Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

NHỮNG đặc điểm của điều KIỆN của môi TRƯỜNG tự NHIÊN VIỆT NAM tác ĐỘNG đến sự HÌNH THÀNH văn hóa VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (900.36 KB, 12 trang )

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA DU LỊCH

CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐIỀU KIỆN CỦA MÔI TRƯỜNG TỰ
NHIÊN VIỆT NAM TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VĂN HÓA VIỆT
Nhóm thực hiện:
Sinh viên: Nguyễn Thị Thúy Hằng
Trịnh Thị Cúc
Nguyễn Thị Hương
Hoàng Thị Phương Lan
Đơn vị lớp: Du lịch 4
Giảng viên:

Hà Nội, 5/2016

1


PHẦN I: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐIỀU KIỆN CỦA MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VIỆT
NAM TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VĂN HÓA VIỆT
A. Đặt vấn đề:
Có thể nói tự nhiên có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống của con người. Tự nhiên
không chỉ là môi trường để con người sinh sống mà là môi trường để con người sáng tạo ra
những giá trị văn hóa. Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa.
Khí hậu nơi đây nóng ẩm mưa nhiều là điều kiện thuận lợi cho phát triển nghề nông nghiệp lúa
nước. Từ xa xưa người Việt Nam đã biết ứng xử sao cho phù hợp với tự nhiên để sinh tồn. Chính
những nét đặc trưng về điều kiện tự nhiên lại là cơ sở hình thành nền văn hóa vô cùng đặc sắc
của dân tộc Việt Nam, nó là bản sắc riêng- là cái hồn của dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm lịch
sử, cùng với sự giao lưu tiếp biến của văn hóa bên ngoài nhưng người Việt vẫn giữ được bản sắc
văn hóa của mình.


Điều đó có thể thấy điều kiện địa lí có vai trò vô cùng quan trọng trong nền văn hóa của Việt
Nam, và cũng là một trong những lí do chúng tôi đến với đề tài này.
B. Giải quyết vấn đề:
I. Điều kiện địa lý của Việt Nam:
Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á. Phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây và tây nam giáp
Lào và Campuchia, phía đông và phía đông nam giáp biển Đông với bờ biển dài hơn 3000 km.
Do có vị trí và đặc điểm tự nhiên như vậy nên Việt Nam từ xã xưa đã có vị thế của một chiếc cầu
nối giữa Châu Á và Thái Bình Dương, giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, là
giao điểm giữa các đường giao thông, giữa các “kênh” mua bán, trao đổi hàng hoá giao lưu văn
hoá từ đông sang tây, từ bắc xuống nam và là điểm nút giao thông của nhiều nền văn hoá và văn
minh trên thế giới.

1. Địa hình:
2


Địa hình Việt Nam ¾ là đồi núi thấp với hệ đất peralit đỏ vàng là chủ yếu. đây là loại đất thích
hợp cho nhiều loại cây trồng khác nhau. Diện tích đất đồng bằng chỉ chiếm ¼ nhưng hầu hết các
đồng bằng của Việt Nam là những đồng bằng châu thổ do các con sông bồi đắp thường xuyên
nên rất màu mỡ, là điều kiện thuận lợi để cho con người canh tác nông nghiệp.
2. Khí hậu:
Nước ta nằm trong vành đai nhiệt đới, lại chịu ảnh hưởng của gió mùa Châu Á, nên khí hậu
mang tính chất nóng, ẩm phân hoá theo mùa và theo độ cao rõ rệt. Bởi vậy hệ sinh thái rất đa
dạng, mùa nào thức ấy. Cây cối xanh tốt quanh năm phù hợp với việc phát triển nông nghiệp.
Điều kiện đất đai và khí hậu làm cho thiên nhiên Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Thuận
lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp. Chính vì vậy Việt Nam cũng là vùng đất có nền văn minh
phát triển khá sớm, cách đây 4000 năm, đó là nền văn minh sông hồng. Đặc trưng là trống đồng
và lúa nước.
3. Sông ngòi:
Việt Nam có hệ thống sông ngòi dày đặc với nhiều con sông lớn . Như sông Hồng, sông

