Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Chi phí sản xuất kinh doanh và các biện pháp quản lý chi phí sản xuất kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.28 KB, 42 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, quản trị
tài chính là công cụ quan trọng phục vụ cho việc quản lý kinh tế cả về
mặt vi mô và vĩ mô. Muốn có được lợi nhuận trong cơ chế thị trường
đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất phải thường xuyên quan tâm đến chi
phí sản xuất. Do đó công tác quản lý chi phí là công việc trọng tâm và
luôn được xoay quanh trước các quyết định quản trị tài chính.
Việc doanh nghiệp có tồn tại hay không phụ thuộc vào việc
doanh nghiệp có bảo đảm bù đắp được chi phí bỏ ra trong quá trình sản
xuất kinh doanh hay không. Điều dó có nghĩa là doanh nghiệp phải tính
toán hợp lý chi phí sản xuất và thực hiện quá trình sản xuất theo đúng
sự tính toán ấy. Chi phí là chỉ tiêu chất lượng quan trọng phản ánh hiệu
quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất sản phẩm
thấp hay cao, giảm hay tăng phản ánh kết quả của việc quản lý, sử dụng
vật tư lao động tiền vốn. Việc phấn đấu tiết kiệm chi phí sản xuất là
mục tiêu quan trọng không những của mọi doanh nghiệp mà còn là vấn
đề quan tâm của toàn xã hội. Vì vậy, công tác quản lý chi phí sản xuất
là một khâu quan trong đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời chính xác
về kết quả hoạt động sản xuất, đáp ứng nhu cầu trong việc ra quyết
định quản lý, là yếu tố đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp nói riêng, tăng trưởng và phát triển nền kinh tế nói chung.
Qua quá trình thực tập tại Trung tâm lưới điện phân phối cùng với
kiến thức học ở trường, em đã nhận thức được phần nào vai trò quan
trọng của việc quản lý chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Em quyết định
chọn đề tài: "Chi phí sản xuất kinh doanh và các biện pháp quản lý
chi phí sản xuất kinh doanh" được chia thành 3 chương:
Chương 1: Những lý luận chung về chi phí sản xuất kinh
doanh và công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh ở doanh
nghiệp.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm của Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối.



1


Chương III: Một số ý kiến đề xuất về tăng cường quản lý chi
phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm ở Trung tâm thiết bị
lưới điện phân phối.

2


CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH
DOANH VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH
DOANH Ở DOANH NGHIỆP.
1. Chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh
nghiệp
1.1. Khái niệm và bản chất của chi phí sản xuất kinh doanh
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá
trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất
nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên
quá trình sản xuất. Nói cách khác, quá trình sản xuất hàng hoá là quá
trình kết hợp giữa ba yếu tố : tư liệu lao động, đối tượng lao động và
sức lao động. Đồng thời quá trình sản xuất hàng hoá cũng chính là quá
trình tiêu hao của chính bản thân các yếu tố trên. Như vậy để tiến hành
sản xuất hàng hoá, người lao động phải bỏ chi phí về thù lao lao động,
về tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vì thế sự hình thành nên các
chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách
quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất.
Các chi phí mà doanh nghiệp chi ra cấu thành nên giá trị của sản

phẩm, lao vụ dịch vụ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Giá trị
sản phẩm gồm ba bộ phận là : C,V,m.
Trong đó :
- C: Là toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình
tạo ra sản phẩm dịch vụ như : Khấu hao tài sản cố định, chi phí nguyên
vật liệu, công cụ, năng lượng... Bộ phận này được gọi là hao phí vật
chất.
- V: Là chi phí tiền lương, tiền công phải trả cho người lao động
tham gia quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm, dịch vụ, được gọi là hao
phí lao động cần thiết.
- m : Là giá trị mới do lao động sống tạo ra trong quá trình hoạt
động sản xuất ra giá trị sản phẩm, dịch vụ.
3


Do vậy, chi phí sản xuất của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh
nghiệp phải chi ra để tiến hành sản xuất sản phẩm trong một thời gian
nhất định.
Tiếp theo sau quá trình sản xuất, doanh nghiệp phải tổ chức việc
tiêu thụ sản phẩm để thu tiền về. Để thực hiện được việc này, doanh
nghiệp cũng phải bỏ ra những chi phí nhất định chẳng hạn như chi phí
đóng gói sản phẩm, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản sản phẩm...
Hơn nữa, trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh như
hiện nay, ngoài các chi phí tiêu thụ trên, doanh nghiệp còn phải bỏ ra
chi phí để nghiên cứu thị trường, chi phí quảng cáo để giới thiệu sản
phẩm, chi phí bảo hành sản phẩm. Những khoản chi phí này phát sinh
trong lĩnh vực lưu thông sản phẩm nên được gọi là chi phí tiêu thụ hay
chi phí lưu thông sản phẩm.
Ngoài những chi phí nêu trên, doanh nghiệp còn phải thực hiện

