Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Khủng hoảng tài chính mỹ và sự tác động đến việt nam yêu cầu cải cách và giải pháp khắc phục khủng hoảng tại việt nam trong thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.42 KB, 27 trang )

Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

MỤC LỤC


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

LỜI MỞ ĐẦU
Trong toàn bộ hệ thống kinh tế thế giới, kinh tế Mỹ trước nay vẫn được
xem là nền kinh tế lớn nhất và có tầm ảnh hưởng rộng nhất trên phạm vi toàn cầu.
Vai trò của kinh tế Mỹ là không thể phủ nhận nhất là trong bối cảnh thương mại
hóa và tự do hóa hiện nay. Nhưng vào cuối năm 2007 đầu năm 2008 hệ thống tài
chính ngân hàng của Mỹ đột nhiên lâm vào một trong những cuộc khủng hoảng
chưa từng có. Hàng trăm tỷ đô la đã tiêu tan, sự lây lan vẫn chưa chấm dứt. Những
diễn biến đã, đang và sẽ xảy ra, đều là những điều khó có thể hình dung được.
Những gì nó để lại không chỉ ảnh hưởng tới người dân Mỹ, nền kinh tế Mỹ mà còn
vượt ra tới nhiều quốc gia khác trên thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và
châu Âu đã có những ảnh hưởng rất xấu tới thị trường tài chính châu Á với mức độ
khác nhau. Tuy chưa hội nhập sâu vào thị trường tài chính thế giới, nhưng do hoạt
động sản xuất chủ yếu hướng vào xuất khẩu và chưa khai thác tốt thị trường trong
nước rộng lớn với hơn 80 triệu dân, nên mức độ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
này là khá lớn đối với Việt Nam. Năm 2009 sẽ là năm đầy thách thức đối với Việt
Nam. Các nhà kinh tế dự báo GDP của Việt Nam năm 2009 sẽ chỉ tăng trưởng ở
mức 0,3%, trong khi mức tăng trưởng năm 2008 là 6%. Tuy nhiên, cuộc khủng
hoảng này bắt nguồn từ đâu ? Tại sao nó lại có ảnh hưởng lớn đến như vậy ? Và
đâu là lời giải cho Việt Nam trước cơn địa chấn xảy ra đối với nền tài chính toàn
cầu ? Việc tìm hiểu nguyên nhân và ý nghĩa của sự kiện này sẽ đem lại cái nhìn rõ


ràng và thấu suốt hơn về một trong những thị trường phát triển nhất trên toàn cầu,
từ đó đưa ra những yêu cầu cải cách, giải pháp khắc phục khủng hoảng đối với nền
kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. Với ý nghĩa đó tôi đã chọn đề tài : « Khủng
hoảng tài chính Mỹ và sự tác động đến Việt Nam. Yêu cầu cải cách và giải pháp
khắc phục khủng hoảng tại Việt Nam trong thời gian tới ».
Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luậni gồm 2 chương :

2


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

Chương 1 : Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ
Chương 2 : Sự tác động của khủng hoảng tài chính Mỹ tới Việt Nam.Yêu cầu
cải cách và giải pháp khắc phục khủng hoảng tại Việt Nam trong thời gian tới.
Đề tài được hoàn thành bởi sự nỗ lực bản thân cùng sự giúp đỡ tận tình của
thầy giáo PGS.TS Mai Xuân Hợi, các bạn cùng lớp. Đồng thời bài viết sử dụng
nhiều tư liệu tham khảo trên internet, các báo điện tử, các diễn đàn, các trang
web...Tuy nhiên, đây là một đề tài mang tính thời sự, đòi hỏi sự tìm hiểu sâu sắc và
kiến thức chuyên môn rộng nên khó tránh khỏi những sai sót trong quá trình thực
hiện. Do vậy tôi rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội

3


Tiểu luận Triết học


GVHD: TS Mai Xuân Hợi

CHƯƠNG 1 : NGUYÊN NHÂN CUỘC KHỦNG HOẢNG
TÀI CHÍNH MỸ
1.1 Những dấu hiệu của cuộc khủng hoảng
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang đối mặt với nhiều bất ổn về chính
trị, kinh tế, giá dầu thô liên tục biến động theo hướng tăng cao thì những dấu hiệu
cho một cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ đã bắt đầu nhen nhóm. Đối với những
người theo dõi kinh tế Mỹ, những yếu kém của nền kinh tế này đã bộc lộ rõ từ
trước năm 2000 nhưng đến nay mới bùng nổ. Thiếu hụt cán cân thanh toán nước
ngoài đã tới trên 400 tỷ từ năm 2000, trên 4% GDP và tiếp tục tăng mức thiếu hụt,
đạt 811 tỷ năm 2006 bằng 6% GDP. Năm 2007, đồng đô la mất giá, có làm giảm
mức thiếu hụt xuống 734 tỷ nhưng cũng ở mức rất cao. Các nước khác nếu thiếu
hụt ở mức 3% GDP thì đã phải lo lắng bằng mọi cách nhằm điều chỉnh để giảm
mức thiếu hụt này. Nền kinh tế Mỹ trong hơn 10 năm, có lợi thế là được sự tin
tưởng của cả thế giới, nên tiền đổ vào để cho dân chúng đầu tư và tiêu sài. Để dành
của dân chúng vào năm 2006 chỉ có 34 tỷ, gần như 0% GDP, và tỷ lệ để dành thấp
này chỉ khoảng 1-2% đã kéo dài từ cả chục năm nay. Đầu tư của Mỹ bằng 19%
GDP, chủ yếu dựa vào lợi nhuận công ty, nhưng đến 30% số tiền đầu tư là do vay
mượn nước ngoài. Tình hình tài chính của Mỹ chẳng khác gì một nước đang phát
triển không kiểm soát nổi hầu bao mình. Các nước ở châu Mỹ Latin và ở châu Á
sau cuộc khủng hoảng tài chính những năm 90 đã cố gắng làm sạch sẽ tài chính,
tăng cường để dành, và trở thành nguồn tài chính tài trợ tiêu dùng của Mỹ. Mỹ
đang mất vốn vì giá xuống thì đầu tư của các nền kinh tế của những nước này cũng
sẽ không thể không bị cụt vốn theo. Nói thế không có nghĩa là mọi người có tiền
trên thế giới đầu tư vào Mỹ sẽ lo sợ, ồ ạt rút khỏi Mỹ vì thực sự họ cũng sẽ khó
kiếm chỗ thay thế an toàn và tạo ra lợi nhuận, nhưng việc rút ra một phần cũng tạo
ảnh hưởng không nhỏ.
Tiền đổ vào làm thị trường chứng khoán và tài sản lên giá quá mức giá trị

của nó. Điều này thì ai cũng biết, nhưng rất nhiều người vẫn không tin là giá có thể
4


