Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Cam hung nhan dao trong tho trung dai viet nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.14 KB, 5 trang )

Cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại Việt Nam
*Văn học trung đại Việt Nam trải qua mười hai thế kỉ từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX. Đây là thời kì dân tộc ta đã
thoát khỏi ách thống trị nặng nề của phong kiến phương Bắc hơn một ngàn năm. Nền văn học trung đại Việt Nam
gắn liền với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dântộc. Về nội dung văn học thời kỳ này mang hai
đặc điểm lớn đó là: Cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo.
Cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo thực ra không hoàn toàn tách biệt nhau. Bởi yêu nước cũng là phương
diện cơ bản của nhân đạo.Tuy vậy cảm hứng nhân đạo cũng có những đặc điểm riêng. Nó bao gồm những nguyên
tắc đạo lí làm người, những thái độ đối xử tốt lành trong các mối quan hệ giữa con người với nhau, những khát
vọng sống, khát vọng về hạnh phúc. Đó còn là tấm lòng cảm thương cho mọi kiếp người đau khổ,đặc biệt là với
trẻ em, với phụ nữ và những người lương thiện bị hãm hại, những người hồng nhan mà bạc mệnh, những người
tài hoa mà lận đận…
*Những nội dung nhân đạo đó đã được thể hiện ở trong toàn bộ văn học trung đại, những biểu hiện tập trung nhất
là ở trong các tác phẩm văn học nửa sau thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX, đặc biệt là trong những tác phẩm
thơ.
* Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng. Các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực, đấu đá,
tiêu diệt lẫn nhau. Cuộc sống của người dân vô cùng khổ cực. Các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi mà
đỉnh cao là khởi nghia Tây Sơn diệt Trịnh Nguyễn, đánh đuổi quân Xiêm, quân Thanh, thống nhất đất nước. Vua
Quang Trung lên ngôi. Nguyễn Ánh không thể chống lại vua Quang Trung với hạm đội manh nhất Thái Bình
Dương bèn cầu cứu thực dân Pháp. Cuối cùng Nguyễn Ánh có được sự trợ giúp của thực dân Pháp, đổi lại sau khi
lên ngôi, Nguyễn Ánh phải để chúng buôn bán tự do tại của biển Sơn Trà, Đà Nẵng. Không lâu sau khi thành lập,
triều đại Tây Sơn bị lật đổ, Nguyễn Ánh khôi phục lại vương triều phong kiến chuyên chế (1802-1945).
* Đây được xem là giai đoạn phát triển tột bậc, rực rỡ nhất của văn học phong kiến Việt Nam . Cảm hứng xuyên
suốt thời kì này là cảm hứng nhân đạo. Bởi lúc này số phận và quyền sống của con người bị đe dọa. Văn học giai
đoạn này là tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc, đấu tranh đòi giải phóng con người cá nhân. Các tác
phẩm tiêu biểu:Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn; Đoàn Thị Điểm dịch),
Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều),
thơ Hồ Xuân Hương,
Truyện Kiều (Nguyễn Du)
COANK0 Nỗi sầu oán của người cung nữ - Ng. G. Thiều
Thời kì này có sự phát triển mạnh mẽ của những sáng tác văn học viết bằng chữ Nôm, và sự xuất hiện của nhiều
thể loại văn học như tùy bút, tiểu thuyết chương hồi, kí.


* Khái niệm giá trị nhân đạo:
Người đọc đến với văn học không chỉ để trau dồi kiến thức, thưởng thức thẩm mĩ mà còn vì nhu cầu hướng thiện.
Giá trị nhân đạo của tác phẩm biểu hiện ở việc khẳng định và ca ngợi vẻ đẹp của con người,
đồng cảm với những khát vọng nhân bản,
phê phán sự nô dịch con người về tinh thần lẫn vật chất...
=> Nội dung cảm hứng nhân đạo của văn học trung đại có ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng từ bi bác ái của đạo phật
và học thuyết nhân nghĩa của đạo Nho.
// HOẶC:
Chủ nghĩa nhân đạo
Văn học do con người sáng tạo nên và tất yếu nó phải phục vụ trở lại cho con người. Vì vậy, tinh thần nhân đạo
là một phẩm chất cần có để một tác phẩm trở thành bất tử đối với nhân loại. Ðiều này cũng có nghĩa là, trong xu
hướng phát triển chung của văn học nhân loại, VHTÐVN vẫn hướng tới việc thể hiện những vấn đề của chủ nghĩa
nhân đạo như:
- Khát vọng hòa bình
- Nhận thức ngày càng sâu sắc về nhân dân mà trước hết là đối với những tầng lớp thấp hèn trong xã hội phân
chia giai cấp
- Ðấu tranh cho hạnh phúc, cho quyền sống của con người, chống lại ách thống trị của chế độ phong kiến.
- Ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động
- Tố cáo mạnh mẽ và đấu tranh chống những thế lực phi nhân.
* Đây được xem là giai đoạn phát triển tột bậc, rực rỡ nhất của văn học phong kiến Việt Nam . Cảm hứng xuyên
suốt thời kì này là cảm hứng nhân đạo. Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại được thể hiện phong phú ,đa
dạng:


