Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tóm tắt chương cuối Mác 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.93 KB, 18 trang )

2. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp
lao động khác trong cách mạng XHCN
Giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh của mình khi liên minh chặt chẽ
với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
a. Tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác trong
cách mạng XHCN
• Tính tất yếu của liên minh giai cấp
- Bằng việc tổng kết kinh nghiệm của các cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân ở Anh, Pháp và ở Châu Âu thế kỷ XIX, Mác, Ănghen đã làm rõ tính tất
yếu và vai trò của liên minh công nông trong cách mạng vô sản.
Cụ thể:
+ Khi nghiên cứu thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp, Anh cuối
thế kỷ XIX, Mác, Ănghen đã chỉ ra nguyên nhân thất bại của các phong trào
này là do giai cấp công nhân không liên minh với người bạn đồng minh của
mình là giai cấp nông dân.
+ Công xã Pari (1871): Trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, giai cấp
công nhân đã không thực hiện liên minh với giai cấp nông dân. Khi công
nhân chống tư sản thì giai cấp nông dân ngoài thành vẫn thờ ơ, họ coi đó là
việc của giai cấp công nhân. Và khi giai cấp tư sản thất thế chạy ra ngoài
thàh Pari, chính những người nông dân cưu mang, giúp đỡ họ. Sau đó giai
cấp tư sản đã liên kết với các thế lực phản động quay lại đàn áp phong trào
công nhân, phong trào thất bại. Công xã Pari chỉ tồn tại trong 72 ngày.
+ Từ thực tiễn đó, Mác, Ănghen rút ra kết luận: giai cấp công nhân chỉ giành
được thắng lợi trong cuộc cách mạng XHCN khi có sự liên minh với giai
cấp công nhân. Bởi nếu không có nông dân ủng hộ thì họ “không thể tiến lên
một bước nào” và “ không thể đụng vào một sợi tóc của giai cấp tư sản”.
- Lênin là người kế thừa, phát triển, vận dụng lý luận liên minh giai cấp của
Mác, Ănggen vào cách mạng Tháng Mười Nga
+ Cách mạng Tháng Mười thành công là do có sự liên minh chặt chẽ giữa
giai cấp công nhân và giai cấp nông dân.


1


+ Sau cách mạng Tháng Mười, Lênin quan tâm xây dựng khối liên minh
giữa công nhân với nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác (tiểu
tư sản, tiểu chủ, trí thức…)
• Cơ sở khách quan của liên minh giai cấp
- Trong xã hội tư bản, giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân
lao động khác đều là những người bị áp bức bóc lột. (Kẻ thù chung là giai
cấp TS, vì vậy họ liên minh với nhau để chống lại kẻ thù chung).
- Trong xây dựng CNXH:
+ Về kinh tế: Công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành kinh tế quan trọng
của nền kinh tế quốc dân.
+ Về chính trị - xã hội: Công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao
động khác là lực lượng to lớn để xây dựng và bảo vệ chính quyền nhà nước,
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. (Nông dân và các tầng lớp nhân dân lao
động là bạn đồng minh của giai cấp công nhân).
b. Nội dung và nguyên tắc của liên minh
* Nội dung của liên minh giai cấp
- Liên minh chính trị:
+ Giai đoạn đầu: Liên minh để giành chính quyền.
+ Giai đoạn sau: Liên minh để tham gia vào chính quyền Nhà nước, cùng
bảo vệ chính quyền Nhà nước XHCN.
- Liên minh kinh tế:
+ Kết hợp đúng đắn lợi ích của các giai tầng trong liên minh.
+ Nhà nước XHCN phải quan tâm đến việc xây dựng chính sách đối với
nông dân, nông nghiệp và nông thôn.
- Liên minh về tư tưởng, văn hoá:
+ Giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác
phải thường xuyên học tập, nâng cao trình độ tư tưởng, văn hoá mới đáp

ứng được nền sản xuất hiện đại.
+ CNXH với tư tưởng nhân văn, nhân đạo vì sự phát triển con người. Do
đó, cần phải xây dựng một nền văn hoá vì sự phát triển của nhân dân lao
động.
+ CNXH tạo điều kiện để nhân dân lao động quản lý kinh tế, quản lý
Nhà nước, quản lý xã hội. Muốn vậy, nhân dân phải nâng cao trình độ,
nâng cao hiểu biết về chính sách pháp luật.
*Những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng khối liên minh giai cấp
2


- Phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
- Phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện
- Kết hợp đúng đắn các lợi ích.
III. Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa
1. Xu hướng tất yếu của sự xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội CSCN
- Sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên của sự
thay thế các hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao. Lịch sử xã hội loài
người trải qua các hình thái kinh tế xã hội: cộng xã nguyên thuỷ, chiếm hữu
nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tiến tới là cộng sản chủ nghĩa.
- Lực lượng sản xuất của CNTB càng phát triển đến trình độ xã hội hoá cao
làm cho mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của LLSX với sự kìm hãm của
QHSX mang tính tư nhân TBCN thêm sâu sắc.
- Mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế của CNTB biểu hiện trong lĩnh vực
chính trị - xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động
với giai cấp tư sản ngày càng quyết liệt.
- Mâu thuẫn đó chỉ có thể giải quyết bằng một cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, thiết lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa với quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa nhằm mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Như vậy, sự xuất hiện của hình thái kinh tế xã hội CSCN là một tất yếu

khách quan.
2. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CSCN
Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình, Mác – Ănggen đã đưa ra
luận điểm khoa học về sự phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội CSCN.
Kế thừa quan điểm của Mác - Ănggen, Lênin đã chia quá trình hình thành
và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CSCN thành 3 giai đoạn:
1. Những cơn đau đẻ kéo dài (thời kỳ quá độ).
2. CNXH (giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội CSCN).
3. CNCS (giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội CSCN).
a. Thời kỳ quá độ
• Tính tất yếu của thời kỳ quá độ
- Đối với những nước đã phát triển qua chế độ TBCN: CNTB đã tạo ra những
tiền đề vật chất – kỹ thuật nhất định cho CNXH. Nhưng để những tiền đề đó
phục vụ cho CNXH, cần phải có thời gian để tổ chức, sắp xếp lại. (TKQĐ).
- Đối với những nước chưa phát triển qua giai đoạn TBCN: Phải thực hiện
công nghiệp hoá đất nước để tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Do vậy,
3


thời kỳ quá độ có thể kéo dài hơn. (Thực chất thời kỳ quá độ là để làm
những công việc mà CNTB chưa làm.)
- Các quan hệ xã hội của CNXH không tự phát nảy sinh trong lòng xã hội tư
bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo XHCN. Vì vậy phải
có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
- Xây dựng CNXH là một công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp, vì vậy
phải có thời gian để giai cấp công nhân làm quen với điều đó.
• Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ
- Đặc điểm: là thời kỳ còn tồn tại đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ
diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Kinh tế:

Tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần. Vì vậy không được dùng ý chí chủ
quan để xoá bỏ các thành phần kinh tế phi XHCN.
Nền kinh tế nhiều thành phần được xác lập trên cơ sở khách quan của sự
tồn tai nhiều loại hình sở hữu về TLSX (sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở
hữu tư nhân…). Vì vậy, phải thực hiện nhiều hình thức phân phối khác
nhau, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu.
+ Chính trị:
Đây là thời kỳ quá độ về chính trị. Nhà nước chuyên chính vô sản mới
được thiết lập, củng cố và ngày càng hoàn thiện. Nó là công cụ hữu hiệu
nhất để giai cấp công nhân, nhân dân lao động tiến hành cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực.
Trong xã hội còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau. Các giai cấp,
tầng lớp vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.
+ Về tư tưởng, văn hoá
Về tư tưởng: Hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin giữ vai trò thống trị.
Bên cạnh đó, còn tồn tại nhiều tư tưởng văn hoá khác nhau, ngoài những tư
tưởng XHCN còn tư tưởng tư sản, tiểu tư sản…
Về văn hoá: Còn tồn tại đan xen yếu tố văn hoá cũ và mới, thường xuyên
đấu tranh với nhau
- Thực chất của thời kỳ quá độ: Đó là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giữa giai
cấp TS và các thế lực phản động với giai cấp công nhân và quần chúng nhân
dân lao động. Cuộc đấu tranh đó diễn ra trong điều kiện mới
• Nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH
- Trong lĩnh vực kinh tế:
4


+ Thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các LLSX hiện có của xã hội; Cải tạo các
QHSX cũ, xây dựng QHSX mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của
nền kinh tế.

