ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
NGÔ THỊ THÙY
TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI CỦA LÃO
TỬ QUA SÁCH “ĐẠO ĐỨC KINH”
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
HÀ NỘI- 2015
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
NGÔ THỊ THÙY
TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI CỦA LÃO
TỬ QUA SÁCH “ĐẠO ĐỨC KINH”
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Mã số
: 60 22 03 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Thanh Bình
HÀ NỘI- 2015
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………….……..2
NỘI DUNG………………………………………………...……...………….7
CHƢƠNG 1. TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA LÃO TỬ TRONG “ĐẠO ĐỨC KINH”……………...………7
1.1. Điều kiện kinh tế- xã hội và tiền đề tƣ tƣởng……………….…….….......7
1.1.1 Điều kiện kinh tế- xã hội…………………………………...……...……7
1.1.2. Tiền đề tư tưởng…………………………………………...………….14
1.1.3. Khái niệm tư tưởng chính trị - xã hội...................................................18
1.2. Lão Tử và tác phẩm “Đạo đức kinh”…………………………..……….20
1.2.1. Vài nét về Lão Tử…………………………………………...…...……20
1.2.2. Kết cấu và khái quát nội dung chính của “Đạo đức kinh”……..........26
CHƢƠNG 2. MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG TƢ TƢỞNG
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA LÃO TỬ TRONG “ĐẠO ĐỨC KINH”……..48
2.1. Sự phê phán xã hội đƣơng thời của Lão Tử…………………....……….48
2.1.1. Phê phán nền luân lý của xã hội đương thời……………….…………48
2.1.2. Phê phán trật tự tôn ti của xã hội đương thời……………...…...…….52
2.2. Một số chủ trƣơng về chính trị- xã hội của Lão Tử……………………..56
2.2.1. Chủ trương “vô vi” trong việc trị nước……………...……………….56
2.2.2. Chủ trương về kinh tế và chiến tranh…………………………………62
2.2.3. Quan niệm về quan hệ giữa vua với bề tôi và với dân ……………….71
2.2.4. Quan niệm về quốc gia lý tưởng………………………………………75
2.3. Một số giá trị và hạn chế chủ yếu trong tƣ tƣởng chính trị- xã hội của
Lão Tử………………………………………………………………….……76
2.3.1. Một số giá trị nổi bật………………………………………….………76
2.3.2. Một số hạn chế chủ yếu………………………………………….……78
KẾT LUẬN…………………………………………………….…...……….83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………..……..86
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử Trung Quốc, thời Xuân Thu kéo dài từ năm 722 đến năm
481 trƣớc công nguyên với tình trạng chiến tranh liên miên, dân chúng lầm
than, đạo đức xã hội suy đồi. Chính trong điều kiện ấy đã xuất hiện nhiều triết
gia với nhiều học thuyết, tƣ tƣởng, quan niệm khác nhau. Đặc biệt vấn đề
chính trị đƣợc hầu hết các triết gia quan tâm và coi đó là trọng tâm trong học
thuyết, tƣ tƣởng, quan điểm của mình với mục đích giải quyết tình trạng loạn
lạc, bế tắc của xã hội đƣơng thời.
Trong hoàn cảnh đó, tƣ tƣởng của Lão Tử cũng hƣớng vào tìm kiếm
con đƣờng, phƣơng thức xây dựng một xã hội ổn định, xây dựng đời sống
hạnh phúc cho ngƣời dân. Ông không để lại nhiều tác phẩm, nhƣng theo nhiều
nghiên cứu thì chỉ có cuốn Đạo đức kinh với hơn 5000 chữ đƣợc coi là tập
trung toàn bộ tƣ tƣởng của Lão Tử. Nếu nhƣ Khổng Tử cho rằng xã hội cần đi
theo lễ nghĩa, Hàn Phi Tử cho rằng cần phải thi hành luật pháp thì Lão Tử lại
cho rằng, cần phải thực hiện “vô vi” để xây dựng một xã hội ổn định. Có thể
nói, Lão Tử đƣa ra một phƣơng cách giải quyết rất mới mẻ cho một vấn đề
nan giải trong xã hội đƣơng thời.
Không những thế, đối với ngày nay, khi mà đời sống con ngƣời ngày
càng văn minh hơn, con ngƣời cũng ngày càng có nhiều tham vọng hơn. Do
đó, vô hình trung, những tham vọng đó đã tàn phá chính thế giới mà chúng ta
đang sống. Nên nhiều ngƣời trong thế giới ngày nay đang tìm đến lối sống
hòa hợp cùng thiên nhiên mà lối sống này mấy nghìn năm trƣớc Lão Tử đã
khuyên con ngƣời nên thực hiện rồi.
4
Để làm rõ hơn những nội dung và giá trị chủ yếu trong quan niệm của
Lão Tử về việc giải quyết các vấn đề chính trị- xã hội, đồng thời thấy đƣợc
điểm độc đáo trong quan niệm này của Lão Tử mà tác giả chọn Tư tưởng
chính trị- xã hội của Lão Tử qua sách Đạo đức kinh làm đề tài để nghiên
cứu trong bản luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Tƣ tƣởng của Lão Tử cũng nhƣ sách Đạo đức kinh đã đƣợc nhiều học
giả nghiên cứu từ trƣớc đến nay. Sách Đạo đức kinh mặc dù chỉ hơn 5000 chữ
nhƣng đã đƣợc dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới và đƣợc nghiên
cứu rộng rãi.
Ở Việt Nam, sách Đạo đức kinh cũng đã đƣợc một số dịch giả dịch và
diễn giải, và tƣ tƣởng của ông cũng đƣợc nhiều ngƣời nghiên cứu ở những
khía cạnh khác nhau.
Trƣớc tiên phải kể đến những công trình nghiên cứu về triết học Trung
Quốc cổ trung đại và lịch sử triết học, trong đó có nghiên cứu về tƣ tƣởng Lão
Tử của các tác giả khác nhau trong các sách tham khảo và giáo trình.
Có thể kể đến một số cuốn sách dịch và diễn giải sách Đạo đức kinh
nhƣ cuốn Lão Tử Đạo đức kinh(2013) của Thu Giang Nguyễn Duy Cần, hay
cuốn Lão Tử Đạo đức kinh(1992) của Nguyễn Hiến Lê… Trong các cuốn
sách này, các học giả đã dịch và giải thích các tƣ tƣởng của Lão Tử theo các
cách hiểu khác nhau của mình. Trong cuốn Lão Tử Đạo đức kinh của Thu
Giang Nguyễn Duy Cần, tác giả đã dịch và bình chú một cách khái quát từng
câu, từng chữ trong sách Đạo đức kinh của Lão Tử, trong đó cũng có tƣ tƣởng
chính trị- xã hội của ông. Còn trong cuốn Lão Tử Đạo đức kinh của tác giả
Nguyễn Hiến Lê, ông đã trình bày một cách khá chi tiết về thân thế cũng nhƣ
5
sự nghiệp của Lão Tử, ngoài ra ông còn trình bày một cách khái quát nội dung
tƣ tƣởng của sách Đạo đức kinh sau đó mới là phần bình chú về sách Đạo đức
kinh.