Lòng thương người
Trong văn học trung đại Việt Nam khi viết về người phụ nữ, một mặt vẫn có sự kế thừa tư tưởng của văn học
dân gian, song mặt khác, “Hồng nhan bạc phận” cũng được xem là tư tưởng chủ đạo của các tác giả.
Nàng Vũ Nương hiếu thảo, đảm đang, chung thuỷ thì bị ngờ oan là ngoại tình, đến nỗi phải lấy cái chết để minh
oan - mà khi chết đi rồi trong lòng vẫn mang nặng nỗi oan uổng đó (Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn
Dữ).

Người cung nữ xinh đẹp, tài hoa, khát khao hạnh phúc thì bị nhà vua bỏ rơi, sống cô đơn, mòn mỏi, lạnh lẽo nơi
cung cấm, chôn vùi tuổi thanh xuân trong cung điện thâm u (Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều).
Người phụ nữ chỉ có một khát vọng rất bình thường là được chung sống cùng với người chồng thân yêu, song lại
rơi vào cảnh đau đớn “tử biệt sinh li”, đằng đẵng chờ đợi không biết có ngày gặp lại. (Chinh phụ ngâm - Đặng
Trần Côn).
Nàng Kiều của Nguyễn Du xinh đẹp tài hoa là thế, nhưng lại bị dập vùi trong cảnh "Thanh lâu hai lượt, thanh y
hai lần", liên tiếp bị đầy đọa cả về thể xác lẫn tinh thần để rồi phải thốt lên (thực tế là sự đầu hàng hoàn cảnh)
rằng: "Thân lươn bao quản lấm đầu/ Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!". Đây không chỉ là bi kịch của riêng
nàng Kiều, mà còn là bi kịch chung của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Mặt khác văn học trung đại Việt Nam , bước đầu đã phản ánh được quan niệm về con người cá nhân trong xã
hội. Nhiều nhân vật nữ trong giai đoạn này cũng thể hiện sự phản kháng, sự tố cáo xã hội cũ, nêu lên nhiều suy
nghĩ, nhiều quan điểm chống đối lại quan điểm của xã hội phong kiến (tiêu biểu hơn cả là thơ Hồ Xuân Hương).
Đặc biệt văn học đã chú ý khám phá nội tâm nhân vật. Các tác giả (Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm,
Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiêu, Đặng Trân Côn...) khi mô tả người phụ nữ, thường để cho nhân vật bộc
bạch trực tiếp những nỗi đau khổ, những niềm riêng tư (sự tự ý thức về mình): "Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời
rằng bạc mệnh cũng là lời chung" (Truyện Kiều - Nguyễn Du), hoặc bộc lộ những phản ứng: "Kẻ đắp chăn bông
kẻ lạnh lùng/ Chém cha cái kiếp lấy chồng chung"... (Hồ Xuân Hương).
Có thể khẳng định rằng cảm giác mất mát hạnh phúc và nỗi khát khao hạnh phúc là hai tâm trạng, hai nỗi niềm
thường gặp nhất ở các nhân vật nữ trong văn học trung đại Việt Nam .
* Lên án, tố cáo các thế lực tàn bạo chà đạp lên con người
Nguyễn Du đã mạnh dạn vượt ra khuôn khổ “văn dĩ tải đạo” để đề cao cái tôi, đề cao ý thức cá nhân con người.
Truyện Kiều là một truyện thương thân, xót thân thấm thía nhất cũng bởi Nguyễn Du không ngần ngại đề cập đến
nỗi đau, tâm trạng ê chề, khát khao hạnh phúc thực sự, ý thức về nhân cách của người phụ nữ chốn lầu xanh.
Ở một góc độ nào đó, đoạn trích là tiếng kêu cứu của những con người bị dìm xuống đáy xã hội. Nét mới trong
chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là chú ý đến thân phận cá nhân. Lần đầu tiên trong văn học trung đại, người
ta biết “xót thân”. Nguyễn Du là người đầu tiên tìm đến và chia sẻ tình cảm này, tạo nên một trào lưu nhân văn
chủ nghĩa: Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm… Cuộc phục hưng này của văn học dân tộc có
điểm giống cuộc phục hưng của Văn học phương Tây thế kỉ 19: khám phá ra con người cá nhân, con người trần
thế.
“Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, biết đau khổ trước thân phận và thực tại, biết ê chề, bẽ bàng vì sự nhơ