+ Việc sắp xếp, bố trí lại các LLSX của xã hội nhất định không thể theo ý
muốn chủ quan, nóng vội mà phải tuân theo tính tất yếu khách quan của các
quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Đối với các nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hoá TBCN, tất yếu
phải tiến hành công nghiệp hoá XHCN nhằm tạo ra được cơ sở vật chất – kỹ
thuật của CNXH.
- Trong lĩnh vực chính trị:
+ Tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, chống phá sự
nghiệp xây dựng CNXH.
+ Tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ XHCN ngày càng
vững mạnh, đảm bảo quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội của nhân dân lao động.
+ Xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân lao động.
+ Xây dựng Đảng cộng sản ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với
các nhiệm vụ của các thời kỳ lịch sử.
- Trong lĩnh vực tư tưởng – văn hoá:
+ Thực hiện tuyên truyền, phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng
của giai cấp công nhân trong toàn xã hội.
+ Khắc phục những tư tưởng, tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình
xây dựng CNXH.
+ Xây dựng nền văn hoá mới XHCN, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại
- Trong lĩnh vực xã hội:
+ Thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại
+ Từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, các
tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội
+ Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý
tưởng là tự do của người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của người
khác.

Tóm lại: Thời kỳ quá độ lên CNXH là một thời kỳ lịch sử tất yếu trên con
đường phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CSCN. Đó là thời kỳ có những đặc
5


điểm, nội dung đặc thù mà hình thái kinh tế xã hội CSCN chỉ có thể có được trên
cơ sở hoàn thành nội dung đó.
b. Xã hội XHCN
Xã hội XHCN (CNXH – giai đoạn thấp của CNCS) là một xã hội có những
đặc trưng cơ bản sau:
- Thứ nhất, cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội XHCN là nền đại công nghiệp
được phát triển từ những tiền đề vật chất – kỹ thuật của nền đại công nghiệp
TBCN.
- Thứ hai, CNXH xoá bỏ chế độ tư hữu tư nhân TBCN, thiết lập chế độ sở
hữu XHCN về tư liệu sản xuất.
- Thứ ba, Xã hội XHCN là một chế độ xã hội tạo ra được cách thức tổ chức
lao động và kỷ luật lao động mới.
- Thứ tư, Xã hội XHCN là một chế độ xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động, coi đó là nguyên tắc cơ bản nhất.
- Thứ năm, xã hội XHCN là một xã hội mà ở đó nhà nước mang bản chất của
giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
- Thứ sáu, Xã hội XHCN là một xã hội thực hiện được sự giải phóng con
người khỏi áp bức, bóc lột; thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con
người phát triển toàn diện.
c. Xã hội CSCN – giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hôi
CSCN
Xã hội CSCN (giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội CSCN) có những
đặc trưng sau:
- Về mặt kinh tế: LLSX phát triển vô cùng mạnh mẽ, của cải xã hội đã trở nên
dồi dào, ý thức con người được nâng lên, khoa học phát triển, lao động của

con người được giảm nhẹ, lúc đó nhân loại có thể thực hiện được nguyên tắc
“làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
- Về mặt xã hội:
+ Trình độ xã hội ngày càng phát triển, con người có điều kiện phát triển
năng lực của mình, tri thức của con người được nâng cao, không có sự khác
biệt giữa nông thôn và thành thị.
+ Con người được giải phóng hoàn toàn và đươch phát triển một cách thực
sự toàn diện.

6


CHƯƠNG VIII: NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CÓ TÍNH QUY
LUẬT TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
I.

Xây dựng nền dân chủ XHCN và Nhà nước XHCN
1. Xây dựng nền dân chủ XHCN
a. Quan niệm về dân chủ và nền dân chủ
- Theo ngôn ngữ Hy Lạp cổ đại, dân chủ được ghép bởi hai từ: “ demos”
là “dân” và “kratos” là “quyền lực”. Như vậy, dân chủ được hiểu với tư
cách là quyền lực thuộc về nhân dân.
- Quan niệm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân chủ:
+ Dân chủ là sản phẩm tiến hoá của lịch sử, là nhu cầu khách quan của
con người. Với tư cách quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ là sự phản
ánh những giá trị nhân văn, là kết quả của sự đấu tranh lâu dài của nhân
dân chống áp bức, bóc lột , bất công.
+ Dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị gắn với một kiểu nhà
nước, một giai cấp cầm quyền thì không có “dân chủ phi giai cấp”, “dân
chủ chung chung”.

