Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Nghiên cứu một số chỉ số sinh học của trẻ em mầm non ở huyện sóc sơn, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.12 KB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHAM HÀ NỘI 2
________________2_____________I_____________________________I---------------------------- •

NGUYỄN THỊ HƯƠNG THẢO

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH HỌC
CỦA TRẺ EM MẦM NON Ở HUYÊN SÓC SƠN, HÀ NÔI

Chuyên ngành: Sinh học thực nghiệm
Mã số: 60 42 01 14

LUÂN VĂN THAC sĩ SINH HOC
•••

Ngưòi hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Loan

HÀ NỘI, 2015


Bằng tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn
PGS.TS Trần Thị Loan, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em về mặt
chuyên môn, hướng nghiên cứu, cách tổ chức, triển khai nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong bộ môn Sinh lý người
và động vật, khoa Sinh học và phòng Sau đại học, trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2 đã tạo điều kiện cho em học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các cô giáo của các trường
mầm non ở xã Xuân Giang và thị trấn Sóc Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà
Nội, cùng tất cả bạn bè và người thân trong gia đình đã giúp đỡ, động viên tôi
hoàn thành luận văn.


Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả

Nguyễn Thị Hương Thảo
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết


quả, các số liệu trình bày trong luận văn là trung thục và chua từng công bố
trong bất kì công trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả

Nguyễn Thị Hương Thảo


NHỮNG CHỮ VIÉT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BMI Body mass index (chỉ số khối cơ thể)
Cs

Cộng sự

CDC National Center for Chronic Disease Prevention and Health Promotion
(Trung tâm quốc gia phòng bệnh mãn tính và tăng cường sức
khỏe)
GTSH Giá trị sinh học người Việt Nam HSSH
Hằng số sinh học người Việt Nam Nxb Nhà
xuất bản
SD

Standard Divistion (độ lệch chuẩn)


TS

Tổng số

Tr

Trang

WHO Word health organization (tổ chức Y tế thế giới)
F AO Food and Agriculture Organization (Tổ chức Nông lương thế
giới)



DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.16. Vòng đùi của trẻ mầm non ở thị trấn Sóc Sơn và xã Xuân
Giang

6


Bảng 3.33. HATT của trẻ mầm non ở thị trấn Sóc Sơn và xã Xuân
Giang

7




Hình 3.15. Đồ thị biểu diễn vòng cổ tay của trẻ mầm non ở huyện Sóc Sơn... 43
Hình 3.16. Đồ thị biểu diễn vòng đùi của trẻ mầm non ở huyện Sóc Sơn... 45
Hình 3.17. Đồ thị biểu diễn vòng bắp chân của trẻ mầm non ở huyện

Hình 3.31. Biểu đồ biểu diễn tần số tim của trẻ nữ ở thị trấn Sóc Sơn và


1
0
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trẻ em là nguồn nhân lực mới cho tưong lai và cũng là hi vọng của toàn
nhân loại. Vì vậy, việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em đã trở thành nhiệm vụ của
toàn xã hội, là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia.
Để đáp ứng đuợc nguồn nhân lực có sức khỏe và trình độ khoa học kỹ
thuật cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nuớc, việc nâng cao tầm
vóc và thể lực của nguời Việt Nam đang là mối quan tâm hàng đầu của Nhà
nuớc. Vì vậy trong “Đe án phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi giai
đoạn 2010 - 2015” [15] đã khẳng định “Nhà nuớc có trách nhiệm quản lý, đầu
tu phát triển giáo dục mầm non”, “Việc chăm lo để mọi trẻ em năm tuổi đuợc
đến truờng, lớp mầm non là trách nhiệm của các cấp, các ngành, của mỗi gia
đình và toàn xã hội”. Mục tiêu của đề án là “Bảo đảm hầu hết trẻ em năm tuổi ở
mọi vùng miền đuợc đến lớp, nhằm chuẩn bị tốt về thể chất, trí tuệ, tình cảm,
thẩm mỹ, tiếng Việt và tâm lý sẵn sàng đi học, bảo đảm chất luợng để trẻ em
vào lớp 1”.
Trong “Chiến luợc phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020”
[7] cũng đua ra mục tiêu tổng quát là “Đua nhân lực Việt Nam trở thành nền
tảng và lợi thế quan trọng nhất để phát triển bền vững đất nuớc, hội nhập quốc
tế và ổn định xã hội, nâng cao trình độ năng lực cạnh tranh của nhân lực nuớc
ta lên mức tuông đuong các nuớc tiên tiến trong khu vực, trong đó một số mặt

tiếp cận trình độ các nuớc phát triển trên thế giới”. Và mục tiêu cụ thể của
chiến luợc là: “Nhân lực Việt Nam có thể lực tốt, tầm vóc cuờng tráng, phát
triển toàn diện về trí tuệ, ý chí, năng lực và đạo đức, có năng lực tự học, tự đào
tạo, năng động, chủ động, tự lực, sáng tạo, có tri thức và kỹ năng nghề nghiệp
cao, có khả năng thích ứng và nhanh chóng tạo đuợc thế chủ động trong môi
truờng sống và làm việc”.


