Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

MỘT số BIỆN PHÁP NHẰM KHAI THÁC các LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG ở THÁI BÌNH CHO HOẠT ĐỘNG DU LỊCH của THÀNH PHỐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.34 KB, 51 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TỔNG CÔNG TY CP ĐIỆN TỬ VÀ TIN HỌC VIỆT NAM
TRƯỜNG CAO ÐẲNG CÔNG NGHỆ VIETTRONICS

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM KHAI THÁC
CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở THÁI BÌNH
CHO HOẠT ĐỘNG DU LỊCH CỦA THÀNH PHỐ

Giáo viên hướng dẫn
Đơn vị
Sinh viên
Lớp
Ngành

: Nguyễn Thị Huệ
: Khoa quản trị kinh doanh
: Nguyễn Thị Kim Ngân
: 2VH9
: Văn hóa du lịch

Hải Phòng, tháng 05 năm 2014

1


LỜI CẢM ƠN
Bài kháo luận tốt nghiệp được hoàn thành, ngoài sự lỗ lực của bản thân còn
có sự động viên giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám hiệu trường Cao đẳng công
nghệ Viettronics, đặc biệt là cô giáo bộ môn chuyên ngành Nguyễn Thị Huệ đã
tận tình giúp đỡ em trong suốt thời gian viết bản khóa luận này. Cuối cùng em


xin cảm ơn các cô giáo trong khoa quản trị kinh doanh, cũng như các cô giáo bộ
môn đã dạy dỗ và giúp đỡ em trong quá trình học tập.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng trong việc tìm hiểu, thu thập các thông tin,
tài liệu cũng như trong việc trình bày nội dung về các vấn đề nhưng do trình độ
còn hạn chế cho nên không thể tránh khỏi được những thiếu sót. Do đó em rất
mong nhận được sự đóng góp chỉ bảo tận tình của các thầy cô trong bài khóa
luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hải phòng, ngày 25 tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Kim Ngân.

2


MỤC LỤC
ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM KHAI THÁC CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN
THỐNG Ở THÁI BÌNH CHO HOẠT ĐỘNG DU LỊCH CỦA THÀNH PHỐ..................1

3


LỜI MỞ ĐẦU.
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Khu vực nông thôn Việt Nam chiếm gần 80% dân số cả nước, trong xu thế
hội nhập kinh tế, khu vực nông thôn đã đạt được những kết quả tương đối khả
quan như: đã giải quyết được nhu cầu về thực phẩm, vật dụng, thu nhập của dân
cư ở khu vực nông thôn tăng lên, đời sống văn hóa xã hội được cải thiện đáng
kể. Đặc biệt là đối với địa phương đã hình thành và phát triển các cụm công
nghiệp – tiểu thủ công nghiệp với các làng nghề, làng nghề truyền thống, cung

cấp nhiều sản phẩm cho xã hội. Hiện nay, nước ta có khoảng gần 2000 làng
nghề thủ công thuộc 11 nhóm nghành nghề chính như: sơn mài, thêu ren, mây
tre đan, cói, bánh kẹo, gỗ đá, đúc đồng…
Cùng với sự phát triển làng nghề truyền thống cảu cả nước, làng nghề của
tỉnh Thái Bình cũng được chính quyền địa phương quan tâm, tạo điều kiện để
phát triển, mở rộng quy mô và đa dạng nghành nghề. Nhiều làng nghề như: làm
Bánh Cáy, chiếu cói, mây tre đan, trạm bạc, dệt khăn dệt vải, sản xuất gạch
ngói…Thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn làng nghề
được mở rộng quy mô, đã sử dụng máy móc, công nghệ thay thế cho lao động
thủ công. Hiện nay, làng nghề cần được sắp xếp, quy hoạch thành những cụm
làng nghề liên kết nhau để có thể tiếp nhận đầu tư nước ngoài, đầu tư công nghệ
hiện đại nâng cao sản xuất lao động, bảo vệ môi trường tự nhiên, xây dưng môi
trường xã hội văn minh hiện đại. Có như vậy làng nghề mới có thể tăng trưởng
theo hướng bền vững và phát triển làng nghề gắn với du lịch. Để giải quyết vấn
đề đó, tôi chọn đề tài: "Một số biện pháp nhằm khai thác các làng nghề truyền
thống ở Thái Bình cho hoạt động du lịch của thành phố".
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
Mục đích nghiên cứu đề tài.
Mục đích của luận văn khi thực hiện là góp phần phát triển các làng nghề
truyền thống tỉnh Thái Bình cũng như góp phần bảo tồn di sản văn hóa trong
kinh doanh du lịch của tỉnh.
Nhiệm vụ của đề tài.
Phân tích, đánh giá đúng thực trạng phát triển làng nghề truyền thống trên
địa bàn tỉnh Thái Bình.

4


Nêu lên quan điểm và đề xuất các giải pháp phát triển các làng nghề truyền
thống cho hoạt động du lịch của thành phố.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
Đối tượng nghiên cứu dề tài.
Đối tượng nghiên cứu là các làng nghề truyền thống và các nhân tố tác động
đến sự phát triển làng nghề truyền thống cho hoạt động du lịch của thành phố.
Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Phạm vi về không gian: Nghiên cứu thực tế hoạt động của các làng nghề
truyền thống của tỉnh Thái Bình.
Phạm vi về thời gian: số liệu, tài liệu sẽ thu thập từ thời điểm năm 2000
đến nay,các định hướng phát triển các làng nghề truyền thống của tỉnh và các
giải pháp được đưa ra cho thời gian tới.
4. Kết cấu của khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Sự cần thiết phát triển làng nghề truyền thống ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống Thái Bình.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu phát triển làng nghề truyền
thống tỉnh Thái Bình.