+ Dân chủ còn được hiểu với tư cách là một hệ giá trị phản ánh trình độ
phát triển cá nhân và cộng đồng xã hội trong quá trình giải phóng xã hội,
chống áp bức, bóc lột và nô dịch để tiến tới tự do, bình đẳng.
7


- Nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hình thái dân chủ gắn với bản chất,
tính chất của nhà nước, là trạng thái được xác định trong những điều
kiện lịch sử cụ thể của xã hội có giai cấp. Nền dân chủ do giai cấp thống
trị đặt ra được thể chế hoá bằng pháp luật.
b. Những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN
- Một là, với tư cách là chế độ nhà nước được sáng tạo bởi quần chúng
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, dân chủ XHCN
đảm bảo mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Nhà nước XHCN là thiết chế
chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua chính
đảng của nó. Nhà nước đảm bảo thoả mãn ngày càng cao nhu cầu và lợi
ích của nhân dân, trong đó có lợi ích của giai cấp công nhân. Như vậy,
dân chủ XHCN vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân
dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
- Hai là, Nền dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về
TLSX chủ yếu của toàn xã hội. Chế độ sở hữu đó phù hợp với quá trình
xã hội hoá ngày càng cao của sản xuất nhằm thoả mãn nhu cầu không
ngừng tăng lên về vật chất và tinh thần của tất cả quần chúng nhân dân
lao động.
- Ba là, Nền dân chủ XHCN dựa trên cơ sở kết hợp hài hoà lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội nên nó đã thu hút được mọi
tiềm năng sáng tạo và tính tích cực của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng xã hội mới.
- Bốn là, nền dân chủ XHCN thực hiện dân chủ rộng rãi với đông đảo
quần chúng nhân dân, đồng thời hạn chế dân chủ và thực hiện trấn áp

thiểu số những thế lực phản động chống phá CNXH.
- Năm là, nền dân chủ XHCN không ngừng được mở rộng cùng với sự
phát triển kinh tế, xã hội, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế hoạt
động và trình độ dân trí.
• Liên hệ Việt Nam
c. Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ XHCN
- Dân chủ là động lực của quá trình phát triển xã hội
- Dân chủ là mục tiêu của công cuộc xây dựng CNXH

8


- Xây dựng nền dân chủ XHCN cũng chính là quá trình thực hiện dân chủ
hoá đời sống xã hội dới sự lãnh đạo cuả giai cấp công nhân thông qua
Đảng cộng sản.
Tóm lại, xây dựng nền dân chủ XHCN là một quá trình tất yếu của công
cuộc xây dựng CNXH, của qua trình vận động biến dân chủ từ khả năng thành hiện
thực, để nền dân chủ ngày càng tiến tới cơ sở hiện thực của nó, tới con người hiện
thực, nhân dân hiện thực và được xác định là sự nghiệp cảu bản thân nhân dân.
2. Xây dựng nhà nước XHCN
a. Khái niệm nhà nước XHCN
• Khái niệm nhà nước XHCN:
Nhà nước XHCN là tổ chức mà thông qua đó, đảng của giai cấp công
nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội; là một tổ
chức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của
CNXH; đó là một nhà nước kiểu mới thay thế cho nhà nước tư sản nhờ
kết quả của cuộc cách mạng XHCN; là hình thức chuyên chính vô sản
được thực hiện trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
b. Đặc trưng, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước XHCN
• Đặc trưng của nhà nước XHCN

- Một là: Nhà nước XHCN là công cụ cơ bản để thực hiện quyền lực của
nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đao của đảng cộng sản.
- Hai là: Nhà nước XHCN là công cụ chuyên chính giai cấp, nhưng vì lợi
ích của tất cả những người lao động tức là tuyệt đại đa số nhân dân; thực
hiện sự trấn áp đối với những lực lượng chống đối, phá hoại sự nghiệp
cách mạng XHCN.
- Ba là: Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và trấn áp, các nhà
kinh điển của CN Mác – Lênin cũng khẳng định rằng, mặt cơ bản của
nhà nước XHCN là tổ chức, xây dựng xã hội mới, xã hội XHCN và
CSCN.
- Bốn là: Nhà nước XHCN là yếu tố cơ bản của nền dân chủ XHCN.
- Năm là: Nhà nước XHCN là kiểu nhà nước đặc biệt, “nhà nước không
còn nguyên nghĩa”, là “nửa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế - xã
hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước cũng không còn, nhà