Mêkông hàng năm đã bồi đắp một lượng phù ra rất lớn tạo nên sự phì nhiêu màu mỡ cho các
đồng bằng. Tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp. Môi trường sông nước cũng
chính là môi trường sản sinh ra nhiều giá trị văn hoá đặc sắc của người Việt. Như vậy điều kiện
địa lý chính là nền tảng của văn hoá Việt Nam.
II. Mối quan hệ giữa điều kiện địa lý với văn hoá dân tộc.
Do điều kiện tự nhiên thuận lợi, nền nông nghiệp nước ta phát triển rất sớm, ngay từ khi công
cụ còn thô sơ. Việt Nam là nước nông nghiệp truyền thống, tất cả các hoạt động của người dân
Việt Nam đều gắn bó với hoạt động nông nghiệp truyền thống và chính hoạt động nông nghiệp
đã chi phối rất nhiều đến đặc trưng văn hóa của người Việt.
1. Văn hóa ẩm thực (ăn uống):
Để duy trì sự sống ăn luôn giữ vị trí số một. Ở Việt Nam ăn uống còn được coi là văn hoá.
Chính xác hơn đó là văn hoá tận dụng môi trường tự nhiên. Văn hoá ăn uống liên hệ trực tiếp với
văn hoá giao tiếp coi trọng sự tế nhị “ăn xem nồi ngồi xem hướng”, con người Việt Nam trọng
tình cảm, trọng danh dự bởi vậy “lời chào cao hơn mâm cỗ” do hoạt động nông nghiệp nên
người Việt Nam rất coi trọng việc ăn uống: “có thực mới vực được đạo”, dân gian ta thường có
câu “trời đánh còn tránh miếng ăn” nó thể hiện tầm quan trọng của việc ăn uống.
Như đã nói Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, đất đai phì nhiêu màu mỡ rất thích hợp cho
việc phát triển cây lúa. Giáo Sư Trần Quốc Vượng đã nhận xét: “Đông Nam Á -Việt Nam được
đặc trưng bởi hệ thống sinh thái phồn tạp. Trong hệ thống sinh thái phồn tạp chỉ số đa dạng giữa
số giống loài và số cá thể rất cao, thực vật phát triển hơn so với động vật”. điều này được thể
hiện trong bữa cơm của Người Việt: cơm – rau – cá. Đó là một cơ cấu thiên về thực vật và trong
số thực vật thì lúa gạo đứng hàng đầu. Tục ngữ có câu: “cơm tẻ mẹ ruột”, “người sống vì gạo cá
bạo vì nước”. Người ta không chỉ sử dụng gạo trong những bữa cơm thường ngày ,mà gạo còn
được chế biến thành các đồ dâng cúng thần linh: gạo nếp làm bánh trưng,bánh giày đay là hai thứ

3


bánh không thể thiếu trong ngày tết cổ truyền của người Việt. Bánh trưng được gói bằng gạo
nếp, lá dong, luộc nên mà màu vẫn còn xanh ngắt, không nhà nào không có. Gạo tẻ thì được chế

biến thành các loại bánh như: bánh cuốn, bánh đa, bánh đúc, bánh giò, bánh trôi, phở, mì, bún….
mỗi loại bánh là đặc sản của từng vùng. Ví dụ như phở Hà Nội không chỉ nổi tiếng ở Việt Nam
mà còn được bạn bè nước ngoài biết đến.

Lúa gạo
Trong bữa cơm của người Việt Nam sau lúa gạo thì đến rau quả. Nằm ở một trong những trung
tâm trồng trọt Việt Nam có một danh mục rau quả mùa nào thức ấy, phong phú vô cùng. Đối với
người Việt Nam “đói ăn rau, đau uống thuốc”. Rau thường được nấu canh, dùng tươi hoặc luộc,
ít dùng những nước sốt cầu kỳ có nhiều đạm như đĩa rau trộn sốt chứng, sữa quen thuộc trong cơ
cấu bữa ăn của các nước phương tây. Nói đến rau trong bữa ăn của người Việt không thể nhắc
đến hai món đặc thù là rau muống và dưa cà. Đây là hai món ăn đơn giản, dân dã nhưng lại gắn
bó chặt chẽ với mỗi người dân Việt Nam và khi đi xa ai cũng nhớ về:
“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”

Một đặc trưng của điều kiện tự nhiên Việt Nam là lắm sông, suối, ao hồ. Chính nơi đây là
nguồn cung cấp thực phẩm dồi dào cho người dân. Từ xưa họ đã tìm đến gần những con sông để
4


sinh sống, đánh bắt hải sản để phục vụ cho bữa ăn của mình. Ngoài cơm và rau, cá là nguồn thực
phẩm không thể thiếu trong bữa cơm của người Việt. Từ cá người ta có thể chế biến ra nhiều các
món ăn khác nhau như cá kho, gỏi cá …

Thủy sản( cá)
Đặc biệt từ các loại hải sản đánh bắt được người Việt đã chế tạo ra một thứ đồ chấm đặc biệt
là nước mắm và mắm các loại. Martin – Yan - Đầu bếp số một thế giới khi đến Việt Nam đã rất
thán phục món nước mắm chanh - đường - tỏi - ớt của người Việt.