Trong cuốn sách “Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc”(2002), các
nhà nghiên cứu nhƣ PGS.TS Doãn Chính, PGS.TS Dƣơng Văn Chung,
PGS.TS Nguyễn Thế Nghĩa, PGS.TS Vũ Tình… đã trình bày khá cụ thể về
thân thế, cuộc đời của Lão Tử. Không những thế, các tác giả còn trình bày
khái quát về nội dung tƣ tƣởng của Lão Tử, trong đó có đề cập đến tƣ tƣởng
chính trị- xã hội của Lão Tử, nhƣng mới dừng lại ở khảo cứu một cách khái
quát. Việc nghiên cứu tƣ tƣởng chính trị- xã hội của Lão Tử trong cuốn sách
này đƣợc đặt trong toàn bộ nội dung tƣ tƣởng của ông mà chƣa đi sâu vào
nghiên cứu nội dung này.
Trong cuốn Tư tưởng Đạo gia(2008) của Hàn Sinh Tuyên, tác giả đã
trình bày những nội dung chủ yếu của phái Đạo gia, nhƣ tƣ tƣởng về vũ trụ, tƣ
tƣởng về nhân sinh,… Trong đó, tƣ tƣởng của Lão Tử và sách Đạo đức kinh
đƣợc trình bày một cách khái quát, nằm trong dòng quan điểm của phái Đạo
gia nói chung.
Hay cuốn Lão Tử tinh hoa(2013) của Thu Giang Nguyễn Duy Cần đã
nghiên cứu một số luận điểm trong tƣ tƣởng của Lão Tử. Trong cuốn sách
này, tác giả nghiên cứu sách Đạo đức kinh theo những luận điểm, trình bày
một cách ngắn gọn, súc tích các luận điểm này và có liên hệ với thực tế.
Nhƣng cuốn sách này, cũng chƣa trình bày một cách cụ thể về nội dung các
quan điểm của Lão Tử.
Tất cả các sách mà các học giả đã nghiên cứu về Lão Tử hầu hết là
trình bày tƣ tƣởng của ông một cách khái quát hoặc lý giải các quan niệm của
6
ông theo những cách hiểu khác nhau. Qua những công trình giới thiệu và
nghiên cứu về tƣ tƣởng của Lão Tử cho thấy, điểm độc đáo trong cách viết
của Lão Tử là các luận điểm của ông đều trình bày với mục đích gợi mở là
chính. Trong khuôn khổ luận văn của mình, tác giả đi sâu nghiên cứu về tƣ
tƣởng chính trị- xã hội của Lão Tử trên cơ sở tham khảo, kế thừa các tài liệu
có liên quan đến Lão Tử và sách Đạo đức kinh; đồng thời tác giả cố gắng
trình bày một cách có hệ thống những nội dung chủ yếu trong tƣ tƣởng chính
trị- xã hội của ông.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Luận văn trình bày và phân tích một cách có hệ thống
những nội dung chủ yếu trong tƣ tƣởng chính trị- xã hội của Lão Tử qua sách
Đạo đức kinh và qua đó, bƣớc đầu chỉ ra những hạn chế và đóng góp của tƣ
tƣởng này.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn giải quyết hai nhiệm
vụ sau:
+ Khái quát bối cảnh kinh tế- xã hội và tiền đề tƣ tƣởng của Trung Hoa thời
kỳ cổ đại cho sự ra đời tƣ tƣởng chính trị- xã hội của Lão Tử.
+ Trình bày và phân tích những nội dung chủ yếu trong tƣ tƣởng chính trị- xã
hội của Lão Tử qua sách Đạo đức kinh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tƣợng nghiên cứu: Tƣ tƣởng chính trị - xã hội của Lão Tử.
- Phạm vi nghiên cứu: Sách Đạo đức kinh của Lão Tử.
7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là các nguyên lý cơ bản của triết học Mác- Lênin,
các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam
về xã hội và con ngƣời.
- Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn quán triệt và vận dụng phƣơng pháp
biện chứng duy vật của triết học Mác- Lênin, kết hợp với một số phƣơng pháp
nghiên cứu khoa học khác nhƣ phƣơng pháp phân tích- tổng hợp, đối chiếuso sánh, phƣơng pháp lịch sử triết học, phƣơng pháp văn bản học v.v…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần nghiên cứu, làm sáng tỏ và hệ thống hóa những nội
dung chủ yếu trong tƣ tƣởng chính trị- xã hội của Lão Tử thông qua sách
“Đạo đức kinh” mà đến nay vẫn còn giá trị và bƣớc đầu đƣa ra một vài nhận
xét, đánh giá về giá trị trong tƣ tƣởng chính trị- xã hội của Lão Tử.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm và trình bày có hệ thống hơn
những nội dung chủ yếu trong tƣ tƣởng chính trị- xã hội của Lão Tử.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ngƣời nghiên
cứu quan tâm đến triết học Trung Hoa cổ đại nói chung và tƣ tƣởng của Lão
Tử nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
phần Nội dung của luận văn đƣợc kết cấu thành 2 chƣơng, 5 tiết.
8
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CHÍNH
TRỊ- XÃ HỘI CỦA LÃO TỬ TRONG “ĐẠO ĐỨC KINH”.
1.1. Điều kiện kinh tế- xã hội và tiền đề tƣ tƣởng
1.1.1 Điều kiện kinh tế- xã hội
* Thời Ân- Thương và Tây Chu
Điều kiện tự nhiên: Điều kiện tự nhiên thuận lợi, cả một vùng đất đai
phì nhiêu của lƣu vực các con sông Hoàng Hà, Hắc Thủy, Nhƣợc Thủy, Lạc
Thủy của vùng Hoàng Hà Lục Tỉnh, các bộ lạc ngƣời Ân đã định cƣ ở đây và
có một nền kinh tế ổn định, với sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, chăn nuôi và
săn bắn phát triển ở trình độ cao.
Về tri thức khoa học, sản xuất: Trong chế độ liên minh bộ lạc, ngƣời
Trung Quốc đã biết tạo ra khí giới và công cụ, vật dụng từ đá và xƣơng thú,
đất nung. Đến thời kỳ nhà Hạ, họ đã biết khai thác, sáng chế và sử dụng công
cụ bằng đồng. Đặc biệt thời kỳ nhà Hạ cũng có dấu hiệu bắt đầu xuất hiện văn
tự.
Dƣới triều đại nhà Thƣơng, nền kinh tế xã hội đã có sự phân chia sâu
sắc hơn giữa sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và sản xuất thủ công nghiệp.
Các công cụ bằng đồng đã đƣợc sử dụng góp phần phát triển sức sản xuất, do
đó gia tăng việc sử dụng số lƣợng lớn lao động tập trung. Thời Ân – Thƣơng,
nông nghiệp trở thành ngành sản xuất chủ yếu của xã hội. Nông dân các công
xã khai khẩn đất đai ở những vùng hạ lƣu sông Hoàng Hà, đào nhiều kênh
mƣơng làm hệ thống dẫn nƣớc tƣới cho đồng ruộng. Thời bấy giờ, nghề đúc
đồng thau cũng đã đạt tới trình độ khá cao.
Ngƣời đời Thƣơng đã biết dùng mai rùa, xƣơng thú để bói toán, xem
điều lành dữ, may rủi và sáng tạo ra văn tự, gọi là “văn giáp cốt”, ghi việc bói
9
toán và kết quả bói toán lên mai rùa, xƣơng thú. Họ cũng biết làm ra lịch pháp
để phục vụ cho việc xác định thời vụ trong sản xuất nông nghiệp. Một năm
đƣợc chia làm 12 tháng, gọi là một “tự”, cách mấy năm lại thêm một tháng
nhuận. Tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày. Một tuần có 10 ngày, từ
Giáp đến Quý ứng với mƣời can. Họ cũng biết dùng hệ thống 10 can và 12
chi phối hợp với nhau để tính giờ, ngày, tháng và năm. Can chi phối hợp với
nhau theo chu kỳ 60 năm gọi là một “hội”.