được nghĩa vụ của mình với Nhà nước như nộp thuế giá trị gia tăng,
thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế khai thác tài nguyên...
Những khoản chi phí này đều diễn ra trong quá trình kinh doanh vì thế
đó cũng là khoản chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
Tóm lại, chi phí sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là
toàn bộ chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm và các khoản tiền
thuế mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện hoạt động sản xuất
kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.
1.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh
Để quản lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi
phí, tính toán được kết quả tiết kiệm chi phí ở từng bộ phận sản xuất
của toàn doanh nghiệp, doanh nghiệp cần phải tiến hành phân loại chi
phí sản xuất kinh doanh. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh có nhiều
cách phân loại sau:
* Phân loại chi phí theo yếu tố chi phí :
Cách phân loại này để phục vụ cho việc tập hợp quản lý các chi
phí theo nội dung kinh tế ban đầu đồng nhất của nó mà không xét đến
địa điểm phát sinh và chi phí được dùng cho mục đích gì trong sản
4


xuất. Cách phân loại này giúp cho việc xây dựng và phân tích định mức
vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán chi phí.
Theo quy định hiện hành ở Việt Nam toàn bộ chi phí sản xuất
kinh doanh phát sinh lần đầu trong doanh nghiệp được chia thành các
yếu tố như:
+ Yếu tố nguyên liệu, vật liệu bao gồm toàn bộ giá trị tài nguyên
vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ
sử dụng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ (loại trừ giá trị dùng không
hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi cùng với nhiên liệu động lực).

+ Yếu tố nhiên liệu, động lực mua ngoài sử dụng vào quá trình
sản xuất kinh doanh trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và
phế liệu thu hồi).
+ Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương : Phản ánh tổng
số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương chủ doanh nghiệp phải
trả cho cán bộ công nhân viên chức.
+ Yếu tố bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn trích
theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương chủ doanh
nghiệp phải trả cho công nhân viên chức.
+ Yếu tố khấu hao tài sản cố định : Phản ánh tổng số khấu hao tài
sản cố định phải trích trong kỳ của tất cả tài sản cố định sử dụng cho
sản xuất kinh doanh trong kỳ.
+ Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài.
+ Yếu tố chi phí khác bằng tiền : Phản ánh toàn bộ các chi phí
khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào quá trình
sản xuất kinh doanh trong kỳ.
* Phân loại chi phí theo khoản mục giá thành
Theo quy định hiện hành, giá thành công xưởng sản phẩm bao
gồm ba khoản mục chi phí sau:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : gồm các chi phí về nguyên
liệu, vật liệu, nhiên liệu và động lực trực tiếp dùng vào sản xuất kinh
doanh.

5


+ Chi phí nhân công trực tiếp : gồm các khoản chi phí trả cho
người lao động trực tiếp sản xuất (chi phí tiền lương,tiền công) và các
khoản trích nộp của công nhân trực tiếp sản xuất mà doanh nghiệp phải
có trách nhiệm chi trả cho họ.

+ Chi phí sản xuất chung: là các chi phí sử dụng chung cho hoạt
động sản xuất chế biến của phân xưởng, bộ phận kinh doanh của doanh
nghiệp trực tiếp tạo ra sản phẩm. Chi phí sản xuất chung bao gồm chi
phí tiền lương, phụ cấp trả cho nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu,
dụng cụ dùng cho phân xưởng, khấu hao tài sản cố định thuộc phân
xưởng (bộ phận sản xuất), chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng
tiền phát sinh ở phân xưởng.
Ngoài ra, khi tính chỉ tiêu giá thành sản phẩm tiêu thụ thì chỉ tiêu
giá thành còn bao gồm khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp và chi
phí bán hàng.
* Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ giữa chi phí sản
xuất với khối lượng sản xuất sản phẩm.
Căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với khối lượng sản
phẩm, công việc lao vụ sản xuất trong kỳ, chi phí sản xuất được chia
làm hai loại:
+ Chi phí cố định (hay chi phí bất biến) là những chi phí không bị
biến động trực tiếp theo sự thay đổi của khối lượng sản xuất sản phẩm.
Chi phí này gồm có khấu hao tài sản cố định, chi phí bảo dưỡng máy
móc thiết bị, tiền thuê đất, chi phí quản lý doanh nghiệp... Tuy nhiên
trong kỳ có thể thay đổi về khối lượng sản phẩm thì các khoản chi phí
cố định này chỉ mang tính chất tương đối có thể khống đổi hoặc biến
đổi ngược chiều. Nếu như trong kỳ có sự thay đổi về khối lượng sản
phẩm thì các khoản chi phí cố định này tính trên một đơn vị sản phẩm
sẽ biến động tương quan tỷ lệ nghịch với sự biến động của sản lượng.
+ Chi phí biến đổi (hay còn gọi là chi phí khả biến): là những chi
phí bị biến động một cách trực tiếp theo sự thay đổi của khối lượng sản
xuất sản phẩm các chi phí này cũng tăng theo tỷ lệ tương ứng. Thuộc
về chi phí khả biến bao gồm chi phí vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp.
6



Việc phân loại chi phí theo tiêu thức trên có ý nghĩa lớn trong
công tác quản lý doanh nghiệp. Nó giúp nhà quản lý tìm ra các biện
pháp quản lý thích ứng với từng loại chi phí để hạ thấp giá thành sản
phẩm. Nó cũng giúp cho việc phân điểm hoà vốn để xác định được
khối lượng sản xuất nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao.
1.3. Giá thành sản phẩm
1.3. Khái niệm
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí vật chất
và hao phí sức lao động của doanh nghiệp để hoàn thành việc sản xuất
và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định
1.3.2. Nội dung
* Giá thành sản xuất của sản phẩm và dịch vụ gồm:
- Chi phí vật tư trực tiếp : Bao gồm chi phí nguyên liệu, nhiên liệu
sử dụng trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ.
- Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí lương, tiền công,
các khoản trích nộp của công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm và dịch vụ
mà doanh nghiệp phải nộp theo quy định như bảo hiểm xã hội, kinh phí
công đoàn, bảo hiểm y tế của công nhân sản xuất.
- Chi phí sản xuất chung : Là các chi phí sử dụng cho hoạt động
sản xuất, chế biến của phân xưởng trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá,
dịch vụ. Bao gồm : Chi phí vật liệu, công cụ lao động nhỏ, khấu hao tài
sản cố định phân xưởng, tiền lương các khoản trích nộp theo quy định
của nhân viên phân xưởng, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác
bằng tiền phát sinh ở phạm vi phân xưởng.
Giá thành sản xuất sản phẩm = Chi phí vật tư trực tiếp + Chi phí
nhân công trực tiếp + Chi phí sản xuất chung.
* Giá thành tiêu thụ của sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ bao gồm:
- Giá thành sản xuất của sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ

- Chi phí bán hàng : Là toàn bộ các chi phí liên quan tới việc tiêu
thụ sản phẩm, dịch vụ, bao gồm các chi phí bảo hành sản phẩm.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp : Bao gồm các chi phí cho bộ máy
quản lý và điều hành doanh nghiệp, các chi phí có liên quan đến hoạt
7


động kinh doanh của doanh nghiệp như : Chi phí công cụ lao động nhỏ,
khấu hao tài sản cố định phục vụ cho bộ máy quản lý và điều hành
doanh nghiệp, tiền lương và các khoản trích nộp theo quy định của bộ
máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, chi phí mua ngoài, chi phí
khác bằng tiền phát sinh ở doanh nghiệp như chi phí về tiếp khách, giao
dịch, chi các khoản trợ cấp thôi việc cho người lao động.
Giá thành tiêu thụ = giá thành sản xuất + chi phí bán hàng + chi
phí quản lý doanh nghiệp.
1.3.3. Phân loại giá thành sản phẩm
Để giúp cho việc nghiên cứu và quản lý tốt giá thành sản phẩm
cũng như xây dựng giá cả hàng hoá cần phải phân biệt các loại giá
thành khác nhau. Có hai cách phân loại chủ yếu là :
* Phân loại giá thành theo cơ sở số liệu và thời điểm tính giá
thành:
- Giá thành kế hoạch : Giá thành kế hoạch là giá thành sản phẩm
được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch.
- Giá thành định mức : Giá thành định mức là giá thành được tính
trên cơ sở định mức chi phí sản xuất và sản lượng sản phẩm hàng năm.
- Giá thành thực tế : Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở
số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kỳ
cũng như sản lượng đã sản xuất thực tế trong kỳ.
* Phân loại giá thành theo phạm vi các chi phí cấu thành:
- Giá thành sản xuất: Giá thành sản xuất là biểu hiện bằng tiền các

hao phí vật chất và hao phí lao động sống mà doanh nghiệp chi ra để
hoàn thành việc sản xuất sản phẩm nhất định.
Giá thành sản xuất sản phẩm bao gồm : các chi phí sản xuất, chế
tạo sản phẩm (chi phí nguyên liệu vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp, chi phí sản xuất chung) tính cho sản phẩm, công việc hay lao
vụ đã hoàn thành.
- Giá thành tiêu thụ của sản phẩm tiêu thụ: Là biểu hiện bằng tiền
các hao phí vật chất và hao phí lao động sống mà doanh nghiệp chi ra
để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, lao vụ nhất định.
8


Giá thành sản phẩm tiêu thụ bao gồm : Bao gồm giá thành sản
xuất và chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản
phẩm tiêu thụ. Giá thành toàn bộ dùng để xác định kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
1.3.4. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản
phẩm.
Mỗi doanh nghiệp khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình, thì doanh nghiệp đó phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định để
tiến hành sản xuất ra sản phẩm. Từ đó ta thấy chi phí sản xuất kinh
doanh và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với nhau, giá
thành sản phẩm cao hay thấp phụ thuộc vào chi phí cao hay thấp.
Chi phí sản xuất và giá thành đều giống nhau về chất : đều biểu
hiện bằng tiền các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá nhưng
trong phạm vi và nội dung của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
cũng có những điểm khác nhau.
Chi phí sản xuất là tính toàn bộ những chi phí sản xuất phát sinh
trong một kỳ nhất định (tháng, quý, năm). Giá thành sản phẩm thì giới
hạn số chi phí sản xuất có liên quan đến một khối lượng sản phẩm, dịch

vụ hoàn thành.

II. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh
doanh và giá thành sản phẩm và các biện pháp phấn đâú giảm chi
phí hạ giá thành sản phẩm
2.1. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh
doanh và giá thành sản phẩm
2.1.1 Những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ
Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ việc áp dụng
nhanh chóng những thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất là
nhân tố cực kỳ quan trọng cho phép các doanh nghiệp giảm được chi
phí hạ thấp giá thành sản phẩm và thành công trong kinh doanh.