Nước mắm

Không giống những vùng có thảo nguyên rộng lớn - thuận lợi cho việc chăn nuôi gia súc, ở
Việt Nam chăn nuôi gia súc chỉ bó hẹp trong hộ gia đình nên thực phẩm là cá nhiều – vì tận dụng
được tự nhiên. Còn thịt thì rất ít chủ yếu là thịt gà, bò trâu nên trong bữa ăn của người Việt thịt
được xếp sau cùng.

5


Thịt
Ở vùng nhiệt đới, sản phẩm nông nghiệp rất đa dạng và phong phú, điều này được thể hiện ở
bữa ăn của người Việt có rất nhiều món: cơm, canh, rau, cá, dưa, tôm thịt,… và cách chế biến
cũng rất phong phú như: xào, nướng, luộc, hấp, kho, trộn… Người Việt chủ yếu uống nước trà, 1
thứ cây là sản vật của vùng cận nhiệt đới (phía Bắc). Thức uống hàng ngày, thức uống để mời
khách, thức uống cúng tế, lễ, tết…. cũng là nước trà.

Một số sinh hoạt ăn, uống, hút của người Việt cũng mang đậm nét của một vùng nhiệt đới: ăn
trầu, uống rượu, hút thuốc lào,… tất cả những hoạt động này đã trở thành biểu tượng của văn hóa
Việt.
Ăn trầu cau là phong tục lâu đời ở Việt Nam, nó cũng phổ biến ở Đông Nam Á cổ đại. Nước ta
là vùng có khí hậu nhiệt đới nên thích hợp cho cây trầu, cau phát triển. Trầu cau có thể trồng

6


khắp nơi trên đất nước hầu như làng nào cũng có, nhà nào cũng có giàn trầu và vài ba cây cau.
Lá trầu còn có tác dụng chữa đầy bụng, đau mắt, chữa các mụn làm mủ sưng tấy…
Trầu cau có ý nghĩa triết lý nhân sinh tuyệt vời. Trầu cau là đạo ứng xử bạn bè, hàng xóm,
láng giềng, là keo sơn của tình nghĩa vợ chồng anh em. Miếng trầu còn là vật lễ từ việc cưới xin
cho đến tang ma… miếng trầu thật đơn giản nhưng chứa đựng biết bao ý nghĩa sâu xa của văn
hoá Việt Nam.


Trổ trầu của người Việt
Trong khi trầu là thú vui chủ yếu của phụ nữ thì hút thuốc nào là thú vui chủ yếu của nam giới.
Thuốc lào là một thứ cây gần giống thuốc lá: “thuốc lào là một thứ cây tên chữ gọi là tương tư
thảo. kỳ thuỷ cho cây thuốc ấy trừ được sơn lam chướng khí, mới có người hút, lâu rồi quen đi
mà ai cũng đua nhau, bởi thế thành tục” (Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục,Nxb Văn hoá thông
tin, 2005.).
Cây thuốc lào thường trồng nhiều ở vùng Hải Dương, Nam Định. Họ lấy lá phơi khô rồi thái
nhỏ mà đóng thành bánh và đem đi bán cho người ta hút. Hút thuốc lào đã trở thành niềm đam
mê đối với người dân Việt Nam không chỉ có nam giới hút mà có cả phụ nữ. Ca dao có câu
“Nhớ ai như nhớ thuốc lào
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”.

Hút thuốc lào
Uống rượu: rượu được làm từ gạo nếp hoặc gạo tẻ. Nhưng rượu bằng gạo nếp vẫn thơm ngon
hơn cả. Gạo nếp được đem đồ xôi, ủ cho lên men rồi cất ra. Rượu là tố chất gắn với nhiều hình

7


thức sinh hoạt đời sống của người dân Việt Nam như cưới hỏi, ma chay, ly rượu lễ thầy, lễ cha
mẹ. nhất là trên bàn thờ tổ tiên không thể thiếu được ly rượu.