Ngƣời đời Ân cũng đã biết quan sát thiên văn, biết đƣợc sự vận hành
của mặt trăng và vị trí của nhiều ngôi sao, giải thích đƣợc hiện tƣợng nhật
thực và nguyệt thực, tính đƣợc chu kỳ nƣớc dâng, tìm ra quy luật sinh trƣởng
của các cây trồng mà làm ra âm lịch.
Về tín ngưỡng, tôn giáo: Trong thời kỳ nguyên thủy, chủ yếu trong đời
sống tinh thần của ngƣời Trung Quốc là tín ngƣỡng tô tem và bái vật giáo.
Nhƣng đến thời kỳ nhà Hạ, thay vào đó là những quan niệm sùng bái sức
mạnh các lực lƣợng tự nhiên mang tính chất tín ngƣỡng tôn giáo duy tâm với
các biểu tƣợng về thƣợng đế, chi phối vạn vật và vận mệnh con ngƣời, về
“linh hồn tổ tiên” và sự thờ phụng tổ tiên thịnh hành. Từ những tài liệu sử học
ngƣời ta đã xác nhận đƣợc rằng, trong ý thức của ngƣời Trung Quốc đã xuất
hiện quan niệm về sự bất tử của linh hồn. Sau khi con ngƣời ta chết đi, linh
hồn vẫn tiếp tục cuộc sống độc lập của nó. Hồn ngƣời chết có thể làm phúc
hay gây họa cho ngƣời sống. Ngƣời Trung Quốc còn sùng bái, tôn thờ uy thế
của những lực lƣợng trong tự nhiên là biểu tƣợng cho ý chí, sức mạnh, huyết
thống của tổ tiên bộ lạc mình.
Đến giai đoạn xuất hiện chế độ phong kiến giai cấp phong kiến đã lợi
dụng các biểu tƣợng tôn giáo để duy trì sự thống trị của mình. Núp dƣới cái
vỏ tín ngƣỡng tôn giáo thần bí, giai cấp quý tộc chủ nô luôn tuyên truyền
rằng, sự thống trị của họ đối với nhân dân trên mặt đất chẳng qua chỉ là sự thể
10
hiện mệnh lệnh và ý chí của trời mà thôi. Hơn thế nữa, trời còn có thể khen
thƣởng cho những ai làm điều thiện và trừng phạt nghiêm khắc những ai làm
điều ác, dám chống lại mệnh trời.
Về chế độ chính trị: sau khi chế độ thị tộc tan rã ở Trung Quốc, chế độ
tƣ hữu dần dần phát triển, trải qua nhiều đời vua cho đến triều đại nhà Hạ.
Căn cứ vào những bản văn cổ và những di vật khảo cổ đáng tin cậy có liên
quan đến giai đoạn này có thể nói rằng, nhà Hạ là cái mốc đánh dấu sự biến
đổi có tính nhảy vọt trong xã hội Trung Quốc cổ đại. Đó là sự xuất hiện giai
cấp và nhà nƣớc, mở đầu chế độ chiếm hữu nô lệ của Trung Quốc. Vào thời
đó, nhà Hạ chia nƣớc ra thành chín châu. Vua định lệ cống, phú cho các châu.
Cống phẩm tùy theo các sản vật của từng địa phƣơng, quý tộc chủ nô bóc lột
sức lao động của nông dân công xã một cách hà khắc. Chúng sống một cuộc
sống xa hoa trên xƣơng máu của nhân dân. Cùng với việc xây dựng bộ máy
nhà nƣớc để bảo vệ tài sản, địa vị xã hội của tầng lớp quý tộc, đàn áp sự phản
ứng của quần chúng, nhà Hạ cũng tiến hành kiến thiết thành quách để đề
phòng sự tấn công của các bộ lạc khác từ bên ngoài.
Các di chỉ khảo cổ cho thấy rõ sự bất bình đẳng giữa các đẳng cấp
trong xã hội Trung Quốc thời Ân Thƣơng. Trong mộ thƣờng dân chôn theo
ngƣời chết chỉ có dao đá, giáo mác, đồ gốm thƣờng và một số vật dụng ăn
uống. Mộ của nô lệ thì hầu nhƣ không có gì, vì ngƣời ta quan niệm rằng, nô tỳ
chết đi thì vẫn là nô tỳ, chỉ có hai bàn tay trắng và bổn phận của họ vẫn là kẻ
phục dịch cho chủ nô quý tộc đã chết. Trái lại, mộ của quý tộc thì rất lớn. Bên
trong chôn đủ các loại đồ dùng nhƣ khi còn sống, vàng ngọc, châu báu… số
lƣợng nhiều hay ít tùy theo mộ lớn hay nhỏ. Họ còn chôn theo cả nam nữ nô
lệ và võ sĩ để phục vụ cho quý tộc đã chết.
Vào khoảng thế kỷ XII trƣớc Công nguyên, ở phía tây đồng bằng Hoa
Bắc rộng lớn là vùng cao nguyên đất vàng, một vùng dất đai phì nhiêu dọc
11
theo hai con sông Kinh và sông Vị thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay, bộ tộc
Chu đã nổi lên. Đến khoảng thế kỷ XI trƣớc Công nguyên, con của Chu Văn
Vƣơng là Chu Vũ Vƣơng đã nổi dậy diệt vua Trụ nhà Ân, lập ra nhà Chu,
đóng đô tại Hạo Kinh. Lịch sử gọi đó là thời kỳ Tây Chu.
Dƣới thời Tây Chu, lực lƣợng sản xuất của xã hội đã đạt tới trình độ
cao hơn nhiều so với thời Ân Thƣơng. Việc sử dụng các công cụ, vật dụng
bằng sắt bắt đầu xuất hiện đã thúc đẩy một số ngành thủ công nghiệp phát
triển, từ đó làm cho kỹ thuật canh tác đất đai đƣợc cải tiến, hệ thống thủy
nông dần hoàn thiện, quy mô sử dụng lực lƣợng lao động đƣợc mở rộng.
Chính sự phát triển của sản xuất đã thúc đẩy sự tiến bộ trong lĩnh vực khoa
học, kỹ thuật, lịch pháp, địa lý, y học, thiên văn và nhiều lĩnh vực khác.
Hệ thống chính trị ngày một hoàn thiện hơn. Thời Tây Chu, nhà Chu tự
xƣng là “thiên tử”, là lãnh chúa tối cao chiếm toàn bộ đất đai và thống trị thần
dân trong nƣớc. Vua nhà Chu đặt ra các chức quan nhƣ tƣ đồ, tƣ mã, tƣ
không, tƣ khấu chuyên phụ trách các công việc nhƣ tài chính, xây dựng, quân
đội, hình pháp và giáo dục. Chế độ giáo dục nhà Chu là chế độ mang tính chất
thế tập. “Thiên tử” phân phong đất đai, chức tƣớc cho anh em, họ hàng và
công thần làm chƣ hầu để họ dựng nƣớc và trị dân các nơi. Chƣ hầu lại phân
phong đất đai, chức tƣớc cho các bậc đại phu, quý tộc. Vì thế, chế độ phong
hầu kiến địa nhà Chu vừa có ý nghĩa về mặt chính trị, vừa có ý nghĩa về mặt
kinh tế và huyết thống. Quyền hạn các chƣ hầu đƣợc định sẵn. Chu hầu cũng
có quân đội riêng nhƣng phải thuần phục mệnh lệnh của “thiên tử” nhà Chu.