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

xuống. Đặc biệt là các nhà kinh doanh tiền tệ, họ phải thổi phồng vì càng lên giá,
càng say sưa với thị trường thì giao dịch càng tăng, vay mượn càng nhiều và phí
dịch vụ càng lớn. Giá cổ phiếu Mỹ đã qua thời kỳ điều chỉnh, đặc biệt là giá các
công ty công nghệ thông tin được thổi phồng, chỉ số Nasdaq lên trên 5000 năm
2000 và hiện nay chỉ còn trên 2000, bằng ½ trước đây. Chỉ số Dow Jones ít bị ảnh
hưởng của việc thổi phồng, cũng giảm từ cao điểm gần 12000 năm 2000, xuống tới
mức 7540 và sau đó phục hồi để sau 7 năm mới trở lại thời năm 2000. Bong bóng
thị trường chứng khoán đã tự nó giải quyết bằng cách xuống giá, và để nhằm giữ
nền kinh tế khỏi tuột dốc, Cục dự trữ Liên bang (Fed) đã giữ lãi suất ở mức rất
thấp và lại kéo dài thời gian quá lâu, đầu tư vào nhà cửa tiếp tục tăng, giá nhà cửa
trở thành bong bóng. Trong 5 năm qua giá nhà khắp nơi tăng, thấp nhất ở các bang
hẻo lánh nhiều đất cũng tăng ít nhất 17%, và ở nơi có nhiều đầu cơ tăng hơn gấp
đôi. Nếu kể từ năm 1980, giá nhà ở những bang như New York, California,
Massachussets tăng 5, 6 lần, trong khi lương danh nghĩa ở những vùng trên chỉ
tăng gần 3 lần. Kể từ năm 1997 đến nay những nơi này tăng giá 3 lần.
Nước Mỹ đang gặp phải 3 vấn đề lớn về tài chính. Thứ nhất sự phát triển
không kiểm soát của thị trường cho vay địa ốc dưới chuẩn, có nghĩa là không cần
đặt cọc, không cần đủ thu nhập để chi trả mà vẫn được vay. Thứ hai cho vay tiêu
dùng qua thẻ tín dụng quá mức mà City Group là nạn nhân đầu tiên về thẻ tín
dụng, lỗ 18 tỷ, mà chỉ một phần nhỏ là nợ dưới chuẩn vì tháng 9 vừa qua họ chỉ có
2,7 tỷ nằm trong khoản dù hiện nay giá trị còn lại chỉ còn 5%. Thứ ba, khủng
hoảng tín dụng đã lan rộng đế cả khu vực đầu tư địa ốc văn phòng, chứ không chỉ

tập trung vào khu nhà ở. Các công trình xây dựng có thể trở thành dở dang vì
không kiếm được tiền cho xây dựng tiếp tục. Giá nhà nói chung trong thời gian
vừa qua đã xuống 7%, nhưng nhiều nhà kinh tế cho rằng giá nhà sẽ có thể tiếp tục
xuống vào năm 2009, và có thể tới mức 30%. Tất nhiên những bang lên giá nhiều
sẽ xuống giá nhiều, bang lên giá ít sẽ xuống giá ít. Chưa biết được rõ nền kinh tế sẽ
suy thoái mạnh yếu như thế nào, nhưng suy thoái là điều khó tránh, và nó được
biểu hiện qua những con số đầu tiên:
5


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

Ngày 7/9/2008, chính phủ Mỹ đã phải chi ra 200 tỷ USD để cứu hai ngân
hàng bất động sản lớn nhất thế giới: Fannie Mae và Freddie Mac.
Ngày 15/9/2008, Lehman Brothers - một trong những ngân hàng đầu tư lớn
nhất nước Mỹ với 158 năm truyền thống và tổng tài sản mới đây là 700 tỷ USD, có
đối tác trên khắp thế giới đã chính thức đệ đơn phá sản lên Toà án Phá sản New
York. Điều này đã gây nên một làn sóng hoảng sợ trên thị trường tài chính toàn
nước Mỹ. Đồng thời, Merrill Lynch & Co. - Tập đoàn tài chính hàng đầu của Mỹ,
với tổng tài sản lên tới 1.800 tỷ USD, chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính, ngân
hàng đầu tư và quản lý đầu tư, cũng đang trên bờ vực phá sản buộc phải đồng ý sáp
nhập và để Bank of America mua lại với giá 50 tỷ USD.
Tiếp đó, ngày 17/9/2008, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ FED bất ngờ đưa ra quyết
định tiếp quản AIG - tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới với tổng tài sản trị giá
1100 tỷ USD và 74 triệu khách hàng trên toàn thế giới - đang có nguy cơ phá sản
do thiếu thanh khoản.
Những sự kiện này khiến toàn bộ hệ thống tài chính Mỹ cũng như toàn thế
giới chao đảo. Cuộc khủng hoảng nhanh chóng lan rộng.


1.2 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tại Mỹ
1.2.1 Khủng hoảng tín dụng nhà đất
Nguyên nhân trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay là do
khủng hoảng tín dụng nhà đất. Các ngân hàng tại Mỹ trước đây đã quá dễ dãi trong
việc cho vay tín dụng để mua nhà đất, họ đã cho khách hàng vay mua nhà vượt quá
khả năng tài chính của người mua. Có những ngân hàng Mỹ còn cho khách hàng
vay tới 110-120% giá trị của căn hộ họ cần mua. Vào thời điểm cách đây 10 năm,
khi lãi suất cho vay còn thấp, những người có thu nhập trung bình tại Mỹ cũng có
thể mua được nhà và trả lãi ngân hàng được. Tuy nhiên, sau đó lãi suất ngân hàng
bắt đầu tăng, nhưng người vay tiền ngân hàng để mua nhà bắt đầu không thể trả
nổi lãi ngân hàng, các ngân hàng bắt đầu phải siết nợ, lấy lại ngôi nhà của người
mua. Theo luật Mỹ, chỉ một vài tháng mà người vay không trả nổi nợ, ngân hàng
6


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

sẽ siết nợ. Điều này dẫn đến kết quả là bong bóng nhà đất bị nổ, giá nhà đất sụt
giảm, dẫn tới khủng hoảng tín dụng nhà đất. Có ba yếu tố chính đã khởi tạo nên
bong bóng trong thị trường bất động sản:
- Thứ nhất, bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục Dự
trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng
cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản (mặc dù những loại lãi suất cho vay
tiền mua nhà do các ngân hàng thương mại ấn định bao giờ cũng cao hơn nhiều so
với lãi suất cơ bản của Fed, nhưng mức độ cao hay thấp của chúng bao giờ cũng
phụ thuộc vào lãi suất cơ bản). Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là
trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003

thì chỉ còn 1%.
- Thứ nhì, về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của chính phủ lúc
bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm dân da màu
được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông
qua hai công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac.
Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các
khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ
được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp (mortgage-backed securities - MBS),
rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng
lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch.
- Thứ ba, bởi vì có sự biến đổi các khoản cho vay thành các công cụ đầu tư cho
nên thị trường tín dụng để phục vụ cho thị trường bất động sản không còn là sân
chơi duy nhất của các ngân hàng thương mại hoặc các công ty chuyên cho vay thế
chấp bất động sản nữa. Nó đã trở nên một sân chơi mới cho các nhà đầu tư, có khả
năng huy động dòng vốn từ khắp nơi đổ vào, kể cả dòng vốn ngoại quốc.
Với ba lý do trên thị trường bất động sản trở nên rất nhộn nhịp, có rất
nhiều người thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà.
Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất động sản
liên tục. Chưa bao giờ trong lịch sử nước Mỹ mà giá nhà tăng trong thời gian dài
7


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

và đến mức cao như vậy. Trong thời gian dài, giá nhà tăng mạnh cũng vì các thủ
thuật tài chính của toàn bộ khu vực tài chính nhằm khuyếch tán ảo tưởng giá nhà
lên không có chỗ ngừng, vượt cả khả năng chi trả của rất nhiều người đầu tư vào
địa ốc. Nhưng nếu giá cứ lên thì có gì phải lo, đó là tâm lý đại chúng cho đến thời

