, xuất bản có lợi thế hơn hẳn
trong việc phản ánh đầy đủ các khía cạnh của nền văn minh nhân loại. Nó là
tấm gương phản chiếu đời sống xã hội qua các thời đại. Mỗi thời kỳ lịch sử
đều để lại dấu ấn trong hệ thống tài liệu thành văn. Vì vậy có rất nhiều điều
chúng ta chỉ có thể tìm hiểu được quá khứ thông qua kho tàng tài liệu, sách,
văn tự cổ. Đó là nhờ khả năng tuyệt vời của sách trong việc lưu giữ và chuyển

tải thông tin.
Thật vậy, xuất bản biết khai thác, bảo tồn và phát huy truyền thống bản
sắc văn hóa của các dân tộc anh em làm phong phú di sản văn hóa quốc gia. Ở
việc xuất bản biết tôn trọng, thực hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc, các
vùng miền trong sự sáng tạo và hưởng thụ các sản phẩm văn hóa, thúc đẩy sự
hòa nhập tinh hoa văn hóa các dân tộc để tạo nên sức mạnh của cộng đồng
quốc gia.

15


Các công trình nghiên cứu, khảo cứu, phổ biến kiến thức, các tác phẩm
văn học, nghệ thuật của đội ngũ tác giả trong nước bao giờ cũng phản ánh
những vấn đề xã hội đang đặt ra, phù hợp với hệ giá trị và chuẩn mực của
quốc gia đó. Do đó, đương nhiên nó có tác dụng bảo tồn và quảng bá những
giá trị đương đại cũng như truyền thống của dân tộc. Mặt khác, các nhà xuất
bản khi tổ chức bản thảo cũng đều có ý thức lựa chọn những tác phẩm có tác
dụng giáo dục truyền thống. Có thể nói, sách, báo là một công cụ, một kênh
quan trọng và hữu ích trong việc bảo tồn và quảng bá giá trị truyền thống.
Xuất bản còn là kênh quan trọng trong việc tiếp thu những tinh hoa văn
hóa nhân loại thông qua việc biên dịch, xuất bản những công trình khoa học,
những tác phẩm văn học, nghệ thuật của nước ngoài.
Thứ tư: Hoạt động xuất bản còn có vị trí đáng kể trong việc tổ chức đời
sống văn hóa cộng đồng.
Sách góp phần làm cho cuộc sống tinh thần xã hội thêm tươi vui, lành
mạnh, giàu ý nghĩa. Qua các cuộc thi sách, triển lãm sách, hội chợ sách,
phong trào đọc sách,… đời sống văn hóa của xã hội được phong phú hơn, tốt
đẹp hơn. Sách và các hoạt động xuất bản, truyền bá sách đã trở thành các tiêu
chí quan trọng để đánh giá trình độ phát triển văn hóa, văn minh của mỗi quốc
gia, dân tộc.

2. Công tác xuất bản thúc đẩy sự phát triển của văn hóa
Mỗi quốc gia có nền văn hóa riêng, mỗi người dân quốc gia đó luôn
mong muốn truyền bá văn hóa dân tộc mình ra thế giới càng nhiều càng tốt.
Họ vận dụng tất cả các phương thức xuất bản có thể có như phim ảnh, văn
hóa ẩm thực, truyền bá khoa học công nghệ, quyền lực kinh tế,...
Người Hàn đã dùng phim ảnh để xuất bản văn hóa Hàn Quốc đến hàng
tỷ người trên thế giới đặc biệt văn hóa điện ảnh Hàn Quốc có ảnh hưởng rất rõ
ở các nước Châu Á trong 20 gần đây. Thập kỷ sắp tới chính phủ Hàn Quốc
đạt mục tiêu quốc tế hóa các món ăn của dân tộc mình và truyền bá đi toàn thế