1
1
Trong “Đồ án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai
đoạn 2011 - 2030” [16] cũng nêu lên mục tiêu là “Phát triển thể lực, tầm vóc
người Việt Nam trong 20 năm tới để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; từng bước nâng cao chất
lượng giống nòi và tăng tuổi thọ khỏe mạnh của người Việt Nam”. Để thực
hiện được mục tiêu trên thì một trong những nhiệm vụ của đề án là khảo sát,
thống kê các chỉ số sinh học và tổng họp các tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá thể
lực, tầm vóc người Việt Nam”.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các chỉ
số sinh học, hoạt động thần kinh của trẻ em Việt nam ở các địa bàn khác nhau.
Các kết quả nghiên cứu đã được trình bày trong các tạp chí, các tài liệu chuyên
ngành [11], [19], [21], [24], [26], [27], [30], [34], [61]... Tuy nhiên, các chỉ số
sinh học của trẻ em không phải là hằng định mà có thể thay đổi phụ thuộc vào
đối tượng nghiên cứu, chế độ dinh dưỡng, tình hình phát triển của xã hội, chất
lượng dinh dưỡng và lượng thông tin. Do đó, cần phải triển khai nghiên cứu
một cách liên tục, rộng khắp nhằm cung cấp những dữ liệu cần thiết không chỉ
cho các nghiên cứu y học, sinh học và trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an
ninh và quốc phòng.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa của cả
nước. Trong 60 năm qua, ngành Giáo dục và Đào tạo Thủ đô luôn cố gắng nâng

cao chất lượng giáo dục, chất lượng giáo dục đại trà và mũi nhọn ngày càng
tiến bộ, khẳng định vị thế là trung tâm giáo dục hàng đầu của cả nước. Hà Nội
đã đạt chuẩn phố cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuối vào năm 2013, về trước
kế hoạch của thành phố 1 năm và trước 2 năm so với kế hoạch của Bộ Giáo dục
và Đào tạo.
Huyện Sóc Son là một huyện ngoại thành của Hà Nội, có rất nhiều tiềm
năng phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm gần đây, mức sống của người


1
2
dân đã được nâng cao nhưng ở một số xã, đời sống của người dân vẫn còn
nhiều khó khăn. Đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu về thể lực, sinh lý của
trẻ em lứa tuổi mầm non của huyện để có thể dựa vào đó đề ra biện pháp góp
phần nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho trẻ em ở
địa bàn này. Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu một số
chỉ số sinh học của trẻ em mầm non ở huyện Sóc Sơn, Hà Nội”
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định được một số chỉ số sinh học của trẻ mầm non(3 - 6 tuổi) thuộc
khu vực thị trấn Sóc Sơn và xã Xuân Giang ở huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Xác định được một số chỉ số hình thái và thể lực (chiều cao đứng, khối
lượng cơ thể, vòng ngực, vòng đầu,vòng bụng, vòng cánh tay, vòng cổ
tay, vòng đùi, vòng bắp chân, vòng cổ chân) của trẻ mầm non thuộc khu
vực thị trấn Sóc Sơn và xã Xuân Giang ở huyện Sóc Sơn.

-


Xác định được chỉ số pignet, chỉ số BMI và thể trạng của trẻ mầm non
thuộc khu vực thị trấn Sóc Sơn và xã Xuân Giang ở huyện Sóc Sơn.

-

Xác định được một số chỉ số sinh lý hô hấp và tuần hoàn (tần số thở, tần
số tim, huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu) của trẻ mầm non thuộc khu
vực thị trấn Sóc Sơn và xã Xuân Giang ở huyện Sóc Sơn.

-

Xác định được mối liên quan giữa các chỉ số nghiên cứu.

4. Đối tuợng và phạm vỉ nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là trẻ mầm non từ 3 - 6 tuối thuộc khu vực thị trấn
Sóc Sơn và xã Xuân Giang ở huyện Sóc Sơn. Trẻ được nghiên cứu có sức khỏe
bình thường, không có các dị tật về hình thể và không mắc các bệnh mạn tính.
Tống số đối tượng nghiên cứu là 997 trẻ mầm non, trong đó có 497 trẻ ở khu
vực thị trấn Sóc Sơn và 500 trẻ ở khu vực xã Xuân Giang.


1
3
5. Phương pháp nghiên cứu
-

Các chỉ số sinh học được xác định theo các phưong pháp đã chuẩn hóa
hiện hành.

-


Xác định thể trạng của trẻ mầm non theo tiêu chuẩn của CDC.

6. Những đóng góp của đề tài
-

Là đề tài đầu tiên xác định được các đặc điểm sinh học và thể trạng của
trẻ mầm non thuộc khu vực thị trấn Sóc Sơn và xã Xuân Giang ở huyện
Sóc Sơn, Hà Nội, đồng thời đánh giá được mối liên quan giữa các chỉ số
nghiên cứu của trẻ mầm non ở huyện Sóc Sơn.

Các số liệu trong luận văn có thể góp phần vào việc bổ sung số liệu
cho việc nghiên cứu về các các chỉ số sinh học của trẻ mầm non và
có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nuôi, dạy trẻ mầm
non.


NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN cứu
1.1.

Đăc điểm hình thái - thể lưc của trẻ em

1.1.1.

Các chỉ số hình thái - thể ỉưc

••


Hình thái - thể lực là khái niệm phản ánh cấu trúc tổng họp của cơ thể,
phản ánh sức khỏe, sức lao động, thẩm mỹ và khả năng, năng lực vận động của
mỗi con người. Vì vậy, từ lâu vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học quan tâm
và nghiên cứu.
Cùng với sự phát triển của y học và sinh học người, các công trình
nghiên cứu hình thái, thể lực được bắt đầu từ rất sớm trong lịch sử và đến nay
vẫn là vấn đề thời sự khoa học về con người, nên việc nghiên cứu hình thái thể
lực ngày càng phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là đối với trẻ em.
Một trong số những biểu hiện cơ bản của thể lực là số đo về kích thước
cơ thể. Vì vậy, những chỉ số để đánh giá sự phát triển hình thái - thể lực của cơ
thể trẻ em gồm có khối lượng cơ thể, các số đo về kích thước của cơ thể và của
các bộ phận trong cơ thể như chiều cao, vòng đầu, vòng ngực, vòng bụng, vòng
mông, vòng cánh tay, vòng đùi, vòng bắp chân... Các chỉ số này nói lên sự tăng
trưởng và tốc độ tăng trưởng của cơ thể từ khi mới sinh cho đến lúc chết, chúng
mang tính di truyền và có mối tương quan nhất định với nhau [1], Trong đó,
chiều cao, khối lượng cơ thể và vòng ngực là những chỉ số đặc trưng cơ bản
phản ánh thể lực của trẻ em. Từ ba chỉ số này có thể tính thêm các chỉ số khác
biểu hiện mối liên quan giữa ba chỉ số đó như chỉ số pignet, chỉ số khối cơ thể
(BMI), chỉ số QVC, chỉ số Broca, chỉ số Quetelet, ... Trong đó, chỉ số pignet và
chỉ số BMI được sử dụng nhiều hơn cả [2],
Trong các chỉ số đánh giá hình thái - thể lực của trẻ em, chiều cao là chỉ


số được quan tâm, chú ý sớm nhất trong hầu hết các lĩnh vực của nhân trắc học,
nhân chủng học và y học. Chiều cao phản ánh quá trình phát triển chiều dài các
xương của con người, biểu hiện tầm vóc của một người. Chiều cao còn được
xem như một trong những chỉ tiêu quyết định để phân biệt các chủng tộc trên
thế giới. Do đó các nhà y học thường dựa vào chiều cao để đánh giá sức lớn của
trẻ em và tầm vóc của một người [8]. Chiều cao thường thay đổi theo giới tính,
chủng tộc và chịu ảnh hưởng nhất định của môi trường sống [18], [19], [33],

[42], [52], [59], [65], [67], [69], [70], [73], [74]. Sự phát triển chiều cao phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố bên trong cơ thể như tính di truyền, hoocmon, quá
trình hấp thu... và các yếu tố bên ngoài như chế độ dinh dưỡng, điều kiện kinh
tế, giáo dục và văn hóa xã hội... Các yếu tố này tác động lên sự phát triển chiều
cao một cách dần dần, liên tục và không đồng nhất [68].
Để theo dõi sự tăng trưởng về chiều cao ở trẻ em, có thể áp dụng công
thức tính gần đúng chiều cao trung bình cho trẻ em trên một tuổi như sau [2]:
X = 75 cm + 5 cm (N - 1)
Trong đó:

X: Chiều cao trung bình của trẻ trên 1 tuổi (cm)
N: Số tuối của trẻ (năm)
75 cm: Chiều cao trẻ 1 năm 5 cm:
Chiều cao tăng trung bình/năm.

Cùng với chiều cao, khối lượng cơ thể cũng được coi là một chỉ số quan
trọng để đánh giá sự phát triển của cơ thể. Khối lượng cơ thể biểu thị mức độ
phát triển tổng hợp, phản ánh tỉ lệ giữa hấp thu với tiêu hao năng lượng của con
người. So với chiều cao, khối lượng cơ thể thể ít phụ thuộc vào yếu tố di truyền
hơn mà có liên quan chủ yếu tới điều kiện dinh dưỡng và nhiều yếu tố khác nên
thường được khảo sát nhằm đánh giá thể lực của con người [1], [19], [23], [29],
[42], [48]. Ngoài ra, khối lượng cơ thể còn phụ thuộc vào các yếu tố địa lý. Ở
các châu lục khác nhau, khối lượng cơ thể của con người cũng khác nhau và


trong cùng một nước ở các vùng miền khác nhau, khối lượng cơ thể cũng khác
nhau [53], [69].
Khối lượng cơ thể của trẻ em trên một tuổi có thể tính gần đúng như sau
[56]:
X (kg) = 9 kg + 1,5 (N -1)

Trong đỏ:

X: Cân nặng của trẻ trên một tuổi (kg)
9 kg: Cân nặng của trẻ lúc một tuổi (kg)
1,5 kg: Cân nặng tăng trung bình mỗi năm
N: Số tuổi của trẻ (năm).