gian vừa qua. Các nhà đầu tư địa ốc đã mở rộng thị trường bất kể quyền lợi của
người tiêu dùng, gây vốn cho vay cả những người thu nhập thấp ít khả năng trả nợ,
bằng cách khuyến khích vay với lãi suất lúc đầu thật thấp, và sau đó ít lâu tăng lên
theo lãi suất thị trường. Những người đi vay này tưởng rằng giá nhà sẽ lên mãi
mãi, lãi suất sẽ thấp mãi, nên họ đâm đầu thi nhau mua nhà. Đây là thị trường được
gọi là thị trường dưới chuẩn. Không những dân chúng mua, mà các ngân hàng,
công ty tài chính, quĩ tín dụng, nhà đầu tư nước ngoài cũng tin tưởng mù quáng
vào tương lai của thị trường nhà cửa. Ngân hàng thay vì hoạt động môi giới giữa
người ký gửi tiền và người đi vay thì họ cũng xông vào đầu tư, mua giữ các CMO
rác này. Chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 2007, 8 ngân hàng lớn và công ty tài
chính lớn của Mỹ như Merrill Lynch, Golden Sachs, City Group, Morgan Chase,
Bank of America đã phát hành 286 tỷ CMO dưới chuẩn.
Và việc phải đến đã đến. Khi lãi suất tăng, dù không nhiều, tiền mượn mua
nhà mất khả năng chi trả. Các ngân hàng, công ty tài chính, không những ở Mỹ mà
ở khắp thế giới đang mất vốn lớn và có thể đi đến phá sản. Tháng 10 và 11 vừa
qua, tập đoàn City Group khai mất 8,4 tỷ vốn, công ty Morgan-Stanley mất 3,7 tỷ
vốn và nhiều ngân hàng như Bank of America và nhiều quĩ tài chính khác mất vốn
lên hàng tỷ. Nhiều tên tuổi khác sẽ tiếp tục khai mất vốn vì đây chỉ là khởi đầu của
khủng hoảng.
1.2.2 Sự lan truyền của khủng hoảng từ thị trường bất động sản sang thị trường tín dụng
Khi thị trường bất động sản trở nên rất nhộn nhịp, có rất nhiều người thu
nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để có thể được
vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn và thường được cho mượn
dưới hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian (ví dụ, nếu thỏa thuận là được vay
8


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi


với lãi suất 6% và điều chỉnh sau 3 năm thì đúng ba năm sau lãi suất mới sẽ được
ấn định theo thời điểm đó). Tóm lại, nhóm người này thuộc vào thành phần được
cho vay với loại lãi suất dưới chuẩn (subprime rate).
Bất kể khả năng trả được nợ của nhóm vay dưới chuẩn, khoản tiền cho vay
dành cho nhóm này đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỉ USD ở
năm 2001 lên 540 tỉ vào năm 2004 và trên 1.300 tỉ vào năm 2007. Fannie Mae đã
mạnh tay hơn trong việc mua lại các khoản cho vay đầy mạo hiểm do phải đối đầu
với cạnh tranh nhiều hơn từ các công ty khác, chẳng hạn như Lehman Brothers.
Hơn nữa, sự bất cân đối cung cầu về vốn dẫn đến việc thừa các nguồn vốn mà thị
trường không sử dụng hiệu quả. Do đó cho vay nợ dưới chuẩn là một giải pháp để
giải quyết bài toán thừa vốn nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
Nợ dưới chuẩn được hiểu là các khoản cho vay các đối tượng có mức tín nhiệm thấp.
Những đối tượng đi vay này thường là những người nghèo, không có công ăn việc làm ổn định,
vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh toán tín dụng không tốt trong quá khứ. Chính vì vậy, nợ
dưới chuẩn có mức độ rủi ro tín dụng rất cao song bù lại có mức lãi suất rất cao.

Do yêu cầu tăng trưởng lợi nhuận từ cổ đông, các NH thương mại đẩy
mạnh việc cho các khách hàng dưới chuẩn vay, đặc biệt là vay mua nhà dưới hình
thức "cho vay thế chấp hoặc cầm cố bằng chính tài sản người vay dự định dùng
tiền vay để mua". Với các món vay dưới chuẩn này, người vay phải trả chi phí lãi
vay cao gấp nhiều lần so với các món vay đủ chuẩn. Chính điều này đã làm tăng
rất nhanh lợi nhuận của các NHTM. Nhưng rủi ro mà các món vay dưới chuẩn này
mang lại là rất lớn và không thể kiểm soát nổi. Chính vì lẽ này mà các NHTM
chọn lựa 2 giải pháp để bảo vệ mình. Thứ nhất là mua bảo hiểm cho các khoản nợ
và thứ 2 là chứng khoán hóa các khoản nợ dưới chuẩn.
Như vậy với nghiệp vụ chứng khoán hóa, người cho vay không nhất thiết
phải nắm giữ rủi ro tín dụng mà có thể chuyển hóa sang cho người khác một cách
dễ dàng thông qua việc phát hành chứng khoán nợ lấy danh mục tín dụng làm tài
sản đảm bảo. Chính điều này là cơ sở để các ngân hàng đầu tư đã tự tin bơm vốn

vào hoạt động cho vay nợ dưới chuẩn một cách dễ dàng. Và chứng khoán hoá ở
9


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

đây được gọi là một “phát minh tài chính”, các phát minh này quá hoàn hảo, quá
thông minh đến nỗi mà giờ đây người dân và toàn đất nước Mỹ đang phải gánh
chịu hậu quả.
Người vay tiền đến vay ở các ngân hàng, tài sản đảm bảo của họ chính là
ngôi nhà dự định mua. Do vậy, khi nhà mất giá, theo đúng luật thì họ phải nộp
thêm tiền vào tài khoản đảm bảo. Tuy nhiên, như trên đã nói, họ lâm vào tình trạng
khó khăn, không đủ khả năng nộp khoản tiền đó thì tài sản đảm bảo của họ sẽ bị
đem phát mãi, và bị đuổi ra đường. Các tài sản đảm bảo bị đem phát mãi thì dẫn
đến việc bán tháo các ngôi nhà, nguồn cung nhà tiếp tục tăng, điều này lại càng
làm giảm mạnh giá nhà -> Tiếp tục một vòng luẩn quẩn như vậy. Và cơn khủng
hoảng cứ thế ngày càng lan rộng, thị trường sụp đổ như những quân cờ đô mi nô.
Rủi ro tín dụng tăng lên, dẫn dến các chứng khoán nợ mà ngân hàng đã phát
hành dần mất giá trị. Ngân hàng không thu hồi được nợ, buộc phải công bố các
khoản nợ xấu, nợ khó đòi. Từ chỗ cho vay quá dễ dàng, các ngân hàng giờ đây
thực hiện chính sách thắt chặt tín dụng, ngay cả đối với các khoản cho vay với các
khách hàng có khả năng tài chính lành mạnh. Trong bối cảnh giá nhà sụt giảm và
khả năng tiếp tục còn tụt dốc, tâm lý chờ đợi giá xuống tiếp càng làm giảm cầu của
thị trường bất động sản khiến thị trường này lại càng trở nên ảm đạm. Các nhà đầu
tư, các quỹ đầu tư, những người nắm giữ chứng khoán đứng trước nguy cơ mất
trắng. Còn các ngân hàng thì khánh kiệt vì nợ xấu. Tiêu biểu cho nhóm các ngân
hàng này đó là: Lehman Brothers, Merrill Lynch & Co. và Citigroup Inc... Đương
nhiên cùng với việc đó là giá cổ phiếu của các ngân hàng này giảm mạnh mẽ, đồng

thời người dân cũng hoảng sợ và đến rút tiền ồ ạt. Sự phá sản của Lehman Brothers
chính là một minh chứng thực tế nhất cho cuộc khủng hoảng trên thị trường tín
dụng.
Các công ty tài chính cũng tập trung vốn cho vay mua nhà để thu hoa hồng,
và chia nhỏ các hợp đồng cho vay này thành các chứng khoán ( chứng khoán hoá
các khoản nợ) đem bán cho người có tiền, đó là các công ty đầu tư tài chính chấp
nhận rủi ro cao, các quỹ bảo hiểm, các quỹ hưu trí và dân chúng... Qua đó lại thu
10


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

thêm một lượt hoa hồng nữa, đồng thời rủi ro của các khoản cho vay đã được đẩy
sang cho người khác.
Bình thường, lãi suất cho vay mua nhà là 7% cùng với các điều kiện bảo
chứng khác nhưng các công ty tài chính này cho vay toàn bộ số tiền mua nhà với
lãi suất là 9% nhằm tăng lợi nhuận và tiền hoa hồng, ngoài ra còn hưởng thêm nhờ
các khoản dịch vụ phí khác.
Vậy hậu quả đối với các công ty tài chính này khi thị trường nhà đất sụp đổ là gì?
Các khoản vay này mang tính rủi ro rất cao, khi người vay mất khả năng chi
trả, toàn bộ hệ thống sẽ không đủ lãi để bù đắp khoản vốn đã bỏ ra. Bởi vấn đề ở
đây là họ không thể nào bán hết được số chứng khoán nợ đã phát hành, và tất
nhiên, các khoản cho vay ồ ạt đã không thể quay trở lại. Nợ nần chồng chất. Lập
tức, cổ phiếu của các công ty này cũng lâm vào tình trạng rơi tự do.
Như vậy, khủng hoảng đã lan từ thị trường bất động sản sang thị trường tín
dụng Mỹ thông qua các ngân hàng thương mại và các công ty tài chính cho vay
mua nhà. Từ đây, khủng hoảng bắt tiếp tục phát tán ra khắp các thị trường chứng
khoán, bảo hiểm và toàn bộ thị trường tài chính.