16


giới, một lúc nào đó món ăn Hàn Quốc sẽ xuất hiện nhiều trong bữa ăn gia
đình của nhiều dân tộc trên thế giới.
Người Nhật dùng quyền lực kinh tế, sức mạnh hàng hóa để truyền bá
văn hóa Nhật đi khắp thế giới từ những năm 1970 đến nay, họ đã rất thành
công.
Người Trung Quốc có tham vọng truyền bá văn hóa tư tưởng Trung Hoa
ra toàn cầu, Trung Quốc có kế hoạch xây dựng khu văn hóa Khổng Tử trên
khắp các Châu Lục. Nhìn tổng thể các quốc gia Phương Đông chúng ta có thể
nhận thấy chỉ có những quốc gia nào có tham vọng tạo lập ảnh hưởng toàn cầu,
nâng cao vị thế của dân tộc của quốc gia mới thực sự hiểu được văn hóa xuất
bản. Chính phủ khuyến khích các tổ chức và từng người dân bằng các phương
tiện xuất bản khác nhau truyền bá tư tưởng, văn hóa, hình ảnh dân tộc mình đi
khắp thế giới. Ủng hộ văn hóa xuất bản là cách thức chính phủ kích hoạt tri
thức toàn dân tộc, cùng nhau truyền bá giá trị quốc gia ra Thế Giới.
Việt Nam là quốc gia dân tộc có nhiều dân tộc anh em sinh sống. Mỗi
dân tộc có những đặc điểm, bản sắc về văn hóa độc đáo. Các dân tộc đó sống
tập trung ở nhiều vùng, miền khác nhau. Hoạt động xuất bản phải biết tổ chức

khai thác để bảo tồn, phát huy sự đa dạng văn hóa đó, phải phục vụ nhu cầu
văn hóa của nhân dân các dân tộc ở tất cả các vùng miền để góp phần xây
dựng nền văn hóa Việt Nam thống nhất, đa dạng, tiên tiến, đậm đà bản sắc
văn hóa dân tộc.
Xuất bản còn có tác động to lớn đến mọi hoạt động văn hóa khác. Nó
cung cấp sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu dạy học cho thầy và trò trong giáo
dục. Sách giúp xây dựng xã hội học tập, nâng cao dân trí, cung cấp công cụ để
có thể học tập suốt đời, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hoạt động
giáo dục, đào tạo. Đó là lý do mấy năm gần đây, việc “cải cách” giáo dục, viết
lại sách giáo khoa được xã hội quan tâm theo dõi và thảo luận sôi nổi trên các
phương tiện truyền thông đại chúng. Xuất bản và các phương tiện thông tin
đại chúng khác như báo chí, phát thanh, truyền hình ngày càng đang gắn bó
17


với nhau, là điều kiện của nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, hỗ trợ nhau cùng phồn
vinh. Bởi lẽ, tri thức và thông tin với hai con đường truyền bá khác nhau là
xuất bản và báo chí, lại thường có thể chuyển hóa cho nhau.
Hoạt động xuất bản thúc đẩy, nâng cao trình độ văn hóa của các thành
viên trong xã hội. Một nền xuất bản tốt, vì sự phát triển của cộng đồng thể
hiện ở các khía cạnh như cơ cấu sách cân đối, đề tài, thể loại sách đa dạng,
nội dung sách hay, hấp dẫn và điều quan trọng nữa là phương thức phân phối,
phát hành sách tạo thuận lợi cho mọi người dân có thể tiếp cận được nguồn tri
thức này. Nhiều nước coi việc trợ cấp cho hoạt động xuất bản nhằm giảm giá
thành sách là tác động trực tiếp hữu hiệu để nâng cao dân trí cho nhân dân.
Điều này cho thấy vai trò không nhỏ của hoạt động xuất bản đối với mỗi
người. Sách giúp nâng cao trình độ hiểu biết, khả năng của con người,... mang
đến tri thức cho nhân loại. Góp phần nâng cao dân trí, tăng cường sự hiểu biết
lẫn nhau giữa con người với xã hội. Giúp ta tránh xa thói hư tật xấu, đề phòng
các tệ nạn xã hội, tiếp thu chọn lọc các nền văn hóa, đồng thời tạo môi trường

phát triển bền vững cho cộng đồng.
Bằng việc cung cấp cho độc giả những ấn phẩm có tính định hướng giá
trị, hoạt động xuất bản đã góp phần khẳng định một giá trị hoặc một hệ giá trị
nhất định; nghĩa là xuất bản có vai trò xây dựng hệ giá trị mới tiến bộ, phù
hợp với sự phát triển của xã hội.
Như vậy, xuất bản là một bộ phận quan trọng trong hoạt động văn hóa
xã hội, là nhân tố không thể thiếu trong đời sống văn hóa. Trình độ văn hóa
chung của xã hội, sự phát triển của văn học, nghệ thuật và khoa học có ảnh
hưởng đến sự phát triển của xuất bản. Đồng thời, hoạt động xuất bản cũng tác
động mạnh mẽ đến các hoạt động văn hóa khác. Cũng như mọi hoạt động văn
hóa, mục tiêu cao cả của công tác xuất bản là hướng tới hoàn thiện con người,
đưa con người vươn tới cái “chân, thiện, mỹ” tạo nền tảng tinh thần và động
lực cho sự phát triển của xã hội.