9


nước “tự tiêu vong”. Đây cũng là một đặc trưng nổi bật của nhà nước vô
sản.
• Chức năng của nhà nước XHCN
- Chức năng tổ chức, xây dựng xã hội mới
- Chức năng trấn áp nhằm đập tan sự phản kháng của kẻ thù chống lại sự
nghiệp xây dựng CNXH.
Nhiệm vụ của nhà nước XHCN: Quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển



kinh tế; cải thiện không ngừng đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân;
quản lý văn hoá – xã hội, xây dựng nền văn hoá XHCN, thực hiện phát triển

giáo duc và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ của nhân dân…
c. Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước XHCN
Nhà nước là công cụ để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình là xoá bỏ CNTB, xây dựng CNCS. Do đó, giai cấp công nhân tất yếu phải
xây dựng nhà nước của mình. Chỉ có như vậy mới thực hiện được chuyên chính vô
sản, trấn áp được các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp cách mạng XHCN.
Sự cần thiết phải xác lập chuyên chính vô sản, xây dựng được nhà nước XHCN
còn xuất phát từ thực tiễn của thời kỳ quá độ. Đó là thời kỳ còn tồn tại các giai cấp
bóc lột, các xu hướng chính trị vận động khác nhau, trong đó có xu hướng chống
CNXH. Do đó, cần phải có nhà nước để trấn áp, lôi kéo các lực lượng xã hội vào
sự nghiệp xây dựng CNXH.
Để mở rộng dân chủ đối với các tầng lớp nhân daancungx đòi hỏi phải củng cố
nhà nước vững mạnh và có thiết chế nhà nước phù hợp. Do đó, quá trình xây dựng
nhà nước XHCN là quá trình tất yếu gắn với quá trình xây dựng nền dân chủ
XHCN.
II.

Xây dựng nền văn hoá XHCN
1. Khái niệm văn hoá, nền văn hoá và nền văn hoá XHCN
a. Khái niệm văn hoá và nền văn hoá

-

Văn hoá là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra
bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình, biểu
hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.

- Nền văn hoá là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hoá được hình
thành và phát triển trên cơ sở kinh tế - chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử, trong


10


đó có ý thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát triển và
quyết định hệ thống các chính sách, pháp luật quản lý các hoạt động văn hoá.
b. Khái niệm nền văn hoá XHCN
- Nền văn hoá XHCN được xây dựng và phát triển trên nền tảng kinh tế chính trị của xã hội XHCN, đặc biệt trên cơ sở hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân do đảng cộng sản lãnh đạo, nhằm thoả mãn nhu cầu không
ngừng tăng lên về đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, đưa nhân
dân lao động thực sự trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hoá.
- Nền văn hoá XHCN có những đặc trưng cơ bản sau:
+ Hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nội dung cốt lõi, giữ vai trò chủ
đạo, quyết định phương hướng phát triển nền văn hoá XHCN.
+ Nền văn hoá XHCN là nền văn hoá có tính nhân dân rộng rãi và tính
dân tộc sâu sắc.
+ Nền văn hoá XHCN là nền văn hoá được hình thành và phát triển một
cách tự giác, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua tổ
chức đảng cộng sản, có sự quản lý của nhà nước XHCN.
2. Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hoá XHCN
- Xuất phát từ tính triệt để, toàn diện của cách mạng XHCN đòi hỏi phải
thay đổi phương thức sản xuất tinh thần, làm cho phương thức sản xuất
tinh thần phù hợp với phương thức sản xuất mới của xã hội XHCN.
- Xây dựng nền văn hoá XHCN là tất yếu trong quá trình cải tạo tâm lý, ý
thức và đời sống tinh thần của chế độ cũ để lại nhằm giải phóng nhân
dân lao động thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức của xã hội cũ lạc
hậu. Mặt khác, xây dựng nền văn hoá XHCN còn là một yêu cầu cần
thiết trong việc đưa quần chúng nhân dân lao động thực sự trở thành chủ
thể sáng tạo và hưởng thụ văn hoá tinh thần.
- Xây dựng nền văn hoá XHCN là tất yếu trong quá trình nâng cao trình
độ văn hoá cho quần chúng nhân dân lao động. Đây là điều kiện cần thiết

để đông đảo quần chúng nhân dân lao động chiến thắng nghèo nàn, lạc
hậu, nâng cao trình độ và nhu cầu văn hoá của quần chúng.
- Xây dựng nền văn hoá XHCN là một tất yếu khách quan bởi vì văn hoá
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng CNXH.
3. Nội dung và phương thức xây dựng nền văn hoá XHCN
11