1.2.3 Nền kinh tế mất cân bằng – một trong những nguyên nhân gây ra khủng hoảng
Trong khi hầu hết các quốc gia trên thế giới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
thông qua đầu tư và đẩy mạnh xuất khẩu thì nước Mỹ đã chọn cho mình một con
đường riêng để duy trì đà tăng trưởng kinh tế đó là khuyến khích và đẩy mạnh tiêu
dùng nội địa. Trong nhưng năm qua tiêu dùng của người dân luôn chiếm tỷ trọng
ngày càng cao trong cơ cấu GDP của nước này và hiện đang tỷ trọng lớn đến 70%
GDP. Chiến lược này trong một thời gian đã tỏ ra rất hiệu quả khi lòng tin của
người tiêu dùng vào triển vọng của nền kinh tế đang ở mức cao nhưng nó đã tạo
nên một lỗ hổng to lớn trong nền kinh tế đó chính là làm cho nền kinh tế trở nên
mất cân bằng.
Tiêu dùng của người dân Mỹ đã dần dần trở nên quá mức bởi tư tưởng lạc
11


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

quan thái và được khuyến khích bởi sự dễ dãi của các tổ chức tín dụng trong cho
vay tiêu dùng. Chính điều đó đã tạo khoản thâm hụt thương mại cực lớn và có dấu
hiệu ngày càng tăng, đồng thời hệ thống kinh tế trở nên dễ bị tổn thương hơn bao
giờ hết bởi các mối quan hệ vay nợ dễ dãi và chồng chéo.
Để tài trợ cho khoản thâm hụt thương mại cực lớn của mình nước Mỹ đã sử
dụng biện pháp vay nợ nước ngoài bằng cách phát hành trái phiếu ra toàn thế giới
và các nước đã hăng háimua các trái phiếu này đặc biệt là Trung Quốc và các nước
Châu Á. Tính chung cho 5 năm trở lại đây trung bình mỗi ngày nước Mỹ vay nợ
thêm 2 tỷ USD. Và các nhà kinh tế theo chủ nghĩa hoài nghi đã cảnh báo nguy cơ
khủng hoảng nhưng các cảnh báo này đã bị bỏ qua. Thậm chí có nhiều nhà kinh tế
cho rằng thâm hụt thương mại của Mỹ sẽ được bù đắp bởi các khoản đầu tư của
các nước trên thế giới quay ngược trở lại nước Mỹ và cán cân thanh toán vẫn cân

bằng. Họ lập luận rằng hệ thống kinh tế bao giờ cũng có khả năng tự điều chỉnh về
mức cân bằng do đó không có vấn đề gì đáng lo ngại.
Tuy nhiên các nhà kinh tế lạc quan đã vô tình bỏ qua một yếu tố hết sức
quan trọng trong nhận định của mình. Bởi lẽ khi thâm hụt thương mại của một
quốc gia tăng lên liên tục trong nhiều năm thi nghiễm nhiên đồng tiền của quốc
gia đó nhiều khả năng sẽ phải giảm giá do ngân hàng trung ương có thể phải in
thêm tiền nhằm tài trợ cho khoản thâm hụt này. Ngoài ra nếu nước Mỹ tiếp tục sử
dụng các khoản nợ nước ngoài nhằm tài trợ cho tiêu dùng thì khi các khoản nợ này
đáo hạn đồng USD sẽ được in ra để trả nợ với khối lượng lớn do đó không còn
hấp dẫn giới đầu tư. Xu hướng này nếu xảy ra sẽ tiếp tục kích thích giới đầu cơ
thực hiện một cuộc tấn công tiền tệ chống lại đồng USD và do đó trong hoàn cảnh
xấu nhất có thể gây ra khủng hoảng nghiêm trọng. Đồng USD mất giá, lòng tin của
công chúng vào triển vọng kinh tế xấu đi lập tức sẽ dẫn tới người tiêu dùng cắt
giảm chi tiêu và nước Mỹ mất đi động lực chính của mình cho tăng trưởng và chìm
vào suy thoái toàn diện.
Các tổ chức tín dụng phải gánh chịu hậu quả đầu tiên bởi các khoản cho
vay dễ dãi của họ không có khả năng thu hồi. Các khoản vay này lại được chứng
12


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

khoán hóa và bán cho giới đầu tư khiến cho tình hình càng trở nên tồi tệ hơn khi
giới đầu tư bị thiệt hại nặng nề. Đến lượt mình giới đầu tư lại bán tháo các khoản
đầu tư đang nắm trong tay khiến chúng rớt giá thảm hại gây thiệt hại nặng cho các
ngân hàng đầu tư. Các ngân hàng đầu tư sụp đổ khiến các khoản ủy thác đầu tư của
công chúng bốc hơi và đẩy hàng trăm ngàn người vào cảnh khánh kiệt. Bên cạnh
đó các tổ chức kinh tế lớn phá sản sẽ khiến hàng triệu người khác lâm vào cảnh

mất việc và đến lượt họ lại cắt giảm chi tiêu tối đa hoặc không thanh toán được các
khoản nợ của mình.
Có thể nói nước Mỹ đã rơi vào một vòng xoáy không có lối thoát do nó tự gây
ra cho mình bởi tính tự mãn và sự kiêu ngạo của các nhà hoạnh định chính sách.

CHƯƠNG 2 :

SỰ TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG

TÀI CHÍNH MỸ TỚI VIỆT NAM. YÊU CẦU CẢI CÁCH
VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG TẠI
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI.
2.1 Tác động của khủng hoảng tài chính Mỹ tới nền kinh tế Việt Nam
Khủng hoảng trên thị trường tài chính Mỹ tới nay đã trở thành khủng hoảng
với cả nền kinh tế Mỹ, gây ra những chấn động mạnh mẽ không những trong phạm
vi nước Mỹ mà còn trên quy mô toàn cầu. Thế giới đang hy vọng vào BRIC
( Brazil, Russia, China, India ) vì các nền kinh tế này còn tăng trưởng. Song, các
13