9


Máy móc hiện đại dần dần thay thế sức người trong những công
việc lao động nặng nhọc cũng như đòi hỏi sự tinh vi, chính xác và từ đó
làm thay đổi điều kiện của quá trình sản xuất. Với trình độ chuyên môn
hoá, tự động hoá cao, với sự ra đời của các công nghệ mới, không chỉ
có chi phí về tiền lương được hạ thấp mà còn hạ thấp cả mức tiêu hao
nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm. Nhiều loại vật liệu mới ra đời
với tính năng tác dụng hơn, chi phí thấp hơn cũng làm cho chi phí
nguyên vật liệu được hạ thấp.
2.1.2. Tổ chức sản xuất và sử dụng con người
Đây là một nhân tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động
giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, nhất là đối
với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong sản xuất. Việc tổ chức
lao động khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất một cách
hợp lý, loại trừ được tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy, có

tác dụng rất lớn thúc đẩy nâng cao năng suất lao động giảm chi phí và
hạ giá thành sản phẩm - dịch vụ.
2.1.3. Nhân tố tổ chức quản lý tài chính doanh nghiệp
Nhân tố này tác động mạnh mẽ tới chi phí sản xuất kinh doanh và
hạ giá thành sản phẩm. Bởi lẽ chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện
bằng tiền của toàn bộ lao động sống và lao động vật hoá qua đó ta thấy
để sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn tiền tệ
nhất định, qua quá trình sản xuất lượng vốn tiền tệ này sẽ bị tiêu hao
nên việc quản lý và sử dụng chúng tốt là một trong những hoạt động tài
chính chủ yếu của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính có tác động lớn
tới việc hạ thấp chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm từ
đó làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
2.2. Các phương hướng biện pháp giảm chi phí hạ giá thành
Phấn đấu giảm phí và hạ giá thành là biện pháp chủ yếu để tăng
lợi nhuận của doanh nghiệp. Muốn giảm chi phí và hạ giá thành thì
phải thực hiện đồng bộ nhiều phương hướng, biện pháp sau:
2.2.1 Giảm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng trong
giá thành sản phẩm
10


Trong giá thành sản phẩm, để tiết kiệm nguyên liệu, vật liệu, năng
lượng cần phải cải tiến kết cấu của sản phẩm, cải tiến phương pháp
công nghệ, sử dụng tổng hợp nguyên liệu, lợi dụng triệt để phế liệu, sử
dụng vật liệu thay thế, giảm tỷ lệ phế phẩm, bảo quản, vận chuyển.
Tiết kiệm nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng sẽ làm cho chi
phí nguyên vật liệu... trong giá thành giảm và sẽ làm cho giá thành
giảm nhiều vì trong kết cấu giá thành tỷ trọng nguyên vật liệu chiếm bộ
phận lớn nhất, có doanh nghiệp chiếm từ 60-80%.
2.2.2. Giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản

phẩm
Muốn giảm chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm cần tăng
nhanh năng suất lao động, bảo đảm cho năng suất lao động tăng nhanh
hơn tiền lương bình quân và tiền công. Như vậy cần : cải tiến tổ chức
sản xuất, cải tiến tổ chức lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
công nghệ, nâng cao trình độ cơ giới hoá tự động hoá, hoàn thiện định
mức lao động, tăng cường kỹ thuật lao động, áp dụng các hình thức tiền
lương, tiền thưởng và trách nhiệm vật chất để kích thích lao động, đào
tạo nâng cao trình độ kỹ thuật công nhân.
Tốc độ tăng năng suất lao động nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương
bình quân và tiền công sẽ cho phép giảm chi phí tiền lương trong giá
thành sản phẩm do đó khoản mục tiền lương trong giá thành sản phẩm
sẽ giảm theo tỷ lệ với tỷ trọng tiền lương trong giá thành.
2.2.3. Giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm
Muốn giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm cần phấn
đấu tăng nhanh, tăng nhiều sản phẩm hàng hoá sản xuất ra.
Tốc độ tăng và quy mô tăng sản phẩm hàng hoá sẽ làm cho chi
phí cố định trong giá thành sản phẩm giảm vì tốc độ tăng chi phí cố
định chậm hơn tốc độ tăng quy mô và sản lượng. Nói cách khác là tốc
độ tăng chi phí cố định không lệ thuộc với tốc độ và quy mô tăng của
sản lượng. Để tăng sản lượng hàng hoá cần phải sản xuất nhiều. Muốn
sản xuất nhiều thì phải sản xuất nhanh trên cơ sở tăng năng suất lao
động, phải mở rộng quy mô sản xuất, tinh giảm bộ máy quản lý doanh
nghiệp, giảm các hao hụt mất mát do ngừng sản xuất gây ra.
11


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI TRUNG TÂM THIẾT BỊ LƯỚI

ĐIỆN PHÂN PHỐI
CÔNG TY SẢN XUẤT THIẾT BỊ ĐIỆN
I. Khái quát chung về tình hình sản xuất kinh doanh của Trung
tâm.
1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm thiết bị
lưới điện phân phối.
Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối được thành lập ngày 30
tháng 4 năm 1988 tại Hà Nội theo quyết định số 553/NL - TCCBLĐ
của Bộ thương Mại và Quyết dịnh thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước
số 1170/NL-TCCBLĐ ngày 24.6.1993 theo nghị định 388/CP của
Chính phủ. Trung tâm hoạt động dưới sự quản lý toàn diện của Công ty
sản xuất thiết bị điện và chịu sự quản lý của Nhà nước về hoạt động
kinh danh xuất nhập khẩu của Bộ thương mại,
Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối đặt trụ sở tại :
Số 14 Phố Bích Câu - Phường Quốc Tử Giám - Quận Đống Đa HN.
Tên giao dịch: VINAELECTRO.
Điện thoại : 7.320.946
Quá trình hình thành phát triển của trung tâm có thể phân
chia làm hai giai đoạn như sau:
- Giai đoạn I : Từ khi thành lập ( 1988 ) đến năm 1991.
- Giai đoạn II : từ 1991 đến nay.
12