18


III. Ảnh hưởng của văn hóa đến công tác xuất bản
Bản chất của công tác xuất bản là hoạt động truyền bá văn hóa. Các
hoạt động sáng tạo văn hóa, các hoạt động khác nhau của đời sống văn hóa
đều có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất bản.
Thứ nhất: Văn hóa tạo ra những “ tài nguyên” để xuất bản có thể khai thác.
Văn hóa tạo ra nguồn đề tài phong phú cho các nhà văn, nghệ sĩ, nhà
khoa học,... tạo ra các tác phẩm văn hóa, là những vật liệu đầu vào quyết định
sự phát triển của hoạt động xuất bản. Văn hóa đã tạo ra một môi trường sáng
tác đa dạng và phong phú để các nhà văn, nhà khoa học tạo nên những “đứa
con tinh thần của mình” và hoạt động xuất bản thực hiện chức năng là “bà
đỡ”. Bởi xuất bản chính là sự lựa chọn, gia công các tác phẩm có sẵn phục vụ
cho việc truyền bá xã hội.
Thứ hai: Các hoạt động tuyên truyền giới thiệu, quảng cáo xuất bản

phẩm, hướng dẫn dư luận, hướng dẫn sử dụng văn hoá phẩm trên các phương
tiện thông tin đại chúng khác như: Báo chí, phát thanh, truyền hình, Internet,
… giới thiệu sách ở thư viện, các hoạt động văn hóa thông tin cơ sở có tác
động kích thích, hướng dẫn nhu cầu bạn đọc, tạo thị trường rộng lớn cho hoạt
động xuất bản phát triển.
Ví dụ như chương trình “mỗi ngày một cuốn sách” được phát sóng trên
VTV1, các trang web điện tử của các nhà xuất bản,…
Thứ ba: Văn hoá là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên môi
trường dân trí cao, giáo dục phát triển.
M.Gorki đã khẳng định rằng: “Sách là bậc thang tiến bộ của xã hội”.
Nó phản ánh trình độ văn hóa cũng như trình độ nhận thức của mỗi quốc gia,
dân tộc trong mỗi thời đại. Vì thế văn hóa là một trong những nội dung quan
trọng không thể thiếu trong hoạt động xuất bản. Văn hóa càng phát triển, xã
hội ấy càng đi lên, dân trí phát triển cao, người đọc càng có thể nhận thức
được tầm quan trọng của sách và hoạt động xuất bản.

19


Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và mục tiêu của
sự phát triển, là linh hồn, sức sống của mỗi quốc gia. Trình độ dân trí cao do
đời sống xã hội giáo dục, phát triển cũng ảnh hưởng quan trọng đến nhu cầu
học tập, giải trí, nhu cầu về sách, nhu cầu văn hóa đọc tăng cao,… đã ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển của xuất bản.
Thứ tư: Vai trò của văn hóa đối với công tác xuất bản còn được thể
hiện ở công tác biên tập và chế tạo sản phẩm.
Luật xuất bản của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, ban hành năm
2004 đã chỉ rõ: “Hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng thông
qua việc sản xuất, phổ biến những xuất bản phẩm đến nhiều người nhằm giới
thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc

và tinh hoa văn hóa của nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của
nhân dân…”
Hoạt động xuất bản không chỉ phải khai thác, tìm kiếm đề tài từ cuộc
sống con người mà cũng phải làm thế nào để tác phẩm khi xuất bản ra không
đi ngược lại những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế đã trở thành một xu hướng hiện thực.
Các quốc gia, dân tộc đang hội nhập trong xu thế phát triển. Sự giao lưu hội
nhập về văn hóa là một điều tất yếu không thể tránh khỏi. Song khác với kinh
tế, văn hóa không thể toàn cầu hóa, nhất thể hóa, đồng nhất hóa. Mà sự hội
nhập văn hóa, bên cạnh việc tôn trọng, phát huy các giá trị nhân loại, cần phải
hết sức giữ gìn, phát huy, bảo vệ sự phong phúc, bản sắc văn hóa riêng của
mỗi dân tộc.
Hoạt động xuất bản phải chăm lo bảo vệ, khẳng định và phát huy các
giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời mở rộng giao lưu văn hóa, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại và đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm sai
trái, phản động.
Thứ năm: Các hoạt động văn hóa khác như giáo dục, nghệ thuật, bảo
tàng, thư viện,… cũng thúc đẩy hoạt động xuất bản phát triển.
20