Vòng ngực của con người cũng được coi là một đặc trưng tiêu biểu phản
ánh hình thái - thể lực của con người. Một người có vòng ngực rộng thường có
thể lực tốt. Sự phát triển của vòng ngực thường xảy ra song song với sự phát
triển chiều cao đứng và khối lượng cơ thể. Đặc biệt, sự phát triển của vòng
ngực thường liên quan mật thiết với sự phát triển khối lượng cơ thể nên hệ số
tương quan giữa vòng ngực và khối lượng cơ thể rất cao. Những người đầu tiên
lưu ý tới số đo vòng ngực là các bác sỹ lâm sàng khi họ nhận thấy mối liên
quan giữa mức độ phát triển lồng ngực và các bệnh của cơ quan hô hấp. Dần
dần đến cuối thế kỷ XIX, vòng ngực trở thành một chỉ tiêu đánh giá thể lực
quan trọng sau chiều cao trong các cuộc tuyển chọn binh lính, nhân công lao
động... Khi người ta khắng định tầm quan trọng của việc gia tăng lượng ôxi đưa
vào phối thì độ giãn nở của lồng ngực cũng được lưu ý thêm qua số đo vòng
ngực hít vào và thở ra [3], [54], [56], [58],
Ngoài vòng ngực, số đo các vòng khác của cơ thể như vòng đầu, vòng
bụng, vòng mông, vòng cánh tay, vòng đùi, vòng bắp chân... cũng là những chỉ
số quan trọng thể hiện sự phát triển của trẻ em. Vòng đầu phản ánh sự phát
triển của hộp sọ nên gián tiếp thể hiện sự phát triển của bộ não - phần quan
trọng nhất của hệ thần kinh trung uong. Vòng cánh tay, vòng đùi, vòng bắp


chân... nói lên sự phát triển của tay và chân - những bộ phận quan trọng thực
hiện sự vận động của cơ thể, nhất là ở cơ thể trẻ em.
Trong khi nghiên cứu những đặc điểm hình thái có liên quan đến việc

đánh giá mức độ tăng truởng và phát triển thể lực của con nguời, nguời ta dần
dần nhận ra rằng, ở mức độ khác nhau, trong những hoàn cảnh khác nhau, với
các loại hình cơ thể khác nhau, các chỉ tiêu hình thái có tuơng quan với nhau
theo những mức độ nhất định. Thể lực không thể hiện duy nhất ở từng loại chỉ
tiêu riêng rẽ, nguợc lại là tổng hòa của một số yếu tố cấu thành. Vì vậy có thể
tính các chỉ số tổng họp và dựa vào các chỉ số đó để đánh giá thể lực của con
nguời [51]. Trong các chỉ số tổng hợp đó thì chỉ số pignet và chỉ số BMI (chỉ số
khối cơ thể) đuợc sử dụng nhiều hơn cả.
Chỉ số pignet là chỉ số thể hiện mối tuơng quan giữa chiều cao, khối
luợng cơ thể và vòng ngực. Chỉ số pignet đã đuợc quốc tế thừa nhận từ lâu và
đuợc dùng để đánh giá thể lực của con nguời. Đây là một chỉ số dễ vận dụng
phổ cập để phân loại sức khỏe cho nhiều đối tuợng nên đã đuợc nhiều tác giả
nghiên cứu. Chỉ số pignet để đánh giá mức độ khỏe hay yếu của một nguời
[51].
Chỉ số BMI (chỉ số khối cơ thể) thể hiện mối tuơng quan giữa chiều cao
và khối luợng cơ thể. Hiện nay Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Tổ chức Nông
luơng Thế giới (FAO) đã công nhận chỉ số BMI là chỉ số thể hiện mức độ gầy
hay béo của một nguời nên đuợc dùng để đánh giá thể trạng của con nguời [76],
[77],
1.1.2.

Những nghiên cứu về các chỉ số hình thái - thể lực

Công trình đầu tiên trên thế giới nghiên cứu sự tăng truởng của con
nguời là của C.F Jampert. Ông đã nghiên cứu chiều cao, khối luợng cơ thể và
các chỉ số khác của trẻ em từ 1 đến 25 tuổi theo phương pháp cắt ngang. Cũng
thời gian này Montbeilard.p thực hiện nghiên cứu dọc trên con trai mình từ khi


sinh ra (năm 1759) đến khi 18 tuổi (năm 1777) (theo [75]).