Xuất phát từ những đặc điểm kinh tế xã hội trong nước và trên thế
giới cũng như sự thay đổi về cơ chế quản lý kinh tế nên trong những
giai đoạn phát triển của trung tâm cũng có những đặc điểm khác nhau.
1.2. Chức năng nhiệm vụ của Trung tâm
Chức năng và nhiệm vụ của Trung tâm được quy định cụ thể
trong điều lệ về tổ chức và hoạt động của Trung tâm được thể hiện ở

như sau:
- Tiếp nhận vật tư hàng hoá, thiết bị kỹ thuật điện thuộc chương
trình lưới điện 35KV trên toàn quốc theo hiệp định ngày 19/5/1987
giữa Việt Nam và Liên Xô cũ.
- Năm 1991 Trung tâm được Bộ Năng lượng giao nhiệm vụ dịch
vụ uỷ thác nhập khẩu, cung ứng vật tư, nguyên liệu thiết bị điện và tiêu
thụ sản phẩm cho các đơn vị trong Công ty.
Phạm vi hoạt động
- Xuất nhập khẩu:
+ Vật liệu và thiết bị phục vụ phát triển lưới điện, phân phối và
truyền tải điện từ khâu gia công, chế tạo, lắp đặt và sửa chữa.
+ Các dịch vụ, kỹ thuật ngành sửa chữa và chế tạo thiết bị điện kể
cả nguồn lưới - thiết bị dùng điện.
+ Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực vật liệu, thiết bị kỹ thuật điện,
xây dựng và tham gia các hình thức hợp tác để phát triển các công trình
điện tại Việt Nam.
+ Có quan hệ hợp tác với trên 100 doanh nghiệp, Công ty, tổ chức
trong và ngoài nước để thực thi các dự án phát triển điện lực Việt Nam.
- Cung ứng vật tư - điện lực:
+ Thực hiện các dịch vụ lưu thông vận tải các loại hàng đặc
chủng của ngành điện theo yêu cầu của khách hàng.
+ Quản lý và cung ứng vật tư - thiết bị điện thuộc chương trình
phát triển lưới điện 35KV và các chương trình phát triển lưới điện nông
thôn bằng nguồn vốn vay nước ngoài.
1.3. Tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức công tác kế toán ở
Trung tâm
13


1.3.1. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý

Bộ máy quản lý của Trung tâm được tổ chức theo cơ cấu quản lý
trực tuyến chức năng và được thể hiện qua sơ đồ sau :

14


SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA TRUNG TÂM
Giám đốc

Phòng
Tổchứ
c hành
chính

Phòng
Tài
chính
kế toán

Phòng
Kế
hoạch
vật tư

Phòng
Dự án
đấu
thầu

Phòng

Kinh
doanh-

Cửa
hàng
GTSP

Tiếp thị

1.3.2. Tổ chức công tác kế toán
* Trưởng phòng:
Phụ trách chung, chịu sự điều hành, chịu trách nhiệm trực tiếp
trước giám đốc và pháp luật. Điều hành tổ chức hoạt động tài chính của
Trung tâm.
* Kế toán bán hàng :
Theo dõi hàng hoá nhập xuất tồn, theo dõi thẻ kho chi tiết cho
từng loại hàng hoá. Viết hoá đơn bán hàng theo lệnh xuất kho, theo dõi
cho đến khi khách hàng nhận đầy đủ hàng hoá, theo dõi đôn đốc thu nợ
(nếu có) chi tiết cho từng khách hàng.
* Kế toán thanh toán
Theo dõi tiền gửi ngân hàng, ngoại tệ : căn cứ chứng từ, hạch
toán vào sổ, lưu giữ chứng từ theo trình tự thời gian, cân đối dự báo
tình hình về ngoại tệ để báo cáo lãnh đạo. Theo dõi thanh toán các hợp
đồng mua bán.
* Kế toán quỹ, tiền lương và BHXH
Kiểm soát chứng từ thu chi vào sổ quỹ, kiểm quỹ hàng ngày.
Cuối tháng, quý, năm lập báo cáo quỹ, tiền lương và BHXH.
15



* Kế toán TSCĐ
Hàng tháng tính khấu hao TSCĐ chi tiết cho từng loại tài sản,
theo dõi tăng, giảm, theo dõi thẻ kho chi tiết cho từng loại tài sản, vào
bảng kê TSCCĐ.
* Nhân viên kinh tế của cửa hàng GTSP: Có nhiệm vụ thu nhập
chứng từ định kỳ chuyển về phòng TC - KT kiểm tra và ghi sổ kế toán.
Có trách nhiệm báo cáo giải trình đầy đủ và trung thực số liệu về phòng
để tổng hợp, lập báo cáo.
* Kế toán tổng hợp, Thuế :
Cuối quý năm căn cứ vào các báo cáo chi tiết của các bộ phận,
kiểm soát và lập báo cáo tài chính. Tập hợp các nhật ký chứng từ, bảng
kê, lên sổ cái, gửi báo cáo tài chính (theo pháp lệnh kế toán) định kỳ
lên các cơ quan chức năng
1.4. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Trung tâm
* Về thị trường :
Nếu như trong giai đoạn I, thị trường của Trung tâm chủ yếu là
Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa do đặc điểm kinh tế đối ngoại
nước ta lúc bấy giờ và thị trường bán của Trung tâm chỉ duy nhất là các
đơn vị trong ngành điện Việt Nam thì trong giai đoạn phát triển thứ hai
của Trung tâm có sự thay đổi và mở rộng cả thị trường mua lẫn thị
trường bán. Về thị trường nhập khẩu, hiện nay Trung tâm đã có quan
hệ giao dịch với nhiều bạn hàng nước ngoài ở hầu hết các khu vực trên
thế giới như : Trung Quốc, Đài Loan, Anh, Đức.
Về thị trường bán cũng có những thay đổi đó là việc Trung tâm
mở rộng việc buôn bán kinh doanh với các đơn vị ngoài Công ty sản
xuất thiết bị điện. Bên cạnh những việc xác định thị trường Trung tâm
là các đơn vị thuộc Công ty sản xuất thiết bị điện, Trung tâm còn mở
rộng thị trường bằng việc cung cấp các vật tư thiết bị lưới điện cho các
doanh nghiệp trong cả nước.
* Về vốn kinh doanh :