a. Những nội dung cơ bản của quá trình xây dựng nền văn hoá
XHCN
Việc xây dựng nền văn hoá XHCN bao gồm những nội dung chính sau:
- Một là, cần phải nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức
của xã hội mới
+ Nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức mới trở thành nội
dung cơ bản của nền văn hoá XHCN, bởi vì trí tuệ khoa học và cách
mạng là yếu tố quan trọng đối với công cuộc xây dựng CNXH.
+ Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn lao động có chất lượng và bồi dưỡng
nhân tài, hìh thành và phát triển đội ngũ trí thức XHCN vừa là nhu cầu
cấp bách, vừa là nhu cầu lâu dài của sự nghiệp xây dựng CNXH và
CNCS.
- Hai là, xây dựng con người phát triển toàn diện. Đó là con người có tinh
thần và năng lực xây dựng thành công CNXH, là con người lao động
mới, là con người có tinh thần yêu nước chân chính và tinh thần quốc tế
trong sáng, là con người có lối sống tình nghĩa, có tính cộng đồng cao.
- Ba là, xây dựng lối sống XHCN
Lối sống XHCN được xây dựng, hình thành trên những điều kiện cơ bản sau:
+ Chế độ công hữu về TLSX, trong đó sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo.
+ Nguyên tắc phân phối theo lao động.
+ Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
+ Hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân giữ vai trò

chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.
+ Xoá bỏ tình trạng bất bình đẳng dân tộc, giới tính, thực hiện công bằng,
mở rộng dân chủ…
- Bốn là, xây dựng gia đình văn hoá
+ Gia đình là một giá trị văn hoá của xã hội. Văn hoá gia đình luôn gắn
bó, tương tác với văn hoá cộng đồng dân tộc, giai cấp và tầng lớp xã hội
trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định của mỗi quốc gia dân tộc nhất định.
+ Muốn xây dựng gia đình văn hoá, điều trước tiên là phải xây dựng
được cơ sở kinh tế - xã hội của nó.
+ Thực chất của việc xây dựng gia đình văn hoá là nhằm góp phần xây
dựng nền văn hoá XHCN. Quan điểm này xuất phát từ mối quan hệ giữa
12


gia đình và xã hội. Gia đình là tế bào của xã hội, mỗi gia đình hoà thuận,
hạnh phúc sẽ góp phần cho sự ổn định, lành mạnh của xã hội; ngược lại,
xã hôi phát triển ổn định, lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho gia đình ấm no,
hạnh phúc.
+ Gia đình văn hoá được xây dựng, tồn tại và phát triển trên cơ sở giữ
gìn và phát huy giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc, xoá bỏ những yếu tố
lạc hậu, những tàn tích của hôn nhân, gia đình phong kiến, TBCN, đồng
thời tiếp thu những giá trị tiến bộ của nhân loại về gia đình.
+ Việc xây dựng mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và giữa
gia đình với xã hội là nội dung quan trọng nhất của quá trình xây dựng
gia đình văn hoá dưới CNXH. Phải tạo dựng mối quan hệ vợ chồng bình
đẳng, thương yêu,giúp đỡ nhau về mọi mặt. Mối quan hệ giữa cha mẹ và
con cái, giữa anh chị em trong gia đình là mối quan hệ huyết thống, tình
cảm của tình yêu thương và trách nhiệm.

b. Phương thức xây dựng nền văn hoá XHCN

- Thứ nhất, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai
- cấp công nhân trong đời sống tinh thần của xã hội
+ Đây là phương thức quan trọng để xây dựng gia đình văn hoá XHCN vì
nó là phương thức cơ bản để giữu vững đặc trưng bản chất của nền văn
hoá XHCN.
+ Phương thức này được thực hiện thông qua việc truyền bá hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân trong tầng lớp nhân dân bằng những phương
pháp và hình thức thích hợp.
- Thứ hai, không ngừng tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản và
vai trò quản lý của nhà nước XHCN đối với hoạt động văn hoá.
+ Sự lãnh đạo của đảng cộng sản và sự quản lý của nhà nước XHCN đối
với mọi hoạt động văn hoá là phương thức có tính nguyên tắc, là nhân tố
quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng nền văn hoá XHCN. Phương
thức này được coi là sự bảo đảm về chính trị, tư tưởng của giai cấp công
nhân đi đúng quỹ đạo và mục tiêu xác định.

13


+ Đảng lãnh đạo xây dựng nền văn hoá bằng cương lĩnh, đường lối, chính
sách văn hoá của mình và sự lãnh đạo của đảng phải được thể chế hoá
trong hiến pháp, pháp luật, chính sách.
- Thứ ba, xây dựng nền văn hoá XHCN phải theo phương thức kết hợp
giữa việc kế thừa giá trị trong di sản văn hoá dân tộc với tiếp thu có chọn
lọc những tinh hoa vă hoá của nhân loại.
+ Văn hoá dân tộc là nền móng trên cơ sở đó tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại.
+ Sự gắn kết giữa giữ gìn và kế thừa văn hoá dân tộc tiếp thu giá trị văn
hoá nhân loại với quá trình sản sinh giá trị mới tạo nên sự thống nhất
biện chứng của hai mặt giữ gìn và sáng tạo văn hoá.