Năm 1919, nhà nhân trắc học người Đức, Rudoll Martin đã đề xuất một
hệ thống các dụng cụ và phương pháp đo để xác định kích thước của cơ thể. Từ
đó đến nay, phương pháp Martin tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện về cả lý
thuyết và thực tiễn (theo [60]).
Năm 1964, trong cuốn “Nhân trắc học”, F. Vaneler Rael đã đưa ra
những nhận xét toàn diện về các quy luật phát triển thể lực theo giới tính, lứa
tuổi, nghề nghiệp và xây dựng thang phân loại thể lực của con người theo các
chỉ số đánh giá thể lực. Tại hội nghị lần thứ bảy toàn Liên Xô về vấn đề sinh
thái, sinh lý và hình thái lứa tuổi, B.A. Nhikitic và v.p. Tresov đã công bố sơ
đồ phát triển cá thể sau khi sinh của con người. Sơ đồ cho biết khá chi tiết về sự
tăng trưởng phát triển của con người ở mỗi giai đoạn và đã được áp dụng rộng
rãi trong nhân trắc học, giáo dục học, nhi khoa (theo [30]).
Ở Việt Nam, công trình nghiên cứu đầu tiên về sự tăng trưởng chiều cao
và khối lượng cơ thể của trẻ em là của Mondiere (1875) và sau này là của
Huard p và Bogot (1938), Đỗ Xuân Họp (cộng tác với Huard) (1943) với cuốn
"Hình thái học và giải phẫu học mỹ thuật". Tuy nhiên, những công trình này
còn lẻ tẻ, phương pháp còn đơn giản (theo [37]).
Từ năm 1954 đến nay, đã có nhiều công trình của các tác giả nghiên cứu
về các đặc điểm sinh học của người Việt Nam ở các lứa tuổi, các dân tộc.
Năm 1974, cuốn “Nhân trắc học và ứng dụng trên người Việt Nam” [51]
của Nguyễn Quang Quyền ra đời. Cuốn sách này có ý nghĩa rất quan trọng cho
việc nghiên cứu nhân trắc học ở Việt Nam và được nhiều tác giả sử dụng trong
công trình nghiên cứu về con người.
Đến năm 1975, cuốn “Hằng số sinh học của người Việt Nam” [63] do
GS.Nguyễn Tấn Gi Trọng làm chủ biên được xuất bản lần đầu tiên ở nước ta.
Trong đó trình bày kết quả nghiên cứu tương đối công phu, khá hoàn chỉnh về


các chỉ số sinh học, sinh lý, sinh hóa của người Việt Nam. Các chỉ số sinh học
của trẻ em Việt Nam từ sơ sinh đến 15 tuổi được nghiên cứu tương đối toàn

diện, về các đặc điểm hình thái, kích thước của trẻ em lứa tuổi này có 30 chỉ số
được nghiên cứu như khối lượng cơ thể, chiều cao, vòng ngực, vòng đầu... chỉ
số pignet, Skelie, Vervaek, QVC.
Từ năm 1975 đến nay, ở Việt Nam, việc nghiên cứu các chỉ số sinh học
của trẻ em được nhiều tác giả thực hiện.
Năm 1976 - 1980, Vũ Thị Chín nghiên cứu về các chỉ số phát triển sinh
lý, tâm lý của trẻ em từ 0 đến 3 tuổi và đã xây dựng được biểu đồ phát triển về
chiều cao, cân nặng của trẻ và các kết quả được ứng dụng trong việc theo dõi sự
phát triển của trẻ dưới 3 tuổi [9].
Từ năm 1980 đến năm 1987, Đoàn Yên và cs [69] đã nghiên cứu một số
chỉ tiêu sinh học của người Việt Nam từ 3 đến 110 tuổi và nhận thấy ở mọi lứa
tuổi, chiều cao và khối lượng cơ thể trung bình của người Việt Nam nhỏ hơn so
với người Âu, Mỹ; nhịp độ tăng trưởng chậm và thời kỳ tăng trưởng kéo dài
hơn.
Sau đó, các chỉ số sinh học của người Việt Nam lại tiếp tục được thể
hiện qua tập “Atlat nhân trắc học người Việt Nam trong lứa tuổi lao động" của
tập thể tác giả do Võ Hưng chủ biên. Atlat đã cung cấp số liệu về hình thái
người lao động Việt Nam ở cả ba miền đất nước theo giới tính và nhiều lứa tuối
khác nhau. Các dẫn liệu trong Atlat còn gợi mở một nhận xét về các qui luật
phát triển hình thái, thể lực người lao động Việt Nam ở cả ba vùng lãnh thổ
theo chiều dài đất nước [28],
“Các chỉ tiêu nhân trắc hình thái thể lực người miền Bắc Việt Nam
trưởng thành trong thập niên 90” do Trịnh Văn Minh và cs [43] thực hiện cho
thấy, ở lớp tuổi thanh niên sau tuổi dậy thì, các kích thước vẫn tiếp tục phát
triển và đạt đỉnh cao vào lúc 2 0 - 2 1 tuổi (ở nữ) và 22 tuổi (ở nam). Nam giới
có chiều cao, cân nặng và các kích thước liên quan đến thể lực, cụ thể là với các


hoạt động cơ bắp luôn cao hơn so với nữ giới. Trong khi đó, các chỉ số khác có
liên quan đến dinh dưỡng, khối mỡ, chỉ số pignet thì của nữ lại cao hơn so với