Các chƣ hầu theo định kỳ hàng năm phải thực hiện chế độ triều cống, triều hội
đối với nhà Chu. Vì thế, các lãnh chúa lớn nhỏ ra sức bóc lột nông nô. Nông
nô hằng ngày bị thắt chặt vào ruộng đất của các lãnh chúa. Lao động nặng
nhọc, đời sống cực khổ đã đẩy nông dân công xã và nô lệ nổi dậy chống lại
bọn thống trị sống xa hoa trên xƣơng máu của nhân dân lao động.
12
Cùng với sự hoàn thiện hệ thống chính trị, nhà Chu tiến hành cải cách
quan hệ sản xuất, tiếp tục thi hành rộng rãi chế độ “tỉnh điền”. Chế độ “tỉnh
điền” là chế độ sử dụng ruộng đất trong đó đất đai đƣợc chia ra làm nhiều
khu, mỗi khu do ngƣời ta đào mƣơng dọc ngang hai bên là đƣờng đi, chia cắt
ruộng đất thành chín mảnh vuông, nhƣ hình chữ “tỉnh”. Tám mảnh xung
quanh do các gia đình nông nô cày cấy, còn mảnh ở giữa tám gia đình ấy phải
cùng nhau canh tác, sản phẩm làm ra phải nộp cho nhà nƣớc. Ruộng đất canh
tác tùy theo tốt xấu mà phân chia cho nông dân công xã theo một thời gian
nhất định. Nông dân phải nộp khoảng một phần mƣời tổng số lúa thu hoạch
cho nhà nƣớc, gọi là thuế “thập nhất”. Ngoài việc nộp thuế, ngƣời dân còn
phải đi sƣu dịch, xây thành đắp lũy, làm đƣờng xá, đào mƣơng, đắp đập hay
đi chiến trận.
* Thời Xuân Thu
Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc đã tồn tại và phát triển từ triều
đại nhà Hạ, qua nhà Thƣơng, đến cuối thời Tây Chu thì bắt đầu bƣớc vào giai
đoạn khủng hoảng và ngày càng đi tới suy tàn. Xã hội Trung Quốc trải qua
một thời kỳ giao thời, từ chế độ tông tộc chuyển sang chế độ gia trƣởng. Giá
trị tƣ tƣởng, đạo đức của xã hội cũ bị băng hoại, nhƣng giá trị tƣ tƣởng, đạo
đức mới còn manh nha và đang trên con đƣờng xác lập. Sự biến đổi toàn diện
về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa thời kỳ này đã tạo tiền đề cho sự giải
phóng tƣ tƣởng con ngƣời, thoát khỏi sự chi phối của thế giới quan thần thoại
tôn giáo, thần bí truyền thống.
Năm 781 trƣớc Công nguyên, nhân vua Chu là U Vƣơng phế hoàng hậu
họ Thân và thái tử Nghi Câu, phong Bao Tự làm hoàng hậu, cha Thân hậu là
Thân hầu liên kết với giặc Tây Nhung, tấn công Hạo Kinh, thiêu hủy kinh đô
nhà Chu, giết chết U Vƣơng dƣới chân Ly Sơn, lập thái tử Nghi Câu lên làm
vua lấy hiệu là Chu Bình Vƣơng. Sau đó một năm, vì đất Thiểm Tây luôn bị
13
giặc Hiểm Doãn, Tây Nhung đe dọa, nên Chu Bình Vƣơng phải dời đô về
phía đông, đến Lạc Ấp, nhƣờng căn cứ Quan Trung cho Tần Tƣơng Công. Xã
hội Trung Quốc bƣớc vào thời kỳ đặc biệt, đó là thời Xuân thu.
Về kinh tế: Thời Xuân thu, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời
đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt.
+ Về nông nghiệp: Việc dùng bò kéo cày đã trở thành phổ biến.Thời kỳ
này, hệ thống thủy lợi đã trải khắp khu vực Trƣờng Giang. Diện tích đất đai
canh tác nhờ đó đƣợc mở rộng. Kỹ thuật trồng trọt cũng đƣợc cải tiến, tạo
điều kiện tăng năng suất trong lao động nông nghiệp. Từ đó, ngƣời ta thấy
không cần thiết phải chia lại ruộng đất công theo định kỳ căn cứ vào đất tốt
hay xấu nhƣ trƣớc nữa. Giờ đây, công xã giao hẳn đất công cho từng gia đình
nông nô, cày cấy trong thời gian lâu dài. Vì vậy, nông dân có thể dùng
phƣơng pháp lƣu canh hay luân canh để tăng năng suất cây trồng. Mặt khác,
nhờ công cụ sản xuất bằng sắt phát triển và thủy lợi mở mang, ruộng đất do
nông nô vỡ hoang biến thành ruộng tƣ ngày một nhiều. Bọn quý tộc có quyền
thế cũng chiếm dần ruộng của công xã làm ruộng tƣ. Chế độ “tỉnh điền” dần
tan rã. Sau đó, chế độ tƣ hữu ruộng đất còn đƣợc pháp luật nhà nƣớc thừa
nhận và bảo vệ.
Trƣớc kia, theo chế độ “tỉnh điền”, ruộng đất của công xã chia đều cho
nông nô. Nông nô phải nộp một phần sản lƣợng nông phẩm thu hoạch đƣợc
cho thôn xã để nộp lên triều đình. Khi chế độ tƣ hữu ruộng đất phát triển, số
lƣợng ruộng đất của nông dân sở hữu không bằng nhau, nhà nƣớc đã bỏ hình
thức thu thuế cũ mà thi hành chế độ thu thuế đánh vào từng mẫu ruộng (gọi là
thuế sơ mẫu).
+ Thủ công nghiệp: Do việc sử dụng công cụ bằng sắt là phổ
biến cùng với việc mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm lao động, sự phân công
trong sản xuất thủ công nghiệp cũng đã đạt tới mức chuyên nghiệp cao hơn,
14
thúc đẩy một loạt các ngành nghề thủ công nghiệp phát triển, nhƣ nghề luyện
sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề mộc, nghề làm đồ gốm…
+ Thƣơng nghiệp: Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công
nghiệp, thƣơng nghiệp cũng phát triển hơn. Tiền tệ đã xuất hiện. Trong xã hội
đã hình thành một tầng lớp thƣơng nhân giàu có và ngày càng có thế lực.
Thƣơng nhân đã có nhiều ngƣời kết giao với chƣ hầu và công khanh đại phu,
gây nhiều ảnh hƣởng đối với chính trị đƣơng thời. Tuy nhiên, do tình trạng xã
hội đang rối ren, phƣơng tiện giao thông thô sơ, lãnh thổ chia năm xẻ bảy do
nạn chƣ hầu cát cứ đi lại rất khó khăn, nên việc kinh doanh đòi hỏi phải do
những ngƣời có đầu óc tháo vát và lòng quả cảm đảm đƣơng. Hơn thế, nghề
buôn bán ở Trung Quốc thời bấy giờ bị coi là nghề rẻ mạt nhất “nông bản
thƣơng mạt”, nên nó cũng chƣa thực sự phát triển. Nhƣng sự hình thành của
thƣơng nghiệp, buôn bán đã tạo ra trong cơ cấu giai cấp xã hội một tầng lớp
mới. Từ tầng lớp này dần dần xuất hiện một loại quý tộc mới với thế lực ngày
càng mạnh, tìm cách leo lên tranh giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ.