nhớp, biết thương lấy chính mình và biết khát khao tình yêu, hạnh phúc, khát khao giữ gìn nhân phẩm – đó là bi
kịch, là nỗi đau của Kiều nhưng đồng thời cũng là vẻ đẹp đáng quí của nhân vật. Nếu không có những nỗi đau ấy,
nhưng bi kịch tinh thần ấy, Kiều đã không phải là một nàng Kiều “sắc sảo mặn mà”, một nàng Kiều là hiện thân
cho sự trinh tiết, cho cái đẹp trong sự ngưỡng vọng, trân trọng của Nguyễn Du.
Khẳng định, đề cao con người
Đoạn trích nói về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cũng như toàn bộ tác phẩm Chinh phụ ngâm là tiếng kêu
thương của người phụ nữ chờ chồng, nhớ thương người chồng chinh chiến phương xa. Tình cảnh lẻ loi đó được
chiếu ứng trong sự cảm nhận về thời gian đợi chờ đằng đẵng, không gian trống vắng vây bủa bốn bề và cuộc sống
hoá thành vô vị, mất hết sinh khí. Trên tất cả là tâm trạng cô đơn và sự ý thức về thảm trạng mất đi niềm tin, đánh
mất niềm vui sống và mối liên hệ gắn bó với cuộc đời rộng lớn. Trạng thái tình cảm đó một mặt có ý nghĩa tố cáo
những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao nhiêu người trai ra trận và hệ quả tiếp theo là bao nhiêu số phận
chinh phụ héo hon tựa cửa chờ chồng, mặt khác xác nhận nhu cầu nói lên tiếng nói tình cảm và sự ý thức về
quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ ngay giữa cuộc đời trần thế này. Không có gì khác
hơn, đó chính là khả năng mở rộng diện đề tài, khai thác sâu sắc hơn thế giới tâm hồn con người, xác định nguồn
cảm xúc tươi mới và khẳng định những giá trị nhân văn cao cả mà khúc ngâm đã đem lại, đánh dấu bước trưởng
thành vượt bậc của giai đoạn văn chương thế kỷ XVIII trong tiến trình phát triển chung của nền văn học dân tộc.
Đề cao quan hệ đạo đức, lối sống tốt đẹp giữa người với người


Nếu trong tình cảm tai biến của gia đình , Kiều đã quyết định bán mình để chuộc cha , đem lại sự yên ổn cho gia
đình là một sự hy sinh ở nàng với tấm lòng hiếu thảo thì nổi đau khổ , ái ngại vì lời hẹn ước không tròn với Kim
Trọng và trao duyên cho em là một biểu hiện của lòng vị tha , hi sinh rất đáng trọng , là tấm lòng chung thuỷ sắt
son hiếm có trước sự bất lực của hoàn cảnh .
Việc miêu tả cuộc sống ê chề, tủi nhục, với tâm trạng đau đớn xót xa của Thuý Kiều, con người tài hoa đã bị dập
vùi trong cuộc đời ô nhục đáng thương. Nguyễn Du đã tồ cáo cái xã hội phong kiến tàn bạo đã nhẫn tâm chà đạp
cuộc sống của những con người lương thiện, bên cạnh đó tác giả còn cho thấy giữa cuộc đời bùn nhơ con người
lương thiện vẫn giữ được đạo lý làm người. Phẩm chất đáng quí của Kiều: lòng hiếu thảo với cha mẹ và lòng
chung thủy với người yêu. Ca ngợi ý thức sâu sắc của nàng về phẩm giá: nhân vật tự soi mình, tự đau khổ và giày
vò chính mình.
Bởi lúc này số phận và quyền sống của con người bị đe dọa. Văn học giai đoạn này là tiếng nói đòi quyền