của nam.
Trong đề tài KX - 07 - 07 với “Kết quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ
tiêu sinh học người Việt Nam” thì các chỉ số về hình thái thể lực của người Việt
Nam cuối thế kỉ XX đã được xét đến khá toàn diện. Các tác giả nhận thấy, các
kích thước hình thái của người Việt Nam nhỏ hơn so với người châu Âu và
châu Mỹ. Đa số kích thước thể lực của nam lớn hơn của nữ và tăng dần đến
một lứa tuổi nhất định tùy mỗi cá thể [59].
Năm 1989, nhóm tác giả Thẩm Thị Hoàng Điệp, Nguyễn Quang Quyền
và cs [18] nghiên cứu chiều cao, vòng đầu, vòng ngực, chỉ số dài các chi trên
8000 người từ 1 đến 55 tuổi ở ba miền Bắc - Trung - Nam và nhận thấy chiều
cao tăng nhanh nhất ở nam từ 13 - 15 tuổi và ở nữ từ 10 - 12 tuổi, vòng ngực
tăng nhanh nhất ở nam lúc 13 - 16 tuổi và ở nữ lúc 11 - 14 tuổi. Các tác giả
nhận thấy có quy luật gia tăng về chiều cao của người Việt Nam, tăng 4 cm/20
năm.
Dự án “Giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90 - thế kỷ
XX” (GTSH TK 90) do trường Đại học Y Hà Nội và Bộ Y tế thực hiện trên cả
3 miền Bắc, Trung, Nam bao gồm cả nông thôn, thành thị, miền núi và đồng
bằng đã đưa ra các chỉ số về nhân trắc, huyết học... của người Việt Nam. Theo
kết quả của dự án này các chỉ số sinh học chịu ảnh hưởng của môi trường sống
và yếu tố dân tộc [64],
Vào những năm 1990 - 1992, nhóm tác giả Nguyễn Thị Ngọc Trâm và
cs đã nghiên cứu trên 12.286 trẻ em dưới 6 tuối ở nhà trẻ mẫu giáo tại các tỉnh
Lào Cai, Yên Bái, Vĩnh Phú, Hải Hưng, Hà Nội, Huế, Khánh Hòa, Bắc Thái,
Long An và thành phố Hồ Chí Minh. Các chỉ số được theo dõi là cân nặng,
chiều cao, vòng ngực, vòng cánh tay và bề dày lớp mỡ dưới da. Kết quả cho


thấy, các chỉ số nghiên cứu trong thời gian này có cao hơn so với số liệu trong
“Hằng số sinh học người Việt Nam” năm 1975 và các chỉ số này ở trẻ trai cao
hơn trẻ gái. [61]

Năm 1991, Đào Huy Khuê [30] đã nghiên cứu 36 chỉ tiêu kích thước về
sự tăng trưởng và phát triển cơ thể của học sinh từ 6 - 17 tuổi ở Thị xã Hà
Đông, tỉnh Hà Sơn Bình. Tác giả nhận thấy, hầu hết các chỉ số sinh học đều
tăng dần theo tuổi, nhưng nhịp độ tăng trưởng không đều. Tốc độ tăng trưởng
các thông số lớn nhất của nam thường ở lứa tuổi 14 - 16 và của nữ ở lứa tuổi
11-15.
Năm 1991 - 1995, nghiên cứu trên 13.747 học sinh từ 8 - 14 tuổi ở các
địa phương Hà Nội, Vĩnh Phú, Thái Bình với các chỉ tiêu chiều cao, cân nặng,
vòng ngực trung bình của nhóm tác giả Trần Văn Dần và cs [10] cho thấy, so
với dẫn liệu trong cuốn “HSSH” [63] thì sự phát triển chiều cao của trẻ em từ
6 - 1 6 tuổi tốt hơn, đặc biệt là trẻ em thành phố và thị xã, nhưng sự tăng về cân
nặng chỉ thấy rõ ở trẻ em Hà Nội, còn ba khu vực nông thôn chưa thấy có sự
thay đổi đáng kể. Qua so sánh kết quả nghiên cứu năm 1971 và năm 1993 các
tác giả nhận thấy, sau hơn một thập kỷ, đối với học sinh Hà Nội có sự khác biệt
rõ rệt về chiều cao và cân nặng. Còn đối với học sinh Vĩnh Phú thì về chiều cao
có sự khác biệt rõ, còn về cân nặng chưa có sự khác biệt rõ. So với học sinh
nông thôn ở cùng một độ tuối thì học sinh ở thành phố, thị xã có xu hướng phát
triển thể lực tốt hơn.
Năm 1992 - 1994, Lê Nam Trà và cs [65] nghiên cứu trên 10.380 trẻ sơ
sinh đủ tháng tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội cho thấy, so với số liệu trong
“Hằng số sinh học người Việt Nam” năm 1975 thì chiều cao, cân nặng trung
bình của trẻ sơ sinh có tăng hơn và tăng ngang bằng với trẻ sơ sinh ở các nước
Đông Nam Á trong thập kỷ 60 - 70.
Năm 1993, Nghiêm Xuân Thăng [55] đã tiến hành nghiên cứu 17 chỉ số


hình thái của ngýời Việt Nam từ 1 - 25 tuổi ở Nghệ Tĩnh. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, các chỉ số về chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu... của cư dân
Nghệ Tĩnh có khí hậu vừa nóng khô vừa nóng ẩm phần lớn thấp hơn 0,5 - 4 cm
so với các chỉ số này của dân cư vùng đồng bằng Bắc Bộ không có thời kỳ