Về chính trị xã hội, nếu nhƣ dƣới thời Tây Chu, chế độ tông pháp,
“phong hầu kiến địa” vừa có ý nghĩa ràng buộc về kinh tế, vừa có ý nghĩa về
chính trị, ràng buộc về huyết thống, có tác dụng tích cực làm cho nhà Chu giữ
đƣợc một thời gian dài hƣng thịnh, thì đến thời Xuân Thu, chế độ tông pháp
nhà Chu không còn đƣợc tôn trọng, đầu mối các quan hệ về kinh tế, chính trị,
quân sự giữa thiên tử và các nƣớc chƣ hầu ngày càng lỏng lẻo, huyết thống
ngày càng xa, trật tự lễ nghĩa nhà Chu không còn đƣợc tôn trọng nhƣ trƣớc.
Thiên tử nhà Chu hầu nhƣ không còn quyền uy với các nƣớc chƣ hầu. Thiên
tử không còn xét xử đƣợc những cuộc tranh chấp giữa các nƣớc chƣ hầu. Các
lãnh chúa nhỏ và vừa xƣa nay vẫn dựa vào quyền uy của thiên tử giờ đây trở
nên thất vọng. Nhiều nƣớc chƣ hầu mƣợn tiếng khôi phục lại địa vị tông chủ
của nhà Chu, đề ra khẩu hiện “tôn vƣơng bài Di”, đua nhau động binh để mở
15
rộng thế lực và đất đai, thôn tính các nƣớc nhỏ, tranh giành địa vị bá chủ thiên
hạ. Đầu thời Tây Chu, có hàng ngàn nƣớc, đến cuối thời Xuân Thu chỉ còn
hơn một trăm nƣớc.
Việc các nƣớc gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau cũng nhƣ các lãnh
chúa bóc lột tàn khốc dân chúng không chỉ dẫn đến sự diệt vong của hàng loạt
nƣớc chƣ hầu nhỏ mà còn phá hoại lễ nghĩa nhà Chu, phá hoại trật tự triều
hội, triều cống, sự chinh phạt giữa các nƣớc chƣ hầu làm cho mâu thuẫn trong
giai cấp thống trị ngày càng trở nên gay gắt và sự rối loạn trong xã hội ngày
càng gia tăng. Đặc biệt, các nghi lễ tôn nghiêm trƣớc đây đã từng góp phần
bảo vệ và làm hƣng thịnh chế độ tông pháp nhà Chu, đến lúc này cũng bị xem
thƣờng. Tình trạng lễ nghĩa, cƣơng thƣờng đảo lộn, đạo đức suy đồi ở thời kỳ
Xuân Thu biểu hiện ra qua các tệ nạn xã hội nhƣ “tiếm ngôi việt vị”, chƣ hầu
chiếm dụng lễ nghĩa của thiên tử, đại phu chiếm dụng lễ của chƣ hầu.
Trong thời Xuân Thu, ngoài các cuộc chiến tranh thƣờng xuyên giữa
các nƣớc, trong từng nƣớc cũng luôn xảy ra những cuộc tranh giành đất đai,
địa vị, quyền thế giữa bọn quý tộc với nhau.
Với những điều kiện kinh tế- xã hội có nhiều biến động, đặc biệt là sự
rối loạn về chính trị, dẫn đến các cuộc chiến tranh liên miên, làm cho cuộc
sống của ngƣời dân lâm vào lầm than. Chính trong điều kiện này, đã thúc đẩy
nhiều nhà tƣ tƣởng hƣớng vào việc giải quyết thực trạng xã hội hiện tại và
đƣa xã hội trở lại an bình, thịnh trị, Lão Tử là một trong số đó.
1.1.2. Tiền đề tư tưởng
Trong giai đoạn Lão Tử sống, do điều kiện đặc thù về chính trị- xã hội,
xuất hiện nhiều nhà tƣ tƣởng, họ đều hƣớng học thuyết của mình nhằm tìm ra
phƣơng hƣớng khắc phục tình trạng rối loạn hiện thời của xã hội và tìm ra
chính sách cai trị đất nƣớc hợp ý nhất. Nổi bật có hai trƣờng phái đó là dùng
“đức trị” của Nho gia và dùng “pháp trị” của Pháp gia. Mỗi một trƣờng phái
16
đều đƣa ra những lý do, những luận điểm để xây dựng học thuyết của mình.
Nhƣng Lão Tử cho rằng, cả hai trƣờng phái đó đều sử dụng sai cách để cai trị
đất nƣớc. Nếu sử dụng những biện pháp cai trị đất nƣớc nhƣ vậy thì không thể
nào loại trừ hết đƣợc tình trạng rối ren, tranh chấp nhƣ hiện thời.
Trƣớc hết, Lão Tử không đồng tình với quan điểm “đức trị” của Nho
gia. Nếu nhƣ theo quan điểm “đức trị” của Nho gia, muốn xã hội thái bình,
thịnh trị thì nhà vua cần phải thực hiện đƣợc “chính danh”. Họ đƣa ra yêu cầu
mỗi một ngƣời phải “chính danh”, đó là, mỗi ngƣời cần phải có phẩm chất
tƣơng xứng với vị thế xã hội của mình và suy nghĩ, hành động tƣơng xứng với
vị thế ấy. Một khi ai cũng “chính danh”, thì xã hội sẽ ổn định phát triển,
không ai đƣợc làm gì vƣợt quá bổn phận của mình và bổn phận này do xã hội
quy định (vua phải ra vua, quan phải ra quan…). Không chỉ vậy, con ngƣời
đối xử với nhau phải theo “lễ”, “lễ” không chỉ là các chuẩn mực đạo đức
trong quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời mà còn bao gồm cả các hoạt
động tế lễ, các hình thức của lễ. Mà theo nghĩa hẹp, thì “lễ” là những chuẩn
mực đạo đức trong quan hệ giữa ngƣời với ngƣời. Họ yêu cầu mỗi một ngƣời
trong xã hội cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các chuẩn mực đạo đức mà xã hội
thừa nhận, không đƣợc làm trái với những chuẩn mực đạo đức này. Ví dụ,
trong quan hệ giữa vua với tôi, thì lấy đức trung làm đầu, nhiều trƣờng hợp
vua bảo thần tử chết mà thần tử không tuân theo thì bất trung. Hay trong quan
hệ giữa cha với con, thì đức hiếu là quan trọng nhất. Ngoài ra, Khổng Tử còn
yêu cầu nhà vua phải bồi dƣỡng, sử dụng ngƣời hiền tài trong xã hội để xây
dựng đất nƣớc. Lão Tử không đồng tình với những quan điểm này, ông cho
rằng, tất cả những chuẩn mực đạo đức đó thật rắc rối, ngoài ra bởi vì xã hội
không có đạo đức nên mới cần đề ra việc phải tuân theo đạo đức, ông viết:
“Thất đạo nhi hậu Đức, thất đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa, thất
nghĩa nhi hậu lễ, phù lễ giả, trung tín chi bạc, nhi loạn chi thủ, tiền thức giả,
17
đạo chi hoa, nhi ngu chi thủy” [30, tr.190] (Mất đức rồi mới có nhân, mất
nhân rồi mới có nghĩa, mất nghĩa rồi mới có lễ, lễ chỉ là cái vỏ mỏng của lòng
trung tín, mà cũng là đầu mối của hỗn loạn, tiền thức chỉ là hoa của đạo, mà
cũng là gốc của ngu). Nhƣ vậy, Lão Tử phê phán việc trọng “lễ” của Khổng
Tử, ông cho rằng, “lễ” chỉ là cái vỏ mỏng manh của lòng trung tín và là đầu
mối của loạn ly, do vậy, trong xã hội cần coi trọng là Đạo còn “nhân” “nghĩa”
“lễ” đều không cần thiết. Mà đạo của con ngƣời theo Lão Tử là khi sinh ra
con ngƣời đã có rồi, không cần phải dạy dỗ họ phải tuân theo đạo đức nữa.