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

nền kinh tế đó đều gặp khó khăn rất lớn mà chính phủ các nước đó chưa công bố
đầy đủ thông tin. Kinh tế Trung Quốc đã từ bội thu chuyển sang bội chi ngân sách,
thất nghiệp tăng mạnh, xuất khẩu giảm, dự trữ ngoại tệ lớn nhất hành tinh và có
tiềm lực rất lớn ; đã có 26 triệu người thất nghiệp. Nhật Bản đang bị suy thoái sâu,
song chính phủ Nhật đã đưa ra gói 17 tỷ USD trợ giúp cho kinh tế châu Á. Các thể
chế tài chính thế giới ( IMF, WB ) phải được cải tổ và kiện toàn. Bổ sung các quy

tắc và tiêu chuẩn cho hoạt động tài chính, ngân hàng. Trước bối cảnh đó, Việt Nam
cũng là một nước phải gánh chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoàng tài
chính toàn cầu.
Tác động của khủng hoảng đến Việt Nam diễn ra trên nhiều mặt :
Trước tiên, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam khó có thể tránh
khỏi những ảnh hưởng bất lợi từ TTCK thế giới. Đặc biệt, khi TTCK tại Việt Nam
còn non trẻ, tâm lý của các nhà đầu tư còn chưa vững vàng, ảnh hưởng từ thị
trường bên ngoài tới TTCK trong nước là không thể tránh khỏi.
Ảnh hưởng thứ 2 cần đề cập tới đó là hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Thị trường xuất khẩu của Việt Nam bị thu hẹp do khủng hoảng tài chính thế giới.
Trong khi đó, kinh tế Việt Nam lại đang nhập siêu với tỷ lệ lớn, hơn 5%.
Ảnh hưởng thứ 3 là hoạt động tín dụng tại Việt Nam bị thắt chặt ảnh
hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khiến nhiều doanh nghiệp
vừa và nhỏ bị phá sản.
Năm 2009 sẽ là năm khó khăn nhất từ khi bắt đầu đổi mới đến nay. Cân đối
ngân sách gặp khó khăn lớn, bội chi ngân sách có nguy cơ tăng cao, lạm phát
không nhỏ nếu không có các biện pháp cân đối thu chi có hiệu lực. Việt Nam vừa
phải đối phó với tác động của khủng hoảng vừa phải giải quyết những yếu kém nội
tại của nền kinh tế : hai cơn bão trong và ngoài cùng một lúc, họa vô đơn chí.
Thời điểm khủng hoảng tài chính thế giới diễn ra đúng vào thời điểm nền
kinh tế Việt Nam đang gặp khó khăn. Các sàn chứng khoán của các nước đã giảm
2 đến 7%. Nhiều nền kinh tế đều có đầu tư vào Mỹ, do đó mất giá ở Mỹ sẽ đẩy
mạnh mất giá trên toàn cầu. Cụt vốn khắp nơi không thể không ảnh hưởng đến đầu
14


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi


tư vào Việt Nam. Ngoài ra, nếu khủng hoảng ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất vì
giảm tiêu dùng như đang hình thành ở Mỹ thì hàng nhập khẩu vào Mỹ sẽ giảm,
đưa đến giảm xuất khẩu của nhiều nước. Việt Nam cũng khó tránh khỏi vấn đề
này, nhất là thị trường Mỹ vào năm 2007 đã chiếm tới 24% trị giá hàng xuất khẩu
của Việt Nam. Đây cũng chính là thách thức lớn đối với kinh tế Việt Nam hiện
nay. Bài học lớn hơn Việt Nam cần rút ra là mối đe đoạ về một cuộc khủng hoảng
tương tự về tài chính đang tiềm ẩn mà Việt Nam dường như chưa thấy mối nguy
cơ. Có hai thị trường ở ta mà ai cũng thấy là bong bóng: đó là thị trường nhà đất và
thị trường chứng khoán. Cộng thêm là mối đe doạ lạm phát mạnh đang đè nặng.
Trên thực tế thời điểm sau Tết là thử thách lớn : xuất khẩu tháng 1.2009 đã giảm
sút, đặc biệt vấn đề lao động, việc làm ngày càng khó khăn hơn.
Tình trạng mất việc làm, thất nghiệp gia tăng là mối lo hàng đầu của
mọi quốc gia trong bối cảnh suy thoái, khủng hoảng kinh tế. Ở nước ta, nhiều
ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ phát triển mạnh trong những năm qua
trước hết nhờ lợi thế nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ. Đây cũng là một
trong những nhân tố khiến ta thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, trở thành một địa
chỉ outsourcing của nhiều hãng lớn trên thế giới và xúc tiến xuất khẩu lao động đi
nhiều nơi.
Trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu và khó khăn kinh tế trong nước,
các ngành dùng nhiều lao động ở nước ta đều bị chấn động, buộc phải thu hẹp sản
xuất, kinh doanh, cắt giảm việc làm. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài cũng không thể
thực hiện các cam kết của họ ở Việt Nam, thậm chí có những nhà đầu tư đã lặng lẽ
đóng cửa nhà máy ra đi. Các hợp đồng outsourcing giảm mạnh khi các nước đều lo
tạo thêm việc làm cho người dân nước mình, và người lao động ở các nước đều sẵn
sàng chấp nhận làm mọi việc có thể tạo thu nhập, kể cả thu nhập thấp hơn. Rõ ràng
giảm việc làm là điều khó tránh khỏi, trong khi nhu cầu tạo việc làm cho hàng triệu
người đến tuổi lao động và tạo việc làm mới cho những người cần chuyển đổi việc
làm vẫn là nhu cầu thường xuyên ở nước ta, và hoàn toàn không dễ giải quyết
trong thời buổi khó khăn này.
15



Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

Điều này tồn tại song song với nghịch lý đáng buồn là vẫn có nhiều việc
làm tốt ở những dự án đầu tư tốt nhưng lại không đủ nguồn nhân lực có chất lượng
đáp ứng được yêu cầu công việc, và việc vẫn phải chờ người!
Mất việc làm, thất nghiệp gia tăng tất yếu dẫn đến giảm thu nhập của
người dân, trước hết là các gia đình có người trong diện này. Mặt khác, doanh
nghiệp và các đơn vị sử dụng lao động nói chung đều gặp khó khăn nên gần như
không thể tăng tiền công, tiền lương cho người lao động. Hàng triệu hộ kinh doanh
nhỏ, hộ nông dân, làng nghề cũng khó tiêu thụ sản phẩm hơn, nguồn thu của họ teo
lại.
Thu nhập của người dân giảm sút khiến cho có thể diện nghèo lại tăng lên,
tiến độ xóa đói giảm nghèo của chúng ta chậm lại. Sức mua của thị trường tiêu
dùng trong nước sẽ giảm sút khi thu nhập giảm và ai cũng phải “thắt lưng buộc
bụng”. Điều đó lại bất lợi cho phát triển kinh tế.
Sự suy giảm sản xuất kinh doanh của một số ngành, trong đó có các
ngành xuất khẩu như dệt may, da giày, đồ gỗ trên thực tế đã diễn ra từ cuối năm
2008. Năm 2009 tình trạng này có thể lan rộng hơn ra một số ngành khác và trầm
trọng hơn, gây nên đình trệ ở một số doanh nghiệp, một số ngành hẹp, một số địa
phương. Điều đáng lo ngại là không chỉ những doanh nghiệp nhỏ, những ngành
thường bị đánh giá là kém năng lực cạnh tranh lâm nguy, mà cả một số ngành
thường được coi là có năng lực cạnh tranh cũng gặp khó, như 3 ngành kể trên,
hoặc một số ngành nông sản, thủy sản, dịch vụ. Cả 11 nhóm hàng công nghiệp chế
tác và nông sản của Việt Nam được coi là có năng lực cạnh tranh theo tiêu chí
RCA (Revealed Competitive Advantage) của Trung tâm Thương mại Quốc tế đều
đang bị sụt giảm hoặc đứng trước nguy cơ sụt giảm xuất khẩu.