- Thứ tư, tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các hoạt động và
sáng tạo văn hoá.
+ Trong tiến trình cách mạng XHCN, trong sự nghiệp xây dựng CNXH,
nhân dân lao động đã trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hoá
+ Để phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của quần chúng, đảng cộng
sản và nhà nước XHCN cần phải tổ chức nhiều phong trào nhằm lôi
cuốn đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào các hoạt động và sáng
tạo văn hoá.
III.

Giải quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo
1. Vấn đề dân tộc và những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
a. Khái niệm dân tộc
- Nghĩa thứ nhất, dân tộc là một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ
và bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ chung của cộng
đồng và có những nét văn hoá đặc thù. Dân tộc xuất hiện sau bộ lạc, bộ
tộc có tính kế thừa và phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ
lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của cộng đồng dân
cư đó.
- Nghĩa thứ hai, dân tộc là một cộng đồng người ổn định, bền vững hợp
thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung, nền kinh tế thống
nhất, quốc ngữ chung, có truyền thống văn hoá, truyền thống đấu tranh
chung trong quá trình dựng nước và giữ nước.
14


b. Hai xu hướng phát triển của dân tộc và vấn đề dân tộc trong
xây dựng CNXH
Khi nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong CNTB, Lênin đã phân

tích và chỉ ra hai xu hướng phát triển có tính khách quan của nó:
- Xu hướng thứ nhất, tách ra để phát triển. Xu hướng này gắn liền với giai
đoạn đầu của CNTB do sự thức tỉnh và trưởng thành của ý thức.
- Xu hướng thứ hai, liên kết lại để phát triển. Xu hướng này nổi bật trong
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
a. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong
việc giải quyết vấn đề dân tộc.
Trên cơ sở tư tưởng của C. Mác và Ph. Ănggen về vấn đề dân tộc, cùng với
sự phân tích hai xu hướng của vấn đề dân tộc, Lênin đã nêu ra “Cương
lĩnh dân tộc” với ba nội dung cơ bản: Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng;
các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
- Các dân tộc có quyền bình đẳng
+ Bình đẳng là quyền thiêng liêng của các dân tộc, là mục tiêu phấn đấu
của các dân tộc. Tất cả các dân tộc, dù đông người hay ít người, có trình
độ phát triển cao hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau.
+ Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc
phải được pháp luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực tế.
+ Trong quan hệ giữa các quốc gia – dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc gắn
liền với cuộc đấu tranh chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá
quyền nước lớn; chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển
đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế.
- Các dân tộc được quyền tự quyết
+ Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc, quyền tự
quyết định con đường phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của dân tộc
mình.
+ Quyền dân tộc tự quyết bao gồm: quyền tự do phân lập thành cộng đồng
quốc gia dân tộc độc lập và quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân tộc
khác trên cơ sở bình đẳng.
+ Khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc, cần đứng vững trên
lập trường của giai cấp công nhân là ủng hộ các dân tộc phụ thuộc, thuộc

15


địa đứng lên chống ách thống trị, giành độc lập, tự chủ. Đồng thời phải
kiên quyết chống thủ đoạn dùng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can
thiệp công việc nội bộ các nước, kích động tâm lý đòi li khai dân tộc.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
+ Tử tưởng này là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân,
phong trào công nhân và phản ánh tính thống nhất giữa sự nghiệp giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp.
+ Khi CNTB trở thành một hệ thống, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc
tế thì giai cấp vô sản phải liên hiệp lại để chống kẻ thù chung của mình,
giải phóng mình, đồng thời giải phóng toàn nhân loại.
2. Tôn giáo và những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo
a. Khái niệm tôn giáo
- Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản ánh hư ảo vào trong
đầu óc con người những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực
lượng siêu trần thế.
Sự xuất hiện và biến đổi của tôn giáo gắn liền với ba nguồn gốc cơ bản sau:
+ Nguồn gốc kinh tế - xã hội: Trong xã hội nguyên thuỷ, con người bất lực
trước điều kiện sinh hoạt vật chất thấp kém. Họ cảm thấy yếu đuối trước tự nhiên,
vì thế họ đã gán cho tự nhiên sức mạnh của siêu nhiên. Khi có sự phân chia giai
cấp, xã hội càng phức tạp. Con người phải chịu sự áp bức, bóc lột, rủi ro của những
yếu tố tự phát, ngẫu nhiên chi phối. Một lần nữa, con người lại chịu sự bất lực
trước xã hội. Sự bần cùng về kinh tế, sự áp bức về chính trị, những bất hạnh trong
cuộc đấu tranh chống giai cấp thống trị là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
+ Nguồn gốc nhận thức: Trong điều kiện xã hội nhất định, ranh giới giữa
“biết” và “chưa biết” vẫn tồn tại. Có những điều khoa học đã chứng minh nhưng
do trình độ dân trí còn hạn chế nên vẫn là mảnh đất tốt cho tôn giáo tồn tại và phát