sống, quyền hạnh phúc, đấu tranh đòi giải phóng con người cá nhân.
Ở Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của Nguyền Gia Thiều => đó là việc lên án chế độ phong
kiến chà đạp lên quyền sống cảu người phụ nữ, lên những số phận tài hoa. Xã hội đó đã tướcđoạt đi những quyền
sống thiêng liêng mà lẽ ra con người phải có. => Đau khổ tuyệt vọng của Kiều khi tình yêu tan vỡ, buộc phụ tình
với Kim Trọng.
Đặc biệt các tác giả nói lên tiếng nói bênh vực người phụ nữ những người chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội.
Khát vọng lớn lao của Kiều là xây dựng tình yêu và hạnh phúc vơiù Kim Trọng. Song thực tế xã hội phong kiến
đã không để nàng thực hiện khát vọng ấy. Nó như một trở lực, một thế lực đè nặng lên khát vọng của nàng mà
kéo xuống thành bi kịch, buộc nàng phải từ bỏ mối tình đầu.
Vì thế cơ sở của bi kịch tình yêu ấy là sự hi sinh. Trong tác phẩm, Kiều đã hai lần hi sinh tình yêu của mình. Lần
thứ nhất nàng chọn chữ “hiếu” “làm con quyết phải đền ơn sinh thành”. Lần thứ hai nàng cũng tự hi sinh để mang
lại hạnh phúc cho người yêu. Sự hi sinh ấy làm cho nhân phẩm của Thúy Kiều càng thêm cao thượng. Mặt khác,
ta nhận ra sự đau đớn xót xa của sự hi sinh. Nỗi mất mát nào chẳng mang đến sự thức tỉnh về hạnh phúc, quyền
sống cá nhân con người. Từ đây, đọan trích “Trao Duyên” thể hiện sâu sắc tư tưởng nhân đạo của Đại thi hào
Nguyễn Du.
Không chỉ lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người mà các tác giả còn cất lên tiếng nói nhân
đạo phản đối những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã cướp đoạt đi những quyền sống thiêng liêng mà lẽ ra con người
phải có. Đặc biệt các tác giả nói lên tiếng nói bênh vực người phụ nữ nhữngngười chịu nhiều thiệt thòi trong xã
hội.
Truyện Kiều là truyện về cuộc đời của một người con gái bất hạnh có tên là Vương Thúy Kiềụ Người con gái ấy
có tài, có sắc, xuất thân trong một gia đình bình thường, lớn lên nàng yêu một chàng trai là Kim Trọng, nhưng rồi
tai họa đã xảy đến cho gia đình: cha và em của nàng bị bắt, bị đánh đập, nhà cửa bị cướp phá sạch sành sanh.
Thúy Kiều không có cách nào để cứu nguy cho gia đình, nàng buộc lòng phải bán mình cho người khác để lấy
tiền chuộc cha và em; từ đó cuộc đời nàng trải qua không biết bao nhiêu là tai họa: nàng bị lừa lọc phải hai lần
làm kỹ nữ ở nhà chứa, làm lẽ, đi ở... Có thể nói một câu chuyện thê thảm về vận mệnh của một người con gái như
thế, bản thân nó đã có sức xúc động lớn. Nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Du, câu chuyện thê thảm ấy lại không
thuần túy là vận mệnh của một người con gái, hay nói cách khác là thông qua vận mệnh của một người con gái
nhà thơ đã nói lên vận mệnh của con người nói chung trong một xã hội bất công tàn bạọ
Không chỉ lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người mà các tác giả còn cất lên tiếng nói nhân
đạo phản đối những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã cướp đi biết bao nhiêu cảnh sống yên vui, chia lìa bao nhiêu

đôi lứa.
Qua lời của người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm - ĐặngTrần Côn muốn lên án cuộc chiến tranh
phong kiến phi nghĩa đó là nỗi nhớ người chồng nơi chiến trường gian khổ.
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Gà eo éc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Nỗi sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Những cuộc chiến tranh này thực chất chỉ là việc tranh quyền đoạt lợi của các tập đoàn phong kiếnvà phủ lên nó
là một bầu trời đầy tang thương. Thế lực đồng tiền cũng đã phủ mờ đi những néttruyền thống tốt đẹp của xã hội
đó là với trường hợp nàng Kiều.