Bởi vì theo ông, nếu mà bắt ngƣời ta phải làm thế này, không đƣợc làm thế
khác thì không còn là đạo nữa mà chỉ là việc làm của một tầng lớp ngƣời vì
lợi ích của mình mà đặt ra mà thôi. Ngoài ra, ông còn viết: “Tuyệt thánh khí
trí, dân lợi bách bội, tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ” [30, tr.110] (Dứt
thánh bỏ trí, dân lợi trăm phần, dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại thảo lành). Ông cho
rằng, muốn cho dân không tham dục thì cần phải loại bỏ nguyên nhân dẫn đến
sự tham lam và dục vọng của họ, mà một trong những nguyên nhân cần loại
bỏ, chính là tôn sùng ngƣời tài, hay những bậc thánh nhân. Do vậy, Lão Tử
cũng bài bác chính sách “thƣợng hiền” của Khổng Tử, ông triệt để yêu cầu
thực hiện “vô vi” cả trong việc học và trị nƣớc.
Lão Tử còn phê phán quan điểm dùng “pháp trị” để cai trị đất nƣớc của
Pháp gia. Những nhà tƣ tƣởng theo phái này yêu cầu cần phải dùng luật pháp
để cai trị đất nƣớc, luật pháp đƣợc ban bố rộng rãi cho mọi ngƣời và bắt buộc
mọi ngƣời dân phải thực thi. Đi cùng với hệ thống luật pháp nghiêm minh là
phải thƣởng phạt một cách thỏa đáng, có nhƣ vậy mới răn đe đƣợc mọi ngƣời
trong xã hội và xã hội sẽ không loạn. Nhƣ theo Hàn Phi Tử, hình phạt nghiêm
khắc sẽ loại bỏ đƣợc sáu hạng ngƣời: bọn hàng giặc chạy dài, sợ chết; bọn tự
cao học đạo, tự lập ra các học thuyết và bọn lìa xa pháp luật; bọn ăn chơi xa
xỉ; bọn bạo ngƣợc, ngạo mạn; bọn dung thứ lũ giặc, giấu diếm kẻ gian; bọn
18
nói khéo, khoe khôn, dối trá. Dùng hình phạt nghiêm là để khuyến khích sáu
loại ngƣời: những ngƣời lăn mình vào chốn hiểm nghèo, hy sinh, thành thực;
những ngƣời ít nghe lời bậy, tuân theo luật pháp; những ngƣời dốc hết sức mà
làm ăn, làm lợi cho đời; những ngƣời trung hậu, thật thà, ngay thẳng, hiền
lành; những ngƣời trọng mạng mình; những ngƣời giết giặc trừ gian, làm sáng
tỏ lệnh trên. Trái lại, Lão Tử lại cho rằng: “Thiên hạ đa kỵ húy, nhi dân di
bần, dân đa lợi khí, quốc gia tƣ hôn, nhân đa kỹ xảo, kỳ vật tƣ khởi, pháp lệnh
tƣ chƣơng, đạo tặc đa hữu” [Dẫn theo 30, tr.277] (Thiên hạ nhiều kiêng kỵ,
thì dân chúng càng nghèo, nhân dân nhiều lợi khí, nƣớc nhà càng tối tăm,
ngƣời ngƣời nhiều tài khéo, vật lạ càng nảy sinh, pháp lệnh càng rõ rệt, trộm
cƣớp càng sinh nhiều). Lão Tử phản đối việc dùng pháp luật để trị nƣớc. Ông
cho rằng, càng cấm đoán nhiều thì ngƣời dân càng dễ vi phạm, trộm cắp càng
nảy sinh nhiều. Ông còn nói: “Kỳ chính muộn muộn, kỳ dân thuần thuần, kỳ
chính sát sát, kỳ dân khuyết khuyết” [Dẫn theo 30, tr.285] (Chính lệnh lờ mờ,
thì dân ôn hòa, chính lệnh rõ ràng, thì dân lỗi lầm). Lão Tử phê phán việc
dùng luật pháp để cai trị nhân dân, bởi vì theo ông, chính vì có luật pháp và
luật pháp càng rõ ràng bao nhiêu thì dân chúng càng dễ vi phạm luật bất
nhiêu. Do vậy, cần phải xóa bỏ pháp luật, không nên quá gò ép nhân dân vào
khuôn phép, có nhƣ vậy, đời sống của ngƣời dân mới tốt đẹp đƣợc.
Nhƣ vậy, Lão Tử phản đối mọi chính sách can thiệp vào cuộc sống của
ngƣời dân, mà ông gọi đó là những hành động “hữu vi”. Dù đó là dùng đạo
đức, lễ nghĩa để cai trị dân chúng, duy trì trật tự xã hội hay là yêu cầu cần
phải xây dựng và ban hành hệ thống luật pháp thật nghiêm minh, theo Lão Tử
đều là không cần thiết và càng ngày sẽ càng làm cho đời sống của ngƣời dân
thêm khó khăn, dân tình thêm “trá ngụy”, trộm cắp ngày càng nảy sinh nhiều.
Chính sách phù hợp nhất để xã hội thái bình, thịnh trị theo Lão Tử, là dùng
“vô vi” để trị, có nghĩa là nhà vua, ngƣời nắm chính quyền không nên can
19
thiệp vào cuộc sống của ngƣời dân mà hãy để cho họ tự lo lấy cuộc sống của
mình, hãy thuận theo tự nhiên mà sống. Dựa trên nền tảng những học thuyết
về chính trị- xã hội đƣơng thời, trong đó chủ yếu là phê phán chúng, Lão Tử
đã xây dựng lên quan điểm của mình về chính trị- xã hội có những nét độc
đáo và cách lý giải riêng.
1.1.3. Khái niệm tư tưởng chính trị - xã hội
Trƣớc hết, chúng ta phải hiểu thế nào là tƣ tƣởng? Theo định nghĩa phổ
thông nhất, tƣ tƣởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là phản ánh mối
quan hệ của con ngƣời với thế giới xung quanh.
Theo Từ điển triết học của M.Rodentan và P.Iudinh, tƣ tƣởng là phản
ánh của hiện thực trong ý thức, là biểu hiện của quan hệ của con ngƣời đối
với thế giới xung quanh. Bất cứ tƣ tƣởng nào cũng do chế độ xã hội, điều kiện
sinh hoạt vật chất của con ngƣời quyết định [20, tr.877].
Tƣ tƣởng là quan niệm, ý nghĩ chung của con ngƣời đối với hiện thực
khách quan. Tƣ tƣởng thuộc phạm trù ý thức, là sản phẩm chủ quan của con
ngƣời. Vì vậy, tƣ tƣởng nhƣ thế nào phụ thuộc vào đối tƣợng, phản ánh, môi
trƣờng xã hội và trình độ nhận thức của chủ thể tƣ tƣởng.