Rượu nếp
2. Văn hóa trang phục ( văn hóa mặc ):
Quan trọng đối với con người sau ăn là mặc. Nó giúp cho con người đối phó được với cái
nóng, cái lạnh, mưa gió… nhưng mặc không chỉ là để ứng phó với môi trường mà có ý nghĩa xã
hội quan trọng. Mặc trở thành cái không thể thiếu trong mục đích trang điểm, làm đẹp của con
người.
Mỗi dân tộc có cách ăn mặc và trang sức khác nhau vì vậy cái mặc trở thành biểu tượng văn

hoá của dân tộc. Trải qua hàng ngàn năm, trang phục của người Việt Nam đã có nhiều thay đổi,
nhưng về cơ bản vẫn thể hiện được cách ăn mặc của một vùng lúa nước chân lấm tay bùn.
Về chất liệu may mặc: để ứng phó với môi trường tự nhiên người phương nam sở trưòng ở
việc tận dụng các chất liệu có nguồn gốc từ thực vật, là sản phẩm của nghề trồng trọt, những chất
liệu này thoáng nhẹ, rất phù hợp với xứ nóng. Có các loại như tơ tằm, tơ chuối, tơ đay, gai, sợi
bông.
Đồ mặc ở phía dưới của người phụ nữ tiêu biểu và ổn định hơn cả là cái váy. Sở dĩ trải qua
bao thời đại cái váy vẫn được người dân ưa chuộng một phần vì đó là trang phục truyền thống,
một phần vì mặc váy không chỉ mát, ứng phó có hiệu quả được với khí hậu nóng bức, mà còn rất
phù hợp với công việc đồng áng. Đối với nam giới thì là cái khố mặc khố mát, phù hợp với khí
hậu nóng bức và dễ thao tác trong lao động.
Khi chiếc quần thâm nhập vào Việt Nam nó được cải biến một cách linh hoạt thành quần lá
toạ vừa thích hợp với khí nóng vừa thuận lợi cho hoạt động nông nghiệp.
Đồ mặc phía trên của phụ nữ là chiếc yếm, đàn ông thì cởi trần. Có thành ngữ “váy vận yếm
mang”, “cởi trần đóng khố” đã miêu tả rất chính xác trang phục lao động truyền thống. Cách mặc
8


với mục đích ứng phó với môi trường tự nhiên dần dần trở thành một quan niệm về cái đẹp của
người Việt Nam. Ngoài ra trong khi lao động họ còn mặc áo cánh, áo bà ba, áo tứ thân.
Do gắn với hoạt động nông nghiệp thường xuyên phải tiếp xúc với bùn đất nên các màu sắc
thường được chọn trang trang phục là màu gụ, màu đen.
Do đặc điểm nước ta nắng lắm mưa nhiều cho nên để ứng phó với khí hậu ấy nét đặc thù
chung. Đội nón rộng vành (để tránh nóng ) và có mái dốc (để thoát nước nhanh, che mưa). Ngoài
ra người Việt còn đội mũ, áo tơi (che mưa) bằng lá cọ, một cây đặc trưng của vùng nhiệt đới gió
mùa.

Áo dài truyền thống của người Việt Nam
3. Văn hóa ở và đi lại:
Việc ở: Việc làm nhà cửa và các công trình kiến trúc thể hiện sự đối phó với môi trường tự

nhiên. Cuộc sống định cư là đặc điểm nổi bật của cư dân nông nghiệp lúa nước. Ở những vùng
thấp bằng phẳng thường làm nhà trệt, bằng cột tre hoặc gỗ. Gắn với môi trường sông nước thì có
những ngôi nhà thuyền, nhà bè, lập nên những xóm chài, làng chài. Ở những vùng núi cao có
những ngôi nhà sàn vừa ứng phó với lũ lụt hàng năm, vừa tránh thú dữ.