nóng khô. Theo tác giả, điều kiện sống đã ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và
phát triển các chỉ số hình thái của con người. Tác giả còn nhận thấy, có sự khác
biệt về các chỉ số hình thái thể lực theo giới tính và ở các lứa tuổi khác nhau có
sự phát triển không đồng đều, phát triển nhanh ở độ tuổi 5 - 7, 10 - 11 và 13 14.
Trong hai năm 1995 - 1996, Hàn Nguyệt Kim Chi và cs [5] nghiên cứu
trên 10.339 trẻ em từ 1 - 36 tháng tuổi và 11985 trẻ em từ 37 - 72 tháng tuổi tại
Hà Nội, Hà Tây, Hà Bắc, Ninh Bình, Nam Hà. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
mức tăng khối lượng cơ thể có nhanh hơn so với mức tăng chiều cao.
Năm 1997, Nguyễn Yên và cs [70] đã nghiên cứu trên các dân tộc Việt,
Mường, Dao thuộc các nhóm tuổi 1 - 5, 18 - 55 ở tỉnh Hà Tây đã đưa ra kết
luận rằng, tầm vóc thể lực của người Việt là tốt nhất, tiếp theo là người Mường
và sau cùng là người Dao.
Năm 1998, Vương Thị Hòa [24] “Nghiên cứu sự phát triển một số chỉ số
hình thái và chức năng của trẻ sơ sinh đến 4 tuổi vùng nông thôn Thái Bình”
nhận thấy cân nặng của trẻ sơ sinh bình thường tăng dần theo năm tháng, tăng
mạnh nhất trong 3 tháng đầu sau khi sinh, sau đó mức tăng giảm đi. So với lúc
mới sinh đến 1,5 tuổi trẻ nặng gấp 3 lần, lúc 3 tuổi cân nặng gấp 4 lần và 4 tuổi
nặng gấp 4,6 lần. Chiều cao của trẻ tăng dần theo tuổi, 3 tháng đầu tăng tương
đối nhanh, sau mức độ tăng chậm hơn. Lúc mới sinh, chiều cao của trẻ nam và
nữ không khác nhau nhưng sau khi sinh một tháng bắt đầu có sự khác biệt duy
trì đến tháng thứ 48. Lúc sơ sinh vòng đầu của trẻ nam lớn hon của trẻ em nữ.
Vòng đầu tăng dần theo tuổi và tăng nhanh nhất trong 3 tháng đầu sau sinh. Lúc


1 tuổi, vòng đầu của trẻ nam là 45,06 cm và của trẻ nữ là 44,39 cm. Trong
những năm sau, vòng đầu của trẻ nam, nữ tăng lên như nhau. Vòng ngực của
trẻ nam sơ sinh trung bình là 31,89 cm còn của trẻ nữ là 31,71 cm. Vòng ngực
tăng nhiều nhất trong 3 tháng đầu, sau đó mức tăng này chậm hơn. Trong các
năm thứ 2, thứ 3, thứ 4 mức tăng của cả nam và nữ đều như nhau.
Từ năm 1998 - 2002, Trần Thị Loan [35], [36], [37] đã tiến hành nghiên

cứu trên 3.023 học sinh ở Hà Nội từ 6 - 17 tuổi. Tác giả nhận thấy, thời điểm
tăng nhảy vọt về chiều cao diễn ra sớm hơn so với thời điểm tăng nhảy vọt về
vòng ngực và cân nặng từ 1 - 2 năm. Chiều cao của học sinh nam tăng nhanh ở
giai đoạn 1 1 - 1 5 tuổi, của học sinh nữ ở giai đoạn 1 0 - 1 3 tuổi. Cân nặng ở
học sinh nam tăng nhanh lúc 1 4 - 1 6 tuổi và ở học sinh nữ lúc 11 - 14 tuổi.
Vòng ngực trung bình của học sinh nam tăng nhanh lúc 1 3 - 1 6 tuổi, ở học
sinh nữ lúc 12 - 14 tuổi. Trên đồ thị biểu diễn tăng trưởng chiều cao của học
sinh có 2 điểm giao chéo là lúc 9 và 14 tuổi. Do tốc độ tăng chiều cao, vòng
ngực và cân nặng của học sinh diễn ra không tương ứng nên chỉ số pignet và
BMI cũng biến đổi theo lứa tuổi. Khi so sánh với kết quả nghiên cứu của một
số tác giả từ thập kỷ 80 trở về trước thì kết quả về các chỉ số sinh học của học
sinh Hà Nội lớn hơn, chứng tỏ có sự gia tăng tốc độ sinh trưởng của trẻ theo
thời gian. Khi so sánh với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên học sinh Thái
Bình, Hà Tây cùng thời điểm nghiên cứu thì kết quả về các chỉ số sinh học của
học sinh Hà Nội cũng lớn hơn. Điều này chứng tỏ điều kiện sống đã ảnh hưởng
tới sự sinh trưởng và phát triển các chỉ số sinh hoc của hoc sinh.
Năm 2002, Lê Minh Hà [20] qua nghiên cứu sự phát triển thể lực của trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở Hà Nội, Yên Bái và Phú Yên đã cho thấy, sự phát triển
chiều cao và cân nặng của trẻ em tuơng đối đồng đều ở ba nơi và chiều cao
trung bình của trẻ có xu huớng cao hơn so với trẻ ở thập kỉ 90. Trẻ em ở Hà
Nội có cân nặng, vòng đầu lớn hơn trẻ em cùng độ tuổi ở Yên Bái và Phú Yên.