Thư viện phát triển, tạo điều kiện cho văn hóa đọc phát triển, bảo tồn
các giá trị trong sách, là cầu nối đưa sách đến với độc giả,...
Truyền thông ngày một phát triển và có những bước tiến lớn đã kích
thích và nâng cao hoạt động xuất bản.
Các cuộc triển lãm, hội chợ sách đã tạo môi trường giới thiệu các sản
phẩm của xuất bản đến đông đảo quần chúng.
Qua các hoạt động đó, các giá trị văn hóa được lan truyền mạnh hơn,
rộng lớn và sâu sắc hơn rất nhiều những giá trị mà quần chúng tiếp nhận được
chỉ thông qua xuất bản phẩm.

Từ những ý trên, ta có thể khẳng định: Văn hóa là thuộc tính tất yếu
của hoạt động xuất bản.

21


CHƯƠNG II: HIỆN TRẠNG VAI TRÒ CỦA XUẤT BẢN VIỆT NAM
ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA NƯỚC TA HIỆN
NAY
I. Vai trò của xuất bản trong lĩnh vực văn hóa được khẳng định trong các
văn bản của Đảng và Nhà nước.
1. Vai trò của xuất bản trong lĩnh vực văn hóa được khẳng định
trong các văn bản của Đảng.
Trong suốt chặng đường 81 năm lãnh đạo nhân dân, tiến hành thắng lợi
các cuộc kháng chiến chống xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn quan tâm toàn diện, nhận thức sâu sắc về vị trí,
vai trò và sức mạnh văn hóa đối với sự phát triển bền vững của Đất nước.
Ý thức rõ về sức mạnh văn hóa đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc
khỏi ách áp bức của đế quốc xâm lược, “Đề cương văn hóa Việt Nam” tháng
2 năm 1943 - Cương lĩnh văn hoá đầu tiên của Đảng đã ra đời, làm nền tảng
lý luận cho sự nghiệp xây dựng nền văn hóa kháng chiến, kiến quốc những
năm tiếp theo, xác định: “Văn hóa là một trong ba mặt trận: Kinh tế, chính trị,
văn hóa” vì vậy, “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được
công cuộc cải tạo xã hội" và "Đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hóa tiên
phong”; đồng thời đề ra ba nguyên tắc cuộc vận động văn hóa mới: Dân tộc,
đại chúng, khoa học.
Đề cương văn hóa Việt Nam là sự khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh:
Văn hoá “soi đường cho quốc dân đi”, góp phần động viên, tập hợp đội ngũ
trí thức, văn nghệ sĩ vào Hội Văn hoá cứu quốc, tạo sức mạnh to lớn làm nên
cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi và Chiến

thắng lịch sử Điện Biên Phủ - Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Trong
cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ xâm lược, sức mạnh nội sinh của văn
hóa được phát huy mạnh mẽ, trở thành niềm cổ vũ to lớn chiến sĩ và nhân
dân ta. Trên nền tảng văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa thời đại, những
22


tác phẩm thơ, văn, ca, múa, nhạc, họa được sáng tác, phục vụ kịp thời, tiếp
thêm sức mạnh cho dân tộc, thôi thúc phong trào thi đua mạnh mẽ giữa tiền
tuyến và hậu phương, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước.
Thời kì hòa bình, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội IV của
Đảng đã tiếp tục khẳng định: Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong
đó tập trung “Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa”
với những giá trị đạo đức, niềm tin, lý tưởng, lẽ sống cao đẹp.
Năm 1992, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành Trung
ương của Đảng đã khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, thể hiện
tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc,... Văn hóa vừa
là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII tiếp tục khẳng định quan
niệm ấy và chỉ ra phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc. Chính những quan điểm, sự lãnh đạo định hướng
trên đã tạo sự chuyển biến và phát triển vượt bậc trong sự phát triển của văn
hóa giai đoạn này.
Xuất bản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng là một hoạt động thuộc
lĩnh vực tư tưởng văn hóa. Đáp ứng nhu cầu tư tưởng văn hóa là mục đích của
công tác xuất bản. Luật xuất bản Nhà Nước được công bố năm 1993 như sau
“Hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa tư tưởng thông qua việc sản xuất,
phổ biến những xuất bản phẩm đến nhiều người, không phải là hoạt động đơn
thuần kinh doanh. Hoạt động xuất bản nhằm mục đích:

- Phổ biến những tác phẩm về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa
học, công nghệ, văn học, nghệ thuật, giới thiệu những di sản văn hóa dân tộc,
tinh hoa văn hóa thế giới, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh
thần của nhân dân, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, góp phần vào sự
nghiệp xây dựng và bảo về tổ quốc XHCN.

23


- Đấu tranh chống lại mọi tư tưởng hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia,
phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp người Việt Nam.
Trong các nghị quyết Đại hội của Đảng đều nhấn mạnh đến vai trò của
văn hóa. Văn kiện Đại hội X chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao
chất lượng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và
đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra chất lượng mới của cuộc sống, xây dựng
và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam thời kì công nghiệp hoá,
hiện đại hoá” (Văn kiện Đại hội X trang 33)
Đến Đại hội XI, các quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam theo mục tiêu tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục
được khẳng định. Nhưng từ thực tiễn đời sống văn hóa của đất nước những
năm qua, đặc biệt là trong xu thế hội nhập, có sự tác động nhiều chiều của quá
trình toàn cầu hóa, của nền kinh tế thị trường,… Đảng ta đã xác định bốn đầu
việc cần được cấp ủy đảng, chính quyền các cấp và nhất là ngành văn hóa coi
trọng, tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhằm tiếp tục xây dựng nền tảng
tinh thần của xã hội. Trong đó có nhắc đến vai trò của hoạt động báo chí xuất
bản, đó là:
Chú trọng phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và
phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân
dân và đất nước. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động

báo chí, xuất bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực
đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ mới.
Như vậy, hoạt động xuất bản giữ vai trò quan trọng trong hoạt động
văn hóa xã hội, là nhân tố không thể thiếu trong đời sống văn hóa.
2. Vai trò của xuất bản trong lĩnh vực văn hóa được khẳng định
trong các văn bản của Nhà nước.
Trong Luật xuất bản Việt Nam cũng nhấn mạnh vai trò của xuất bản
đối với việc xây dựng văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta.
24


Trong Luật xuất bản năm 2004.
Trong luật xuất bản sửa đổi năm 2004 điều 6 có viết: “Nhà nước có
chính sách khuyến khích, tạo điều kiện xây dựng ngành xuất bản trở thành
ngành kinh tế kĩ thuật phát triển toàn diện. Xây dựng ngành xuất bản trở
thành ngành kinh tế kĩ thuật toàn diện chính là phát triển ngành xuất bản toàn
diện tiên tiến, hiện đại nhằm phục vụ cho sự nghiệp văn hóa là xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần cho
đời sống xã hội, tạo động lực phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong giai
đoạn hiện nay”.
Điều 3 - Chương 1: Vị trí, mục đích của hoạt động xuất bản.
Hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng thông qua việc
sản xuất, phổ biến những xuất bản phẩm đến nhiều người nhằm giới thiệu tri
thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa của dân tộc và
tinh hoa văn hóa của nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân
dân, nâng cao dân trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt
Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, phát triển kinh tế, xã hội, đấu
tranh trong mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia góp phần vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
Điều 10 - Chương 1: Những hành vi bị cấm trong hoạt động xuất bản.

1/ Tuyên truyền chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, phá hoại khối đoàn kết toàn dân tộc.
2/ Tuyên truyền, kích động chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các
dân tộc và nhân dân các nước, kích động bạo lực, truyền bá tư tưởng phản
động, lối sống dâm ô, đồi trụy, hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan,
phá hoại thuần phong mỹ tục.
3/ Tiết lộ bí mật của Đảng và Nhà nước. bí mật quân sự, an ninh, kinh
tế, đối ngoại, bí mật đời tư của cá nhân và các bí mật khác do Pháp luật quy
định.

25


×