Hiện nay tỷ trọng vốn lưu động trên tổng số vốn là chủ yếu,
chiếm tỷ trọng 70%. Năm 2001, tổng số vốn kinh doanh của Trung tâm
16


đạt 5.065.000.000 đồng trong đó vốn lưu động chiếm 70.68% hàng
năm. Vốn kinh doanh của Trung tâm thường xuyên được bổ sung từ hai
nguồn vốn chính là vốn tự bổ sung và ngân sách nhà nước, đạt tốc độ
tăng trưởng vốn bình quân hàng năm khá cao. Điều nay thể hiện qua
bảng số liệu sau :

17


Bảng 2 : CƠ CẤU NGUỒN VỐN KINH DOANH CỦA TRUNG
TÂM
Vốn cố định BQ

Vốn lưu động
BQ

Tổng vốn KDBQ

T
T

Năm

1


1999

702.000

17,76 3.250.00
0

82,24 3.952.000

100

2

2000

881.000

20,75 3.364.00
0

79,25 4.245.000

100

3

2001

1.485.00
0


29,32 3.580.00
0

70,68 5.065.000

100

Lượng
vốn
(1000đ)

Tỷ
trọng
(%)

Lượng
vốn
(1000đ)

Tỷ
trọng
(%)

Lượng
vốn
(1000đ)

Tỷ
trọng

(%)

Nhìn vào Bảng 2, ta thấy quy mô hoạt động sản xuất của Trung
tâm ngày càng mở rộng và đạt được hiệu quả. Vốn cố định năm 2001
tăng đáng kể so với năm 2000 = 68,58 % ( tức là 604.000 ngàn đồng)
phần tăng này một phần do Trung tâm được ngân sách nhà nước cấp và
một phần do Trung tâm vay của ngân hàng. Cũng trong năm 2000
Trung tâm bắt đầu đưa trụ sở mới và sử dụng bước đầu đem lại hiệu
quả cho Trung tâm thể hiện tổng vốn kinh doanh của Trung tâm năm
2001 tăng 19% so với năm 2000. Đây có lẽ là bước thuận lợi cho Trung
tâm hoạt động sản xuất kinh doanh tốt hơn trong các năm tới.
* Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh :
Mặc dầu đứng trước những khó khăn do những cuộc khủng hoảng
tài chính khu vực, trên thế giới mà nền kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh
hưởng, tỷ giá USA tăng cao khiến việc nhập khẩu một số ngành gặp
nhiều khó khăn. Có thể nói nguồn đem lại doanh thu lớn hàng năm cho
Trung tâm chính là việc xuất nhập khẩu mặt hàng của Trung tâm ra các
đối tác nước ngoài mà chủ yếu là các nước Tây Âu và Đông Âu, trong
khi giá thành nhập khẩu vật tư, thiết bị phục vụ cho công nghiệp trao
đổi bằng ngoại tệ không thay đổi thì giá tiêu thụ tại thị trường lại tăng
18


lên, các khách hàng trong nước khó có khả năng chấp nhận sự thay đổi
nay. Mặc dù vậy, bằng sự cố gắng vươn lên, Trung tâm không những
duy trì được hoạt động của mình mà còn phát huy hiệu quả tích cực thể
hiện ở bảng sau đây:

19



Bảng 3 : KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SXKD CỦA TRUNG TÂM
TỪ 1999 - 2001
Chỉ tiêu

Năm 1999
TH

TH/K
H
%

NĂM 2000
TH

2000/1999
%

Năm 2001
2001/2000
TH
%

Tổng
D.Thu
(tỷ đ )

25

139


30

120

32

107

Kim
nghạch
XNK (Tr
USD)

6,1

130

9,1

149

9,2

101

Thu nộp
NSNN (tỷ
đ)


5,2

137

11

211

6,5

59

Lợi nhuận
(tr.đ)

300

128

504

168

704

140

122 1.116.125

103


Thu nhập 886.463
bquân
( đ/ng )