Trong xã hội trung đại, thế lực đồng tiền cũng rất đáng lên án vì nó đã vùi lấp và nhấn chìm đi biết bao những con
người tài hoa, những con người có khát vọng hồi bão lớn muốn đem sức lực nhỏ bé của mình cống hiến cho sự
nghiệp của dân tộc.
Văn học trung đại đã chứng minh cho tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc Việt Nam . Đó là một dân tộc có
những truyền thống tốt đẹp.
Nhìn chung cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại chủ yếu được thể hiện qua những nét chủ yếu sau:
Trước hết đó là tiếng nói của tác giả, đó là tình cảm của tác giả dành cho những con người nhỏ bé chịu nhiều thiệt
thòi trong xã hội qua đó mà đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho họ, có được tình cảm như vậy, các tác giả thơ
thời kì này mới viết được những dòng thơ, trang thơ xúc động đến nhưthế.
Thơ trung đại còn thể hiện ở tiếng nói bênh vực giữa con người với con người, đề cao tình bạn, tình anh em, tình
cha con, thể hiện mong muốn được sống trong hòa bình.
* Thơ trung đại đã thể hiện bước đi vững chắc của mình trong hơn mười thế kỉ, đó là sự tiếp nối bước đi của nền
văn học dân gian. Tuy văn học dân gian thời kì này vẫn phát triển nhưng dấu ấn khơng còn như trước. Thơ trung
đại đã thể hiện những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đó là chủ nghĩa unước và tinh thần nhân đạo qua đó mà
làm tiền đề cho sự phát triển văn học các thời kì tiếp theo.
Tiên Phong Mộng Liên Đường Chủ Nhân:



... Xem chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy dậy mà căn dun vẫn gỡ chưa rồi; khúc đàn bạc mệnh gảy
xong, mà ốn hận vẫn còn chưa hả, thì dẫu đời xa người khuất, khơng được mục kích tận nơi, nhưng lời
văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thắm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải
thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột.



Dương Quảng Hàm:


trên từ các bậc văn nhân thi sĩ, dưới đến các kẻ thường dân phụ nhụ, ai cũng thích đọc, thích ngâm và
thuộc được ít nhiều...



Ca dao:
Đàn ơng chớ kể Phan Trần
Đàn yện Kiều về mặt mỹ thuật rõ là cực tốt, mà ở trong đựng những vật có chất độc... "among their people like
Nguyễn Du in Việt Nam. His Tale of Kiều is a classic of Vietnamese literature, but a kind of classic that is wellknown to all people without exception."
Tạm dịch là: "Ít nhà thơ trên thế giới có khả năng đạt được tiếng vang sâu đậm trong dân chúng của mình như
Nguyễn Du ở Việt Nam. Truyện Kiều của ơng là cuốn sách kinh điển của văn chương Việt Nam nhưng là một thứ
kinh điển mọi người đều biết, khơng có ai là ngoại lệ."
Mộng Liên Đường Chủ Nhân (1820) bình luận: "... Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước
mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt ruột... Tố Như Tử
dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trong thấu sáu
cõi, tấm lòng nghó suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy".
Nếu là một tâm hồn không bò sóng gió vùi dập, một trái tim không thổn thức trước những nỗi
đắng cay của bức tranh thế sự, một lương tâm không phẫn nộ trước những thói đời vô nhân bạc nghóa, thì

Nguyễn Du, dẫu có tài ba lỗi lạc đến đâu cũng không tìm ra được nhưng âm điệu, những vần thơ khiến cho
người đọc trong cuộc nghe như khóc, như than, như uất ức, như oán hờn.
• Quả đúng như vậy, Truyện Kiều không chỉ là vấn đề số phận con người bò áp bức trong xã hội, mà
còn là tiếng nói nhân đạo chủ nghóa cất lên tha thiết từ xã hội đó. Đó là tiếng nói của tầng lớp người
đau khổ, đòi tự do yêu đương, đòi công lý.
• Tinh thần nhân đạo bao la trong Truyện Kiều là sự kết tinh truyền thống nhân đạo cao đẹp của dân
tộc hằng bao thế kỷ.
Truyện Kiều là tiếng nói thiết tha bảo vệ quyền sống con người. Trong vô số nạn nhân của xã hội xưa;
Nguyễn Du đặc biệt trân trọng và xót thương cho số kiếp mỏng manh của người phụ nữ có tài, có sắc. Với
Nguyễn Du, họ là hình ảnh kết tinh về số kiếp bi đát của con người trong cuộc đời bế tắc.