Các ngành xuất khẩu dựa trên khai thác tài nguyên thiên nhiên của chúng ta
cũng không hơn gì, khi giá cả giảm mạnh đến mức lợi nhuận không được là bao
hoặc thậm chí âm so với chi phí khai thác, khi vị thế của người bán không còn
thuận lợi so với người mua như chỉ chưa đầy một năm trước.
Mặt khác, đáng lo ngại không kém là có một số doanh nghiệp, một số
16


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

ngành đã được dồn nhiều nguồn lực, ưu tiên đầu tư cao trong những năm qua với
kỳ vọng tạo nên những doanh nghiệp lớn, những ngành then chốt cho nền kinh tế
như điện tử, thép, đóng tàu, dầu khí, dịch vụ vận tải biển… cũng đang liêu xiêu, có
cái còn phải xin cứu trợ. Điều này vừa khiến các nguồn lực to lớn đã bỏ vào đó
không phát huy được hiệu quả, vừa hạn chế sự đóng góp của các ngành này vào
việc chống đỡ khó khăn cho nền kinh tế, vừa nặng thêm gánh lo của đất nước trong
lúc này.
Nguyên nhân đầu tiên và trực tiếp nhất của sự suy giảm nói trên là thị
trường, yếu tố mà từng doanh nghiệp, từng ngành đơn lẻ có rất ít khả năng xoay
chuyển. Thị trường toàn cầu, nhất là những thị trường xuất khẩu chủ yếu của ta đều
trong tình trạng suy thoái. Thị trường trong nước vốn đã hạn hẹp về sức mua, lại
phải đương đầu với cạnh tranh tăng lên từ hàng nhập khẩu.
Lâu nay chúng ta cạnh tranh chủ yếu bằng giá, song bây giờ giá cũng chỉ
là cánh cửa hẹp, trong khi các nhân tố khác như công nghệ, năng suất, sự khác biệt,
ai cũng biết là cần nhưng chưa kịp làm, thì không dễ nhanh chóng hình thành. Suy
giảm, đình trệ sản xuất kinh doanh vừa làm nặng nề thêm vấn đề việc làm và thu
nhập, vừa tác động mạnh đến tăng trưởng kinh tế năm nay và có thể cả năm sau.
Hai vấn đề trên thực ra vừa là biểu hiện, vừa là hệ quả của tình trạng suy thoái kinh

tế đang diễn ra ở nước ta. Sâu xa hơn, hai vấn đề trên cũng là hệ quả của những
yếu kém tồn tại trong nền kinh tế nước ta từ lâu chưa được khắc phục. Có những
chỗ yếu từ lâu được ta nhìn thấy nhưng chưa bục phát do còn được nâng đỡ, được
che chắn, nhưng khi bão tố ập đến thì cứu vãn không nổi, và chúng bùng nổ thành
những vấn đề nóng bỏng như trên.

2.2 Các yêu cầu cải cách để vượt qua khủng hoảng
Năm 2009 sẽ là một năm rất nhiều thách thức đặt ra đối với Việt Nam.
Trước tình hình đó, ta cần cải cách mạnh mẽ ở tầm vĩ mô và vi mô, từ bộ máy nhà
nước đến doanh nghiệp. Chính quyền và doanh nghiệp cần hộp lại với nhau, đưa ra
các phương án hành động cụ thể, không thể dàn trải, phải có trọng điểm, tập trung
17


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

vào những khâu nào có thị trường trong nước và xuất khẩu. Cải cách hành chính,
giảm chi phí về thời gian, tiền bạc, cải cách cả về y tế, giáo dục, bảo vệ môi
trường, an sinh xã hội. Vận dụng khoa học – công nghệ để chế tác, nâng cao giá trị
giá tăng; phải hợp tác giữa sản xuất, chế biến, phân phối, phát triển công nghiệp,
dịch vụ trợ giúp có trọng điểm. Nhà nước cần tiến hành cơ cấu lại, lành mạnh hóa
những doanh nghiệp nào còn có khả năng phục hồi, cần sự hợp lực của các ngân
hàng và các chuyên gia.
Cần nhìn nhận được trước khó khăn.
Năm 2009 sẽ tiếp tục là một năm ảm đạm với nền kinh tế thế giới. Đến bây
giờ chưa thấy các nhóm giải pháp của các nước với những khoản tiền khổng lồ đổ
ra có tác động tích cực làm chặn đà suy giảm. Ngược lại, ngay cả khi các giải pháp
đã được tung ra, nền kinh tế thế giới vẫn bộc phát thêm những điểm yếu mới. Bệnh

của nền kinh tế các quốc gia chưa bộc lộ hết. Và tác động mang tính dây chuyền,
domino của những khó khăn vẫn tiếp diễn.
Khủng hoảng đi từ nền kinh tế này đến nền kinh tế khác, đi từ ngành này
sang ngành khác, từ DN này tới DN khác.
Dự báo, đánh giá tốt tình hình thể giới để có nhiều phương án thích hợp
Với Việt Nam, khả năng đánh giá về kinh tế toàn cầu có giới hạn, bên cạnh việc tự
nghiên cứu, cần tiếp tục theo dõi, tăng cường khả năng dự báo thông qua tiếp cận
với các dự báo của thế giới để có một hình dung đúng nhằm đối phó. Trong bối
cảnh kinh tế trong nước và thế giới biến động nhanh chóng khôn lường, nếu không
đánh giá, dự báo tốt, chúng ta khó có thể thấy được thách thức, cơ hội cụ thể trong
từng thời gian, ở từng lĩnh vực, địa bàn để có phản ứng thích hợp
Chống suy thoái vẫn phải dảm bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát
Bên trong, năm 2009, Việt Nam cần coi trọng cả chống lạm phát và chống
suy thoái kinh tế. Chống lạm phát không thể coi thường: năm 2008 dù có mấy
tháng chỉ số CPI âm, nhưng lạm phát cả năm vẫn ở mức cao.
Gốc rễ của căn bệnh kéo dài của nền kinh tế cũng như sự kém hiệu quả của nền
18


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

kinh tế chưa được khắc phục. Lạm phát giảm xuống một phần do tác dụng bước
đầu của nhóm giải pháp của chính phủ nhưng phần khác quan trọng là sự giảm giá
của hàng loạt mặt hàng quan trọng: giá dầu chỉ còn chưa tới 1/3 so với giai đoạn
đỉnh cao.
Năm 2009, Việt Nam cần phải làm tiếp để chống lạm phát căn bản căn cơ
hơn. Nếu không, người hưởng lợi từ gói kích cầu chưa phải là đối tượng đáng được
hưởng, cần được kích cầu trong khi đối tượng cần hơn lại bị loại trừ.

Tập trung gải quyết ba vấn đề chính trong khủng hoảng: Xuất phát từ
yếu kém của nền kinh tế, năm 2009, Việt Nam phải tập trung xử lý những vấn đề
căn cơ để không chỉ vượt qua khủng hoảng mà phát triển sau khủng hoảng. Lâu
nay có nhiều việc phải làm, nhiều cái phải rượt đuổi, quan tâm, chưa chú ý thực
hiện, bây giờ nên tập trung thực hiện trong năm 2009: khắc phục 3 nút cổ chai.
Một là nguồn nhân lực: Nhân khó khăn, Việt Nam nên xem lại đầu tư cho
giáo dục như thế nào. Kích cầu cũng nên tăng cường cho giáo dục đào tạo để cải
thiện. Đồng thời, cũng như mọi ngành, cần kiểm tra xem các khoản đầu tư vào
giáo dục được sử dụng như thế nào. Có lẽ cần thay đổi cách đầu tư chỉ qua kênh
nhà nước, vốn hiệu quả không cao
Hai là, về hạ tầng, nhu cầu phát triển của Việt Nam rất lớn nhưng cần xem
ưu tiên ở đâu, tập trung làm cho dứt điểm, không để những cầu Thanh Trì tồn tại...
Gần trung ương đến thế mà không khắc phục được năm này năm khác, nói gì tới
các dự án ở xa. Đó không chỉ là câu chuyện phát triển của Việt Nam mà còn là vấn
đề niềm tin của nhân dân, của nhà tài trợ ODA và các nhà đầu tư tương lai. Yếu
kém cần khắc phục, tập trung vào giải quyết.
Ba là, cải cách hành chính, yếu về thể chế. Đây là lúc đánh giá cặn kẽ hơn để
cùng nhau khắc phục. Cần xem lại quá trình phân cấp chúng ta đã được gì và mất
gì, những gì thiếu hụt, khoảng cách giữa đòi hỏi và năng lực của bộ máy.