110 1.081.6
61

II. Thực trạng công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh
và giá thành sản phẩm của Trung tâm một số năm qua
2.1. Những thuận lợi và khó khăn của Trung tâm trong công
tác quản lý chi phí
Trong công tác quản lý chi phí, cùng với việc tập hợp chi phí theo
yếu tố đúng theo quy định chế độ của nhà nước ban hành, Trung tâm
luôn luôn tập trung nghiên cứu, tìm tòi để đưa ra các giải pháp cụ thể
nhằm giảm thiểu tối đa chi phí trong hoạt động kinh doanh, hạ giá
20


thành sản phẩm. Qua đó giá bán sản phẩm của từng mặt hàng đã hạ
mặc dù một số chi phí trong từng mặt hàng vẫn có xu thế tăng lên.
Bên cạnh những ưu điểm mà Trung tâm đã đạt được trong công
tác quản lý chi phí, Trung tâm vẫn còn những nhược điểm cần được
khắc phục.
Công tác lập kế hoạch chi phí hoạt động kinh doanh còn sơ sài
chưa được coi trọng trong công tác quản lý chi phí, chưa được vận
dụng tốt trong công tác quản lý chi phí hoạt động kinh doanh và hạ giá
bán sản phẩm.
Hàng hoá của Trung tâm chủ yếu là nhập khẩu theo những hợp
đồng đã ký kết sẵn, nên Trung tâm chưa thực sự chủ động trong việc

xác định chi phí cũng như giá bán của sản phẩm đó.
Đối với việc sử dụng các yếu tố của quá trình hoạt động kinh
doanh thì việc áp dụng các hình thức thưởng phạt chưa được tốt nên
chưa taọ được sự thi đua cạnh tranh nhau trong Trung tâm.
Chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác còn cao chưa
tương ứng với kết quả đem lại.
Đánh giá hiệu quả kinh doanh bằng mối quan hệ giữa doanh thu
đạt được và chi phí bỏ ra trong quá trình hoạt động kinh doanh
Doanh
Hiệu quả kinh thu
doanh =
Chi phí
29.89
Hiệu quả kinh doanh năm 3
=1,10
2000 =
27.21
5
31.90
Hiệu quả kinh doanh năm 3
=1,07
2001 =
29.90
1
21


Từ kết quả tính toán trên ta thấy hiệu quả kinh doanh năm 2000 là
1,10 tức là một đồng chi phí bỏ ra năm 2000 tạo ra doanh thu lớn hơn
một đồng chi phí bỏ ra năm 2001 là 1,10 - 1,07 = 0,03 đồng. Từ đó ta

thấy đây cũng là một trong những nhược điểm mà Trung tâm cần khắc
phục.
2.2. Khái quát về chi phí sản xuất kinh doanh của Trung tâm
Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối tập hợp chi phí hoạt động
sản xuất kinh doanh theo yếu tố chi phí và được chia ra năm loại:
- Yếu tố chi phí nguyên vật liệu
- Yếu tố chi phí nhân công
- Yếu tố chi phí khấu hao tài sản cố định
- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài
- Yếu tố chi phí bằng tiền khác.
Để đánh giá khái quát về thực trạng quản lý chi phí hoạt động
kinh doanh của Trung tâm ta đi phân tích đánh giá công tác quản lý chi
phí hoạt động kinh doanh của Trung tâm trong hai năm qua ở bảng
sau :
Bảng 4 : Tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố của Trung
tâm thiết
bị lưới điện phân phối trong một số năm qua
Đơn vị :
1.000 đ
Yếu tố chi phí

Năm 2000
Số tiền

1. Chi
NLVL

Năm 2001

TT


Số tiền

phí 26.903.155 94,08

TT

Số tiền

TT

28.327.538 92,8 1.424.383 5,29

2. Chi phí NC

442.292

1,16

3. Chi
KHTSCĐ

phí

131.423

0,5

81.213


4. Chi
DVMN

phí

526.451

1,84

5. Chi phí bằng
tiền

593.440

2,1
22

Chênh lệch

774.000 2,53

331.708

75

0,3

50.210

38,2


659.221

2,2

132.770

25

700.909

2,3

107.469

18


Tổng chi phí

28.596.761

100

30.542.881

100 1.946.120 6,8

* Chi phí nguyên liệu, vật liệu:
Chi phí nguyên liệu vật liệu là khoản chi phí cấu thành nên thực

thể của sản phẩm. Nhìn vào kết quả tính toán ở bảng trên ta thấy chi phí
nguyên liệu vật liệu của Trung tâm chiếm tỷ trọng lón nhất trong tổng
chi phí từ 92,7% - 94%.
Năm 2001 chi phí nguyên liệu vật liệu đã tăng lên so với năm
2000 với mức tăng 1.424.388 ngàn đồng tương ứng với tỷ lệ tăng
5,29% và chiếm tới 73% trong mức tăng của tổng chi phí.
Trên góc độ là một nhà quản lý chi phí, thì chi phí nguyên liệu vật
liệu là trọng tâm trong công tác quản lý chi phí của Trung tâm. Việc tiết
kiệm khoản chi phí này là nhân tố quyết định việc phấn đấu hạ giá
thành của sản phẩm.
Nguyên liệu vật liệu ở Trung tâm chính là giá vốn hàng hoá mà
Trung tâm nhập khẩu về bao gồm các loại chi phí như : giá mua hàng
hoá, thuế nhập khẩu phải nộp, chi phí vận chuyển, chi phí quản lý, bao
bì,...
Công tác quản lý chi phí nguyên liệu : đối với tất cả các loại
nguyên liệu vật liệu Trung tâm nhập khẩu về đều tiến hành nhập kho,
khi có khách hàng mua mới xuất kho giá thực tế nguyên liệu vật liệu
xuất kho được tính theo đơn giá nguyên liệu vật liệu xuất kho theo giá
bình quân nguyên liệu vật liệu xuất kho
* Chi phí nhân công :
Ở Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối : chi phí nhân công bao
gồm toàn bộ tiền lương và các khoản phụ cấp bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, kinh phí công đoàn của nhân viên quản lý. Tiền lương thực
tế phải trả cho nhân viên quản lý được căn cứ vào hệ số lương cơ bản
của từng cán bộ công nhân viên.