Tƣ tƣởng là một hệ thống những quan niệm, quan điểm đƣợc xây dựng
trên một nền tảng triết học (thế giới quan và phƣơng pháp luận) nhất quán, đại
biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc đƣợc hình thành
trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo
hiện thực.
Mỗi một xã hội có giai cấp đều đƣợc cấu thành từ bốn lĩnh vực cơ bản:
kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Chính trị là một trong bốn lĩnh vực cơ
bản đó. Trong lịch sử tƣ tƣởng chính trị của nhân loại, có nhiều cách hiểu,
cách định nghĩa khác nhau về chính trị mà chúng ta khó có thể liệt kê hết
đƣợc. Bởi vì, mỗi một học thuyết chính trị, mỗi một nhà tƣ tƣởng chính trị có
20
những cách tiếp cận, cách cảm nhận, cách hiểu khác nhau về chính trị, trên cơ
sở những lợi ích, mục đích và trình độ tƣ duy của họ. Chắc chắn chính trị là
một lĩnh vực rất phức tạp bao hàm rất nhiều những quan hệ, khía cạnh khác
nhau, thậm chí đối lập nhau. Do sự phát triển của sản xuất đến một mức độ
nhất định thì xã hội phân chia thành các giai cấp khác nhau và khi mâu thuẫn
giữa các giai cấp dần dần trở nên gay gắt không thể điều hòa đƣợc thì nhà
nƣớc, chính trị mới ra đời.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin, chính trị về thực chất bắt
nguồn từ quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia
dân tộc. Trong đó, trƣớc hết và cơ bản nhất là lợi ích kinh tế. Đây không phải
là cách quan niệm của riêng chủ nghĩa Mác mà nói chung mọi tƣ duy khoa
học khách quan về chính trị đều đi tới, tìm ra và khẳng định thực chất của
chính trị là nhƣ vậy. Chính trị có logic vận động nội tại của nó và chịu sự quy
định của kinh tế, đồng thời nó tác động to lớn đối với kinh tế và các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội. Chính trị có quá trình hình thành, tồn tại, phát triển
và tiêu vong nhƣ một hiện tƣợng lịch sử ra đời khi xã hội phân chia giai cấp
và mâu thuẫn giữa các giai cấp trở nên không điều hòa đƣợc. Tuy nhiên,
không chỉ có giai cấp và nhà nƣớc mà chính trị còn liên quan đến nhiều vẫn
đề khác nhau ở những cấp độ quan trọng khác nhau. Nói đến chính trị mà chỉ
nói đến giai cấp và nhà nƣớc là chƣa đủ, nhất là trong thời đại ngày nay khi
mà hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, bình đẳng đã trở thành mệnh
lệnh của cuộc sống nhân loại. Hai vấn đề đó có logic nội tại với nhau, trong
đó quyền lực nhà nƣớc là công cụ cơ bản để thực hiện quan hệ với các giai
cấp, các nhóm xã hội theo hƣớng có lợi cho lực lƣợng nắm quyền. Vì thế có
thể thấy rõ trong thực tế, xoay quanh vấn đề quyền lực mà các chủ thể chính
trị thực hiện quan hệ hợp tác, thỏa hiệp hay đấu tranh, xung đột… tạo nên
toàn bộ sự phức tạp phong phú, đa dạng của đời sống chính trị.
21
Từ sự phân tích ở trên có thể định nghĩa: Chính trị là quan hệ giữa các
giai cấp, các quốc gia, các dân tộc, các lực lƣợng xã hội trong việc giành, giữ
và thực thi quyền lực nhà nƣớc.
Về mặt quan hệ, chính trị là một lĩnh vực rất rộng, gồm nhiều mối quan
hệ khác nhau trong không gian và thời gian xác định nhƣ: quan hệ giữa các
giai cấp, giữa các đảng chính trị với các giai cấp, giữa đảng cầm quyền với
các đảng phái khác nhau, giữa đảng với nhà nƣớc, giữa nhà nƣớc với công
dân, giữa công dân với công dân, giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Về mặt kết cấu, chính trị bao gồm các nhân tố sau: Chính sách- các quyết
định của các chủ thể chính trị, các thiết chế và thể chế chính trị, quan hệ con
ngƣời chính trị- giới lãnh đạo chính trị với công dân.
Tƣ tƣởng chính trị- xã hội còn là hệ thống những quan niệm, quan điểm
về toàn bộ những vấn đề về chính trị- xã hội của một dân tộc, một đất nƣớc
của một học giả nào đó.
1.2. Lão Tử và tác phẩm “Đạo đức kinh”
1.2.1. Vài nét về Lão Tử
Có khá nhiều truyền thuyết về Lão Tử, nhƣng thực chất chúng ta không
biết gì chắc chắn về cuộc đời ông. Ngay từ đời Chu, ba ngàn năm trƣớc, mỗi
một triều đại Trung Quốc đã có những sử quan ghi lại những diễn biến của
triều đại. Từ thời Tƣ Mã Thiên, đã có nhiều ngƣời tra cứu các sách sử cổ để
tìm hiểu xem Lão Tử là ngƣời nhƣ thế nào, nhƣng cũng chỉ đƣa ra đƣợc
những giả thuyết, đôi khi những giả thuyết này lại còn mâu thuẫn nhau làm
cho ngƣời ta càng thêm rối. Thậm chí, còn có học giả cho rằng, ông là một
truyền thuyết không có thực.
Cuộc đời của Lão Tử đƣợc ghi chép lần đầu tiên trong bộ Sử ký của Tƣ
Mã Thiên, phần Liệt truyện, thiên 63: Lão Tử, Trang Tử, Thân Bất Hại, Hàn
Phi. Khái lƣợc nhƣ sau:
22
Lão Tử là ngƣời làng Khúc Nhân, hƣơng Lệ, huyện Hỗ, nƣớc Sở; họ Lí
tên Nhĩ, tự là Đam, làm quan sử, giữ kho chứa sách của nhà Chu. Khi Khổng
Tử qua Chu, lại hỏi Lão Tử về lễ, Lão Tử đáp: “Những ngƣời ông nói đó, thịt
xƣơng đều đã nát cả rồi, chỉ còn lại lời của họ thôi. Vả lại, ngƣời quân tử nếu
gặp thời thì ngồi xe ngựa, không gặp thời thì đội nón lá mà đi chân. Tôi nghe
nói ngƣời buôn giỏi thì giấu kỹ vật quý, coi ngoài nhƣ không có gì; ngƣời
quân tử đức cao thì dung mạo nhƣ ngu độn. Ông nên bỏ cái khí kiêu căng, cái
lòng đa dục, cái vẻ hăm hở cùng cái chí quá hăng của ông đi, những cái đó
không có ích gì cho ông đâu. Tôi chỉ khuyên ông có bấy nhiêu thôi”. Khổng
Tử về bảo với môn sinh: “Loài chim, ta biết nó bay đƣợc; loài cá ta biết nó lội
đƣợc; loài thú ta biết nó chạy đƣợc. Chạy thì ta dùng lƣới để bẫy, lội thì ta
dùng câu để bắt, bay thì ta dùng tên để bắn. Đến loài rồng cƣỡi gió mây mà
lên trời thì ta không sao biết đƣợc. Hôm nay, ta gặp ông Lão Tử, ông ta là con
rồng chăng?” [Dẫn theo 29, tr.6].