2.3 Giải pháp khắc phục khủng hoảng tại Việt Nam
2.3.1 Đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và xuất khẩu
19


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

Đẩy mạnh sản xuất kinh doanh là giải pháp cơ bản nhất bởi vì muốn tăng

trưởng kinh tế thì phải đẩy mạnh sản xuất, phát triển dịch vụ. Tập trung hỗ trợ sản
xuất cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa – nơi tạo ra nhiều việc làm và cũng là khu
vực gặp nhiều khó khăn nhất. Ngoài việc hỗ trợ lãi suất ngân hàng, thuế cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thì vấn đề quan trọng là phải bảo lãnh cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đầu tư xuất khẩu. Hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp xuất
khẩu, các doanh nghiệp thu mua hàng nông, lâm sản phục vụ xuất khẩu trong bối
cảnh giá thế giới giảm mạnh do nhu cầu tạm thời xuống thấp. Thực hiện chính sách
điều hành tỉ giá linh hoạt theo hướng có lợi cho xuất khẩu.
Xuất khẩu chiếm khoảng 70% GDP của Việt Nam và tạo ra hàng chục triệu
việc làm mỗi năm. Xuất khẩu suy giảm đã tác động lớn đến tăng trưởng, đến đời
sống và việc làm của người lao động. Vì vậy, cần đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng
xuất khẩu có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng cao, có cơ hội phát triển thị
trường đồng thời rà soát các mặt hàng có khả năng sản xuất nhưng chưa bị hạn chế
về thị trường để tranh thủ xuất khẩu. Đa dạng hóa mặt hàng và thị trường xuất
khẩu để tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Giảm sự phụ thuộc vào thị
trường truyền thống và mở thêm các thị trường mới. Cụ thể tăng xuất khẩu vào các
thị trường thuộc khu vực mậu dịch tự do ASEAN, ASEAN – Trung Quốc, ASEAN
– Hàn Quốc… và các thị trường ít bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu. Trong đó, châu Phi và Trung Đông nổi lên là những thị trường xuất khẩu
đầy triển vọng trong tương lai.
Sản xuất kinh doanh cần phải tập trung vào thị trường nội địa, bởi vì tốc độ
tăng trưởng về qui mô của thị trường nội địa cao hơn nhiều so với thị trường xuất
khẩu. Năm 2008, nguồn thu từ xuất khẩu đạt 62 tỉ USD, trong khi nguồn thu từ
tiêu dùng nội địa cũng đạt hơn 980.000 tỷ đồng (xấp xỉ 60 tỉ USD). Với sức mua
của hơn 87 triệu dân nên thị trường tiêu dùng nội địa khá mạnh, vì vậy cần phải
kích thích và tăng sức mua của thị trường trong nước, tạo các mẫu mã hợp nhu cầu
và thời trang với người tiêu dùng trong nước để thay thế dần các hàng ngoại nhập
nhằm giảm nhập siêu, thay thế dần các thị trường xuất khẩu đang bị thu hẹp do
20



Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

khủng hoảng tài chính thế giới. Hơn nữa, mức tăng trưởng của thị trường nội địa
cao và khá ổn định, trong khi xuất khẩu có thể gặp nhiều rủi ro, bất bênh. Vì vậy,
bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu thì cần phải tập trung vào thị trường nội địa.
Đối với nhóm giải pháp này có ba việc cần làm, đó là:
Một là, tạo môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp mọi thành phần
kinh tế phát triển, xóa bỏ các rào cản về hành chính, về sự phân biệt đối xử, từ đó
thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển bằng con đường nâng cao năng lực cạnh
tranh chứ không dựa trên bao cấp, bảo hộ hay ưu đãi.
Hai là, cấu trúc lại các ngành, các lĩnh vực kinh tế của nước ta trên cơ sở lợi
thế cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập, có tính toán đầy đủ các nhân tố cạnh tranh
và hợp tác trên các thị trường trong nước, khu vực và toàn cầu. Trên cơ sở đó, điều
chỉnh sự phân bổ nguồn lực để tập trung phát triển những ngành công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ có năng lực cạnh tranh cao hoặc có tiềm năng phát triển và những
lĩnh vực nền tảng như kết cấu hạ tầng, giáo dục và khoa học công nghệ.
Ba là, điều chỉnh mô hình tăng trưởng cả ở tầm vĩ mô và ở từng ngành, từng
doanh nghiệp, tập trung đầu tư đổi mới công nghệ, kỹ năng quản lý, nâng cao năng
suất lao động
2.3.2 Khuyến khích hoạt động đầu tư và tiêu dùng
Tăng trưởng kinh tế suy giảm do 2 yếu tố chủ yếu: vốn đầu tư (đầu vào) và
tiêu dùng sản phẩm (đầu ra). Vốn đầu tư đóng góp chủ lực trong tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam. Tốc độ tăng vốn đầu tư hàng năm đều lớn hơn tốc độ tăng GDP
và tỉ lệ vốn đầu tư/GDP có xu hướng tăng liên tục (xấp xỉ 40%) trong thập kỷ qua
(đây là tỉ lệ đầu tư cao so với các nước trên thế giớ)i. Đầu tư tư nhân - gần bằng ½
tổng vốn đầu tư trong nước - cũng đang có xu hướng ngày càng tăng. Tuy nhiên
tăng vốn đầu tư sẽ tăng sản phẩm sản xuất. Nếu sản phẩm sản xuất không tiêu thụ

được sẽ dẫn đến sự tồn đọng. Vì vậy, cùng với khuyến khích đầu tư thì cần khuyến
khích cả hoạt động tiêu dùng. Trong điều kiện xuất khẩu bị sụt giảm, thì tiêu dùng
trong nước càng trở thành “cứu cánh”. Khuyến khích hoạt động đầu tư và tiêu
dùng có ý nghĩa lớn nhằm tạo động lực tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.
21


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

Để hoạt động kích cầu đầu tư và tiêu dùng đạt hiệu quả cần chú ý đến những
vấn đề chính sau: Một là, tập trung kích cầu đầu tư vào các dự án sắp hoàn thành,
đưa nhanh vào sử dụng, các dự án có dung lượng và triển vọng thị trường tiêu thụ
tốt, các dự án góp phần trực tiếp duy trì và mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh
cần thiết của doanh nghiệp và nền kinh tế. Ưu tiên các dự án có khả năng tạo được
thị trường tiêu thụ, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các dự án kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội – môi trường. Hai là, để kích cầu tiêu dùng cần giảm giá hàng
tiêu dùng, giảm lãi suất, điều chỉnh tăng lương, giảm thuế thu nhập cá nhân và
doanh nghiệp, tăng cho vay tiêu dùng, đồng thời giãn, khoanh nợ và tăng hỗ trợ an
sinh xã hội. Hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, người có thu nhập thấp, đồng bào
dân tộc thiểu số, các vùng núi khó khăn, thiên tai, bệnh dịch… Đơn giản hóa các
thủ tục trợ cấp cho người nghèo.
Trong một nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, kích
cầu hiện nay nên được hướng vào việc tăng cung cho giai đoạn tới, nghĩa là tạo ra
nhu cầu để giải quyết sự suy thoái trước mắt nhưng đồng thời (thông qua biện pháp
kích cầu) phải tăng năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh khi kinh tế thế giới hồi
phục và cả trong dài hạn. Các biện pháp thực hiện gói kích cầu nên theo sát
phương châm lớn đó.Cụ thể, có thể nêu ra vài điểm như sau.
Thứ nhất, chỉ đầu tư công ở những điểm yếu thật sự trong kết cấu hạ tầng

kinh tế.
Thứ hai, tín dụng ưu đãi nên ưu tiên cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, là
những nơi tạo ra nhiều công ăn việc làm nhưng lại đang gặp khó khăn trong việc
tiếp cận vốn. Qua đó, công nghiệp phụ trợ cũng dễ phát triển.
Thứ ba, tập trung xây dựng nhà ở giá rẻ cho người có thu nhập thấp, nhất là
tại các vùng phụ cận với các khu công nghiệp, và từng bước giải quyết các khu nhà
“ổ chuột” ở thành phố. Đầu tư theo hướng này vừa có tác dụng an sinh xã hội, vừa
tạo điều kiện cải thiện thị trường lao động, ổn định sản xuất cho giai đoạn tới.
Thứ tư, đầu tư cải thiện hạ tầng giáo dục, nhất là bậc tiểu học ở vùng sâu
vùng xa. Giải quyết tình trạng thiếu phòng học, thiếu cơ sở vui chơi, giải trí của
22