triển. Những hiện tượng như mưa bão, hạn hán, lũ lụt, động đất, núi lửa… đã tác
động trực tiếp đến đời sống con người, gây ra nhiều hậu quả. Sự bất lực, sợ hãi
khiến con người thờ cúng, cầu khấn các lực lượng tự nhiên để mong được che chở.
Nhiều hiện tượng bí ẩn của tự nhiên cho đến naykhoa học chưa giải thích được nên
con người đã biến tự nhiên thành những vị thần.
+ Nguồn gốc tâm lí: Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm “Sự sợ
hãi sinh ra thần linh” ( người đầu tiên đưa ra luận điểm này là thi sĩ Latin Lucrece,
thế kỷ I trước Công nguyên). V. I. Lênin tán thành ý kiến đó, ông phân tích thêm:
16


“Sự sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản – mù quáng vì quần chúng nhân dân
không thể đoán trước được nó. Bất cứ lúc nào trong đời sống của người vô sản và
tiểu chủ cũng bị đe doạ đem lại cho họ sự phá sản “đột ngột”, “bất ngờ”, “ngẫu
nhiên”, làm cho họ phải diệt vong, biến họ thành kẻ ăn xin, kẻ bần cùng… và dồn
họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại”. (Lênin
toàn tập, tập 17, tr 515 – 516).
b. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng CNXH
Trong quá trình xây dựng CNXH và trong xã hội XHCN, tôn giáo
vẫn còn tồn tại, trong đó có các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Nguyên nhân nhận thức: Trong tiến trình xây dựng CNXH và trong xã
hội XHCN vẫn còn nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội và con người mà
khoa học chưa lý giải được, trong khi đó trình độ dân trí chưa thực sự
được nâng cao. Do đó, còn một bộ nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở và
lý giải chúng từ sức mạnh của thần linh.
- Nguyên nhân kinh tế:
Trong xã hội XHCN, nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ vẫn còn
tồn tại nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với những lợi ích khác
nhau của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Khoảng cách chênh lệch về
kinh tế, văn hoá, xã hội…của các nhóm dân cư vẫn còn tồn tại, do đó,

những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến con người,
làm con người dễ trở nên thụ động, tin tưởng, cầu mang vào những lực
lượng siêu nhiên.
- Nguyên nhân tâm lý:
Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, ăn sâu vào
tiềm thức của nhiều người dân. Tín ngưỡng, tôn giáo liên quan đến tư
tưởng, tình cảm của một bộ phận dân cư. Vì vậy, sự tồn tại của tôn giáo
trong xã hội XHCN như là một hiện tượng khách quan.
- Nguyên nhân chính trị - xã hội:
+ Tôn giáo về cơ bản là tiêu cực nhưng trong các nguyên tắc sinh hoạt có
những điểm phù hợp với CNXH về pháp luật, với đạo đức, thuần phong,
mĩ tục của dân tộc. Vì thế, tôn giáo tồn tại trong CNXH là một hiện
tượng khách quan.
+ Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra dưới nhiều hình thức phức tạp.
Một số thế lực đã lợi dụng tôn giáo vì mục đích ngoài tôn giáo. Những
cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, dân tộc, tôn giáo, khủng bố, lật đổ
17


vẫn diễn ra ở nhiều nơi. Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn
tại.
- Nguyên nhân về văn hoá:
Đa số tín ngưỡng, tôn giáo đều gắn với sinh hoạt văn hoá của nhân dân. Do
vậy, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc đòi hỏi phải bảo tồn
tôn giáo ở những mức độ nhất định. Chẳng hạn các công trình văn hoá như
nhà thờ, chùa, miếu.
c. Các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc
giải quyết vấn đề tôn giáo.
- Một là, giải quyết những vấn đề phát sinh từ tôn giáo trong đời sống xã
hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

- Hai là, tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
- Ba là, thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo và những người
không có tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo. Nghiêm cấm mọi hành vi chia
rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.
- Bốn là, Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong vấn đề tôn giáo.
- Năm là, Phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn
giáo.
Liên hệ với Việt Nam

18



×