23


Các khoản trích theo lương bao gồm : bảo hiểm xã hội, bảo hiểm

y tế, kinh phí công đoàn được tính vào chi phí hoạt động kinh doanh
theo đúng chế độ quy định hiện hành của nhà nước.
- Bảo hiểm xã hội : 15% tính vào tiền lương cơ bản.
- Bảo hiểm y tế : 2% tính vào tiền lương cơ bản.
- Kinh phí công đoàn : 2% tính theo tiền lương thực tế.
Chi phí nhân công của Trung tâm chiếm một tỷ trọng khá lớn
trong tổng chi phí từ 1,6% đến 2,53%.
Năm 2001 chi phí nhân công của Trung tâm đã tăng lên so với
năm 2000 là 331.708 ngàn đồng với tỷ lệ tăng tương ứng là 75%. Điều
này cho thấy trong năm 2001 đời sống cán bộ công nhân viên của
Trung tâm đã được cải thiện đáng kể thông qua tổng quỹ lương tăng
lên. Trong khi đó tốc độ tăng doanh thu thuần năm 2001 chỉ đạt 7,5%,
mà tổng quỹ lương của Trung tâm năm 2001 lại tăng lên 75%. Điều
này cho thấy việc tăng quỹ lương của Trung tâm là quá cao so với
doanh thu thuần đạt được, chưa phản ánh đúng thực chất hiệu quả kinh
doanh mang lại. Nhưng điều này cũng dễ lý giải bởi vì Trung tâm ngoài
hoạt động kinh doanh thì còn thực hiện cung cấp hàng cho chương
trình 35KV của Tổng công ty điện lực Việt Nam, nên sẽ được trả tiền
lương, điều này có thể lý giải tại sao doanh thu thuần chỉ tăng có 7,5%,
mà trong khi đó tổng quỹ lương lại tăng lên 75%.

* Chi phí khấu hao :
Theo kết quả tính toán ở bảng trên ta thấy chi phí khấu hao chiếm
một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng chi phí, đây cũng là đặc điểm cơ bản
của loại hình doanh nghiệp thương mại - dịch vụ.
Năm 2001 chi phí khấu hao là 81.213 ngàn đồng giảm 50.210
ngàn đồng so với năm 2000 - tương ứng với tỷ lệ giảm 38,2%.
Qua tìm hiểu thực tế năm 2001, Trung tâm đã thanh lý một số tài
sản hết thời hạn khấu hao và đánh giá lại tài sản cố định để việc tính


24


khấu hao được chính xác hơn. Nên đã làm chi phí khấu hao tài sản cố
định của Trung tâm trong năm 2001 giảm đi so với năm 2000.
* Chi phí dịch vụ mua ngoài :
Chi phí dịch vụ mua ngoài là khoản chi phí hết sức cần thiết phục
vụ cho quá trình hoạt động kinh doanh của Trung tâm bao gồm (điện,
điện thoại và các dịch vụ khác....). Qua bảng so sánh cho thấy chi phí
dịch vụ mua ngoài của Trung tâm không ngừng tăng lên với mức tăng
132.770 ngàn đồng đạt tỷ lệ tăng 25%, cũng theo số liệu chi tiết của chi
phí và số liệu của doanh thu cho thấy thì tốc độ tăng của doanh thu qua
so sánh của hai năm 2000 và 2001 tương ứng (tốc độ tăng doanh thu
chỉ đạt 6,7% trong khi tốc độ tăng chi phí dịch vụ mua ngoài tăng với
25%, tăng hơn ba lần tốc độ tăng doanh thu). Qua tìm hiểu số liệu thực
tế cho thấy chi phí dịch vụ mua ngoài tăng lên chủ yếu tăng ở hai
khoản : chi phí giao nhận giám định hàng hoá và chi phí thử nghiệm
sản phẩm công tơ điện tử, khoản chi phí này tuỳ theo từng thời điểm
cũng như theo từng mặt hàng mà thời điểm đó Trung tâm nhập khẩu,
nếu như nhập khẩu chủng loại máy móc nhiều thì các khoản chi phí về
giám định, thử nghiệm sản phẩm sẽ tăng lên.
* Chi phí bằng tiền khác :
Chi phí bằng tiền không phải là khoản chi phí trực tiếp tạo ra sản
phẩm hàng hoá như : chi phí tiếp khách, quảng cáo, các loại thuế, công
tác phí, văn phòng phí... Tuy nhiên nó cũng là một trong những khoản
chi phí tương đối lớn mà doanh nghiệp phải chi ra trong quá trình hoạt
động kinh doanh của mình qua bảng 4 cho thấy chi phí bằng tiền năm
2001 tăng 107.469 ngàn đồng đạt tỷ lệ tăng 18%, đem so sánh tỷ lệ
tăng doanh thu chỉ đạt 6,7%. Cho thấy tốc độ tăng chi phí bằng tiền lớn
hơn hai lần so với mức tăng của doanh thu nguyên nhân làm tăng chi

phí bằng tiền là tăng khoản tiền tiếp khách năm 2001 tăng 75.713 ngàn
đồng với tỷ lệ tăng 48,6% chiếm tỷ trọng 22,2% tổng chi phí bằng tiền.
Vậy cũng như khoản chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí
khác, công tác quản lý chi phí bằng tiền còn yếu kém, chưa tiết kiệm
gây lãng phí làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của
Trung tâm.
25


×