Kiều đã từng trãi qua hầu hết những kiếp đời oan khổ của người phụ nữ dười chế độ phong kiến : tình
duyên tan vỡ, làm gái lầu xanh, làm nô tì, làm vợ lẻ, bò làm nhục khi chồng vừa chết … Và khi Từ Hải
chết, lòng Kiều đã tắt hết mọi niềm ước ao hạnh phúc trên cõi đời
“Còn chi nữa cánh hoa tàn
Tơ lòng đã đứt dây đàn Tiểu Lân
Rộng thương còn mảnh hồng quần
Hơi tàn được thấy gốc phần là may.”
• Người ngoài cuộc nghe tiếng nói của Kiều cũng phải thổn thức cùng nỗi niềm tuyệt vọng ẩn chứa
trong ước mơ bé nhỏ ấy! Cuộc đời nàng được nhà thơ vó đại giàu lòng nhân đạo tổng kết bằng những
lời thơ đau xót :
“Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi
Những là oan khổ lưu li
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân”.

Tuy nhiên, Thuý Kiều không chỉ xuất hiện với tư cách là một nạn nhân đau khổ mà còn là hình

tượng tiêu biểu cho giá trò phẩm chất, cho tinh thần chiến đấu, tiêu biểu ở thái độ chống lễ giáo phong
kiến, dám vươn lên tìm lấy hạnh phúc chính đáng .

Chỉ phút đầu gặp gỡ với chàng Kim; Kiều đã rung động, ước mơ thầm kín nhưng vô cùng tha thiết
: “Người đâu gặp gỡ làm chi - Trăm năm biết có duyên gì hay không?” mặc dù Kiều vẫn biết rằng :
“Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha”. Khi Kim Trọng tỏ tình, Kiều mạnh dạn nhận lời gắn bó .
• Khi thuận lợi, Kiều chủ động vượt rào sang nhà người yêu tình tự “Xăm xăm băng nẻo vườn khuya
một mình …Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa”.
• Mối tình vượt lễ giáo phong kiến ấy lại là một mối tình rất trong sạch, thuỷ chung.
Kiều chính là người phụ nữ trong trắng, đoan trang :
“Đã cho vào bậc bố kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu
Ra tuồng trên bộc trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi”
• Khi buộc phải cách xa, nàng khắc sâu hình bóng chàng Kim … Tất cả đều nói lên rằng những thế lực
hắc ám của chế độ phong kiến chỉ có thể làm tan nát hạnh phúc của Kiều nhưng không thể tiêu diệt
tình yêu trong trái tim chung thuỷ ấy, đúng như lời Chu Mạnh Trinh đã viết :

“Tấm lòng này như tuyết, như băng, mối sầu nọ qua ngày, qua tháng … Ngọc kia không vết, giá liên
thành khôn xiết so bì. Nước đã trôi xuôi, hồn cựu mộng hãy còn vơ vẩn … ”

Mối tình Kim Trọng – Thuý Kiều là thiên diễm tình tuyệt đẹp trong văn học thời phong kiến Chế
Lan Viên viết : “Tố Như ơi ! Lệ chảy quanh thân Kiều.”
• Quả vậy, tấm lòng thương người cao cả, sâu sắc của nhà thơ như “máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt
thấm ở trên tờ giấy…”, như hoà trong từng chữ, từng câu thơ xé ruột. Ở đoạn “Mã Giám Sinh mua
Kiều”, Thuý Kiều là hiện thân của con người bò chà đạp, của sắc tài bò vùi dập thảm thương.
Tiểu Thanh một đố hương trời
Chịu thân cát luỹ nhưng đời chẳng n
Gãy cành giữa tuổi hoa niên
Tinh hoa để lại người đem dập vùi

May nhờ còn chút thơm rơi
Rưng rưng Nguyễn đọc giữa trời Hàng Châu
Tuyết sương sớm nhuộm mái đầu
Kiếp tài tình biết thương nhau mới là.
( Đọc " Đọc Tiểu Thanh Kí - Đặng Hiển)âh



×