Học thuyết của Lão Tử chủ yếu ở chỗ giấu mình, ẩn danh. Ông ở nƣớc
Chu đã lâu, thấy nhà Chu suy bèn bỏ đi. Đến cửa, viên quan coi quan là Doãn
Hỉ bảo với Lão Tử: “Ông sắp đi ẩn, hãy vì tôi mà viết sách để lại”. Thế là Lão
Tử viết một cuốn sách gồm hai thiên thƣợng và hạ, nói về ý nghĩa của Đạo và
Đức. Viết xong rồi đi, không ai biết chết ra sao, ở đâu.
Có ngƣời nói: Lão Lai Tử cũng là ngƣời nƣớc Sở, viết mƣời lăm thiên
sách nói về công dụng của Đạo gia cũng đồng thời với Khổng Tử.
Đại khái Lão Tử sống trên 160 tuổi, có ngƣời bảo trên 200 tuổi nhờ ông
tu đạo để kéo dài tuổi thọ.
Sau khi Khổng Tử mất 129 năm, sử chép rằng, viên thái tử nhà Chu tên
Đam, yết kiến Tần Hiến Công tâu: “Mới đầu Tần hợp với Chu, hợp đƣợc 500
năm rồi thì tách ra, tách đƣợc 70 năm thì có một bá vƣơng xuất hiện” [Dẫn
23
theo 29, tr.7]. Có ngƣời bảo Đam đó tức là Lão Tử, có ngƣời lại bảo là không
phải.
Ngoài ra, các bộ Tuân Tử, Hàn Phi Tử, Chiến Quốc sách, Lã Thị Xuân
Thu cũng nhắc đến Lão Tử, nhƣng chỉ phê bình học thuyết của ông chứ không
nói gì thêm về đời sống của ông, trừ việc cho rằng: Lão Tử là thầy học của
Khổng Tử mà không ai có thể tin đƣợc.
Phải đến khoảng hai thế kỷ sau khi bộ Sử kí của Tƣ Mã Thiên ra đời,
chúng ta mới thấy đƣợc một tài liệu nữa trong bộ Tiểu đái kí, thiên Tăng tử
vấn, thuật lại việc Khổng Tử hỏi Lão Tử về lễ. Tất cả gồm ba “cố sự” đều do
Khổng Tử kể lại lời của Lão Tử về việc giữ bài vị của tổ tiên, về việc chôn
cất, về việc để tang. Duy có “cố sự” thứ hai là đáng chú ý: Lần đó Khổng Tử
theo Lão Tử làm trợ táng ở Hạng Đảng, giữa đƣờng gặp nhật thực, Lão Tử
bảo: “Khâu! Ngừng lại, đặt quan tài ở lề đƣờng bên phải, ngƣng tiếng khóc để
đợi sự biến đổi”. Khi hết nhật thực rồi, đám táng mới tiếp tục đi. Lão Tử nói:
“Nhƣ vậy là lễ”.
Các bản Sử kí lƣu hành hiện nay đều chép là Lão Tử gốc ở làng Khúc
Lí, hƣơng Lệ, huyện Hỗ nƣớc Sở. Nhƣng có ngƣời nhƣ Lục Đức Minh,
Khổng Dĩnh Đạt… lại bảo Sử kí chép là nƣớc Trần, huyện Tƣơng, hƣơng Lại.
Vậy có nhiều bản Sử kí do ngƣời đời sau sửa lại, không biết đƣợc bản nào là
gốc; chỉ biết Tƣ Mã Thiên không đƣa ra một giả thuyết nào khác, đa số học
giả từ trƣớc tới nay đều theo thuyết: nƣớc Sở, huyện Hỗ, hƣơng Lệ. Thực ra,
về địa điểm các thuyết đó đều giống nhau, chỉ có cách gọi là khác nhau. Ví dụ
nƣớc Trần cũng là nƣớc Sở: thời Xuân Thu là nƣớc Trần, năm 478, tức sau
khi Khổng Tử mất đƣợc một năm, Trần bị Sở diệt.
Về địa điểm, mỗi cách gọi có một ý nghĩa quan trọng; gọi là Sở, là Hỗ,
có thể ngầm nhận ra rằng, Lão Tử là ngƣời thời Chiến Quốc, mà gọi là Trần,
Tƣơng có thể ngầm nhận ra rằng, ông là ngƣời thời Xuân Thu. Nhƣng chúng
24
tôi cho rằng, Tƣ Mã Thiên có lẽ không dùng từ ngữ chính xác tới mức đó; vì
một mặt ông khẳng định, Lão Tử là ngƣời nƣớc Sở, huyện Hỗ tức dùng những
tên thời Chiến Quốc; một mặt khác ông lại bảo Lão Tử gặp Khổng Tử ở thời
Xuân Thu.
Họ, tên và tên tự đó rất thông dụng từ xƣa đến nay. Tên là Nhĩ (tai), tự
là Đam (tai dài) thì rất hợp. Theo truyền thuyết, Lão Tử lại rất thọ, cho nên
ngƣời ta còn gọi là Lão Đam (ông già tai dài) và vì tôn trọng cho nên gọi là
Lão Tử.
Ngƣời đầu tiên bác bỏ thuyết này là Dƣ Bồi Lâm. Nhƣ ông viết: “Tra
khắp các sách cổ thì thời Xuân Thu không có họ Lí, mãi đến thời Chiến Quốc
mới có Lí Khối, Lí Khắc, Lí Mục…, nhƣ vậy đủ biết họ Lí xuất hiện rất trễ.
Lão Tử phải họ Lão. Sách Tả truyện, năm 15 đời Thành công có Lão Tá, năm
14 đời Chiêu công có Lão Kì. Luận Ngữ có Lão Bành, Dử kí có Lão Lai.
Không thể tra khảo xem Lão Tử có thuộc dòng họ những ngƣời đó không,
nhƣng không còn nghi ngờ gì nữa thời cổ đã có họ Lão rồi. Vả lại các triết gia
thời Tiên Tần đều gọi bằng họ nhƣ Khổng Tử, Mặc Tử, Tuân Tử, Trang Tử,
Hàn Tử, không nhà nào là không nhƣ vậy. Lão Tử cũng không là ngoại lệ, gọi
là Lão Tử chứ không phải là Lí Tử, gọi là Lão Đam chứ không phải là Lí
Đam. Nhƣ vậy rõ ràng là, họ Lão chứ không phải họ Lí. Họ Lão gọi nhầm ra
Lí vì hai chữ này đọc gần giống nhau”. Giả thuyết này đƣợc Dƣ Bồi Lâm đƣa
ra từ năm 1973, cũng có lý vì sự nhầm lẫn do cách đọc gần giống nhau là
hoàn toàn có thể.
Còn một số nghi vấn trong cuộc đời của Lão Tử, nhƣ Lão Tử có phải là
Lão Lai tử hay không, Tƣ Mã Thiên cho là không phải. Trong thiên “Trọng
Ni đệ tử”, ông bảo Khổng Tử vốn trọng Lão Tử ở Chu, Lão Lai tử ở Sở, nhƣ
vậy ông coi Lão Tử và Lão Lai tử là hai ngƣời. Trong truyện Lão Tử, ông
viết: “Có ngƣời bảo: Lão Lai tử cũng là ngƣời nƣớc Sở, viết mƣời lăm thiên
25