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

học sinh ở vùng sâu vùng xa. (Điểm thứ tư này không có tác dụng về mặt cung
trước mắt nhưng quan trọng trong dài hạn).
Song song với chính sách kích cầu theo hướng vừa nói, trước mắt nên tìm biện
pháp cải thiện quan hệ kinh tế với Trung Quốc.
Thứ nhất, Trung Quốc là thị trường rất lớn, lại ở sát nách Việt Nam. Nhập
khẩu năm 2007 [của nước này] gần 1.000 tỉ đô la. Dĩ nhiên nhập khẩu Trung Quốc
sẽ giảm nhiều trong tình hình hiện nay, nhưng vẫn là thị trường lớn. Theo nhiều dự
báo, kinh tế Trung Quốc sẽ phát triển trên 5% trong năm 2009 và cao hơn trong
các năm sau.
Thứ hai, hàng công nghiệp của Trung Quốc tràn ồ ạt vào thị trường Việt
Nam, gây ra sự mất thăng bằng trầm trọng trong cán cân ngoại thương của ta. Nỗ
lực thay thế hàng nhập từ Trung Quốc tại thị trường nội địa Việt Nam và đẩy mạnh
xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc sẽ góp phần ổn định kinh tế vĩ mô (giảm

nhập siêu) và tăng năng lực cạnh tranh của hàng công nghiệp Việt Nam trên thị
trường thế giới.
Dĩ nhiên cũng nên tiếp tục quan tâm đến các thị trường khác, nhưng trong cuộc
khủng hoảng này, cải thiện quan hệ với Trung Quốc là một mũi đột phá quan
trọng.
2.3.3 Quan tâm tới vấn đề việc làm. Đảm bảo an sinh xã hội và đẩy mạnh xóa
đói giảm nghèo
Đối với vấn đề việc làm, có 3 việc. Một là, tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi
cho phát triển doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân và DN nhỏ và vừa - khu
vực luôn tạo hơn 90% việc làm phi nông nghiệp ở nước ta trong những năm qua.
Hai là, tập trung hỗ trợ khu vực nông thôn, hỗ trợ phát triển nông nghiệp hiệu
quả và bền vững, đồng thời hỗ trợ duy trì và mở mang các ngành nghề khác, các
hoạt động kinh tế ở nông thôn nhằm tạo việc làm ổn định, thu nhập cao hơn và
điều kiện sống tốt hơn cho nông dân và những người sinh sống ở nông thôn.
Ba là, thực hiện ngay những cải cách mạnh mẽ trong hệ thống giáo dục, đào
23


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

tạo, xây dựng nền tảng mới cho sự phát triển nguồn nhân lực ở nước ta, nhằm
chuyển mạnh từ cạnh tranh bằng giá nhân công rẻ sang cạnh tranh bằng nguồn
nhân lực có chất lượng tốt.
Thị trường lao động không có tay nghề đang dư thừa, song thị trường lao
động đòi hỏi tay nghề cao ở nước ta lại đang thiếu nguồn cung. Cơ hội cho xuất
khẩu lao động cũng vẫn còn, song cũng phải là lao động có chất lượng. Đối với
người lao động, cách tốt nhất giúp họ là tạo cho họ cơ hội học hành, có kỹ năng
cần thiết để có việc làm tốt hơn.

Trước nguy cơ suy giảm tăng trưởng kinh tế, tác động tiêu cực đến việc
làm và thu nhập của người lao động thì vấn đề bảo đảm an sinh xã hội và đẩy
mạnh xóa đói, giảm nghèo phải được xem là giải pháp cấp bách. Tăng cường dự
trữ quốc gia để triển khai thực hiện các chính sách an sinh xã hội đã ban hành như
chương trình nhà ở cho người nghèo, nhà ở cho người lao động tại các khu công
nghiệp tập trung, nhà ở và tín dụng ưu đãi cho sinh viên…
Thực hiện các giải pháp đầu tư để giảm nghèo nhanh và bền vững cho 61
huyện có tỉ lệ nghèo cao nhất, bảo đảm đến năm 2020 các huyện này sẽ có mức
phát triển ngang bằng với trình độ chung của cả nước. Tổ chức triển khai chế độ
bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội. Thực hiện tăng
thêm dự trữ quốc gia về lương thực để chủ động cứu trợ cho người dân ở các vùng
bị lũ, lụt. Tiếp tục thực hiện trợ cấp khó khăn cho người hưởng lương từ ngân sách
nhà nước có đời sống khó khăn thu nhập thấp. Đặc biệt quan tâm bảo đảm y tế,
giáo dục, nhất là đối tượng chính sách và các khu vực còn nhiều khó khăn.
2.3.4 Thực hiện chính sách tài chính – tiền tệ tích cực và hiệu quả
Chính sách tài chính tiền tệ chủ yếu tập trung vào những mục tiêu sau: Một
là, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, đẩy mạnh xuất khẩu; Hai là, phân phối kinh phí hợp lý, tăng cường chăm lo
cho đồng bào nghèo vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai; Ba là, đổi mới, sắp xếp
lại các doanh nghiệp, duy trì và củng cố lại các doanh nghiệp nhà nước. Sau khi đã
24


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS Mai Xuân Hợi

tạo ra được mặt bằng lãi suất hợp lý thì chính sách tiền tệ cần tập trung vào giữ ổn
định kinh tế vĩ mô, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt trong điều
hành. Chính sách tài chính (thuế, thu chi ngân sách…) phải nhằm khuyến khích

phát triển sản xuất, tăng đầu tư cho những dự án có hiệu quả để duy trì tăng
trưởng, loại bỏ những dự án chưa thực sự cần thiết, kém hiệu quả. Tiếp tục hỗ trợ
vốn, công nghệ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp làm ăn hiệu quả vì các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới là động lực
chính của phát triển nền kinh tế. Trong số gần 350.000 doanh nghiệp ở Việt Nam,
có tới 95% là doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo ra hơn 50% việc làm cho lao động. Với
lợi thế tạo được nhiều việc làm và thu nhập, phát triển được ở mọi vùng, miền
ngành kinh tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cho nền kinh tế trở nên linh hoạt,
dễ thích ứng với những biến động của nền kinh tế toàn cầu.
Tạo điều kiện tiếp cận nguồn vốn tín dụng cho các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh hàng xuất khẩu, doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm,
thực hiện cơ cấu lại thời hạn vay nợ, giãn nợ vay vốn ngân hàng đối với nông dân
bị thiệt hại do thiên tai và các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm.
Điều chỉnh linh hoạt tỉ giá ngoại tệ theo hướng khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát
nhập khẩu, bảo đảm cán cân thanh toán quốc tế không bị thâm hụt.
Những giải pháp trên đều nhằm đáp ứng các yêu cầu hỗ trợ sản xuất, giữ
vững thị trường nội địa, phát huy lợi thế xuất khẩu, giữ vững và thu hút thêm FDI
mới. Mọi nỗ lực giải pháp để ngăn chặn phải được thực hiện linh hoạt phù hợp.

25


×