Nhung các chỉ số này khi so sánh với các số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới thì
vẫn còn thấp hơn rất nhiều.
Nguyễn Điểm, Nguyễn Thị Mộng Điệp qua tìm hiểu về tình trạng dinh
duỡng của trẻ em dân tộc ít nguời huyện An Lão - Bình Định [17] đã thấy rằng,
các chỉ số chiều cao, cân nặng, vòng ngực của trẻ em dân tộc H’re và Bana đều
thấp hơn so với trung bình cả nuớc.
Năm 2006, Hàn Nguyệt Kim Chi và cs [6] đã “ Theo dõi dọc sự tăng

truởng và phát triển tâm - vận động của trẻ từ 0 đến 36 tháng và từ 37 đến 72
tháng”. Kết quả cho thấy tăng truởng về cân nặng, chiều cao, chiều cao ngồi,
vòng đầu, vòng ngực, vòng cánh tay của trẻ theo từng giai đoạn thể hiện rất rõ
nét và phù họp với đặc điểm, quy luật phát triển chung của trẻ lứa tuổi từ 0 đến
72 tháng là cân nặng, chiều cao tăng liên tục theo huớng đi lên ở cả trẻ trai và
trẻ gái, trẻ trai nặng hơn trẻ gái ở mọi lứa tuổi. Cân nặng, chiều cao của trẻ
cũng bị ảnh huởng bởi điều kiện kinh tế - xã hội của các vùng sinh thái khác
nhau, đặc biệt thể hiện rõ sự khác biệt giữa trẻ thành thị và nông thôn. Trẻ
thành thị cao hơn trẻ nông thôn ở mọi lứa tuối.
Năm 2010, Hoàng Quý Tỉnh [57] đã tiến hành nghiên cứu một số đặc
điểm hình thái cơ thể trẻ em nguời dân tộc Thái, Mông, Dao ở tỉnh Yên Bái và
các yếu tố liên quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các chỉ số sinh học của trẻ
em thể hiện tính quy luật phát triển cơ thể của nguời Việt Nam. Tuy nhiên, chế
độ dinh duỡng có ảnh huởng đến chiều cao, cân nặng của trẻ em, điều này thể
hiện ở chỗ tỉ lệ suy dinh duỡng thể còm, còi và nhẹ cân còn cao ở trẻ em các
dân tộc nghiên cứu.
Như vậy, các công trình nghiên cứu về các chỉ số sinh học của trẻ em
Việt Nam khá phong phú. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác nhau về các
chỉ số sinh học giữa nam và nữ, giữa trẻ em thành thị và nông thôn, giữa trẻ em
thuộc các địa bàn nghiên cứu khác nhau, giữa các nhóm dân tộc khác nhau và


giữa các thời điểm nghiên cứu khác nhau. Hầu hết các chỉ số hình thái thể lực
đều tăng dần theo tuổi, nhưng tốc độ tăng không đều, có thời kỳ tăng nhảy vọt
[3], [33], [47], [56].
1.2.

Đặc điểm chức năng của một số hệ cơ quan của trẻ em

1.2.1.


Tần số tìm và huyết áp.

1.2.1.1.

Đặc điểm tần sổ tỉm và huyết ảp của trẻ em

Hệ tuần hoàn có chức năng cơ bản là cung cấp oxi và chất dinh dưỡng
cho toàn bộ hoạt động của cơ thể. Tim có chức năng vừa hút máu vừa đẩy máu,
là động cơ chính của hệ tuần hoàn. Công suất của tim phụ thuộc vào tần số tim
và thể tích co tim. Vì vậy, tần số tim là một trong các chỉ số quan trọng để đánh
giá hoạt động của hệ tuần [36], [37], [39].
Tần số tim là số lần tim co bóp của tim trong một phút. Tần số tim có thể
thay đổi và phụ thuộc vào các trạng thái tâm, sinh lý khác nhau [33], [40], [56].
Tần số tim của trẻ em cao hơn nhiều so với của người trưởng thành. Trong quá
trình phát triển cá thể của trẻ em, tần số tim giảm dần theo tuổi. Tốc độ giảm
tần số tim của trẻ em không đều. Ớ cùng một độ tuối, tần số tim của nam và của
nữ khác nhau. Tần số tim của trẻ em dễ thay đối khi khóc, sốt, sợ hãi, gắng
sức... [2], [33], [46], [50],
Tim co bóp tạo nên lực đẩy máu chảy trong động mạch. Áp lực của máu
lên thành mạch được gọi là huyết áp. Huyết áp là kết quả tổng hợp các yếu tố
tuần hoàn như sức co bóp của tim, khối lượng máu, độ quánh của máu và sức
đàn hồi của thành mạch máu. Huyết áp khi tim co và khi tim giãn không giống
nhau. Đó là do áp lực máu lên thành mạch luôn thay đối một


×