9


Việc chọn hướng nhà, chọn đất vừa liên quan đến thuật phong thuỷ vừa là cách tận dụng tối đa
thế mạnh của môi trường tự nhiên để ứng phó với nó. Hướng nhà thường được chọn là hướng
nam “lấy vợ hiền hoà làm nhà hướng nam”. Vì Việt Nam ở gần biển, trong khu vực gió mùa
trong bốn hướng chỉ có hướng nam hoặc đông nam là tốt nhất. Vừa tránh được cái nóng từ phía
tây, cái bão từ phía đông, và gió lạnh thổi về vào mùa rét từ phía bắc, lại tận dụng được gió mát
thổi đến từ phía nam vào mùa nóng.
Về mặt kiến trúc theo lối nhà cao cửa rộng, nhà ba gian, hai trái. Ngôi nhà còn là tấm gương
phản ánh đặc điểm của truyền thống văn hoá dân tộc. trước hết là môi trường sông nước phản
ánh qua cách làm nhà sàn với vách nghiêng và mái cong hình thuyền. Người Việt Nam có truyền
thống thờ cúng tổ tiên và hiếu khách cho nên ngôi nhà Việt Nam dành ưu tiên gian giữa cho hai
mục đích: phía trong là nơi đặt bàn thờ, phía ngoài là nơi tiếp khách.
Về đi lại: do địa hình Việt Nam nhiều đồi núi, mặt khác cuộc sống nông nghiệp của người dân
Việt Nam là đi gần - từ nhà ra đồng, từ nhà lên nương…nên giao thông đường bộ kém phát triển.
Bù lại Việt Nam là vùng sông nước nơi đây có hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt và bờ
biển rất dài bởi vậy mà thuận lợi cho việc giao thông đường thuỷ. Sách Lĩnh Nam trích quái chép
rằng người Việt cổ “lặn giỏi, bơi tài, thạo thuỷ chiến, giỏi dùng thuyền”. Phương tiện giao thông
và chuyên chở hết sức phong phú: thuyền, ghe, xuồng, bè, tàu phà…
Người Việt Nam gắn bó với sông nước không chỉ trong đi lại mà cả trong việc ở. Ngay cả
chôn cất người chết cũng mô phỏng theo hình con thuyền đến cái “thế giới bên kia” cũng được
hình dung nằm ở một vùng sông nước( chín suối) và đến đó cũng phải đi bằng thuyền, tục chèo
(đò) đưa linh.
C. Kết luận:

“Văn hoá là cái gì còn lại khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học
hết tất cả.” (E douord HERRIOT).
Văn hoá là cái gì đó rất riêng của mỗi dân tộc, chúng ta có thể tìm thấy ở dân tộc này mà
không thể tìm thấy ở dân tộc khác. đối với văn hoá không có sự cao thấp mà chỉ có sự khách
nhau mà thôi. Chính sự khác nhau đó tạo nên những nét đặc trựng riêng văn hoá của mỗi dân tộc,
nó tạo thành không gian văn hoá. Không gian văn hoá gắn liền với lãnh thổ, đặc trưng không
gian lãnh thổ chi phối đặc trưng văn hoá trong không gian.
Như vậy chúng ta có thể khảng định điều kiện địa lý có vai trò rất quan trọng để văn hoá dân
tộc hình thành và phát triển. Thông qua việc nghiên cứu và phân tích mối quan hệ giữa điều kiên
địa lý với văn hoá dân tộc Việt Nam chúng ta dễ ràng thấy được điều đó.

10


PHẦN II: BẢNG PHÂN CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ CÔNG VIỆC CÁC THÀNH VIÊN
TRONG NHÓM
Công việc

Người thực hiện

Đánh giá

STT
1

2

Tìm hiểu, tóm - Hoàng Thị Phương Lan
tắt thông tin cho - Trịnh Thị Cúc
bài work.


-Đã đưa ra đầy đủ nội dung thuyết
phục trong bản tóm tắt
- Ý thức tham gia công việc tốt

Làm tập tin trình - Nguyễn Thị Hương
chiếu
- Nguyễn Thị Thúy Hằng

-Powerpoint rõ ràng, dễ nhìn,
- Nhiều hình ảnh minh họa
- Hoàn thành công việc tốt

Viết work
3
4

5

- Nguyễn Thị Hương
- Hoàng Thị Phương Lan

Làm note (giấy Trịnh Thị Cúc
chú ý) để chuẩn
bị
cho
việc
thuyết trình
Tổng hợp bài Nguyễn Thị Thúy Hằng
làm


- Nội dung rõ ràng, đủ ý
- Có trách nhiệm trong công
việc
Có tinh thần tham gia rất tốt,
chăm chỉ, cẩn thận.
Tổng hợp đầy đủ bài của các
thành viên, tinh thần tham gia
rất tốt, nhiệt tình, có trách
nhiệm.

11


Mục lục
Mục lục......................................................................................................................................................12

12



×