5


CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề cơ bản về làng nghề truyền thống.
1.1.1.Định nghĩa về làng nghề truyền thống.
Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm chính thống về làng nghề, theo giáo sư
Trần Quốc Vượng thì làng nghề là một làng tuy vẫn còn trồng trọt theo lối tiểu
nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số nghề phụ khác như đan lát, gốm sứ,
làm tương,.. song đã nổi trội một số nghề cổ truyền, tinh xảo với một lớp nghệ
thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp cùng một số thợ có quy trình
công nghệ nhất định. Sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt

hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mĩ nghệ, đã trở thành những sản
phẩm hàng hóa.
Kỷ yếu hội thảo quốc tế” bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống Việt
Nam” tháng 8/1996. Định nghĩa này hàm ý về các làng nghề truyền thống, đó là
làng nghề nổi tiếng hàng nghìn năm.
1.1.2. Đặc điểm về làng nghề truyền thống ở Việt Nam.
Làng nghề truyền thống Viêt Nam có những đặc điểm chính sau:
Hoạt động làng nghề truyền thống gắn liền với làng nghề và sản xuất nông
nghiệp.
Xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng của xã hội, các nghề thủ công truyền thống
dần dần xuất hiện với tư cách là nghề phụ, việc phụ trong các gia đình nông dân
và nhanh chóng phát triển ở nhiều làng nghề. Năng suất lao động thấp đã không
đảm bảo thu nhập đủ cho nông dân. Vì vậy, nhu cầu tạo việc làm để có thêm thu
nhập ngoài sản xuất nông nghiệp là cần thiết. Đồng thời, do tính thời vụ của sản
xuất nông nghiệp đã tạo ra một sự dư thừa lao động trong một thời gian nhất
định, trong khi đó, ngay trên thị trường địa phương có nhu cầu về sản phẩm tiểu
thủ công nghiệp để phục vụ cho tiêu dùng, sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp,.. Tất
cả những điều đó đã tác động thúc đẩy các hoạt động tiểu thủ công nghiệp, ban
đầu phục vụ nhu cầu của gia đình mang tính tự sản, tự tiêu, phát triển thành hoạt
động có quy mô nhiều gia đình cùng tham gia và như vậy làng nghề truyền
thống hình thành và phát triển.

6


Có truyền thống lâu đời.
Đặc trưng của làng nghề Việt Nam là có truyền thống lâu đời. Theo các tư
liệu lịch sử, thời Phùng Nguyên khoảng 3000 trước công nguyên, người Việt đã
phát minh và sang chế ra hầu hết các kỹ thuật chế tác một số công cụ như đồ đa,
đồ gốm…Năm 258 người Việt phát minh ra công thức luyện đồng thau, và đúc

trống đồng đông sơn, sản phẩm chứng minh cho nghề truyền thống thời bấy giờ.
Làng nghề truyền truyền thống nước ta chịu nhiều biến động về công ghệ thị
trường, chiến tranh,cơ chế chính sách và có nhiều bước thăng trầm nhất định, có
lúc phát triển mạnh mẽ về số lượng quy mô, đa dạng hóa các nghành nghề,
nhưng cũng có thời kì bị tác động mạnh mẽ bởi các yếu tố và bị mai một. Tới
những năm gần đây, làng nghề truyền thống từng bước phát triển và được khôi
phục. Như vậy, hầu hết các làng nghề, làng nghề truyền thống, và các làng nghề
mới và các làng nghề mới được phục hồi tính truyền thống thể hiện rất rõ.
Có bản sắc văn hóa của Việt Nam.
Một đặc điểm khác hết sức quan trọng là làng nghề truyền thống, hàng hóa
của làng đặc biệt là hàng thủ công mĩ nghệ mang bản sắc truyền thống. Có tính
khác biệt, tính riêng mang màu sắc của mỗi nghệ nhân,và nét văn hóa đặc trưng
địa phương, tồn tại trong sự giao lưu với cộng đồng. Hàng chạm trổ trên từng
chất liệu khác nhau(gỗ, đá, sừng, xương…)hàng sơn( sơn quang, sơn thiếp, sơn
mài…) hàng thêu dệt(tơ lụa, chiếu, thảm…) hàng mây ttre đan, kim hoàn, trò
chơi…
Ở mỗi làng nghề có bản sắc riêng. Những nét riêng đó được thử thách qua
thời gian, qua giao lưu trao đổi được chọn lọc,thừa nhận để tồn tại và phát triển
cùng với sự bổ sung lẫn nhau tạo thành kiểu dáng hoàn thiện, đặc sắc thể hiện
bẳn sắc của Việt Nam.
Lao động chủ yếu là thủ công.
Trước đây, khi kĩ thuật còn thô sơ còn lạc hậu thì hầu hết các công đoạn
trong quy trình sản xuất đều do lao động thủ công đảm nhận. Công viếc này đã
thể hiện một tay nghề nhất định, một tài khéo léo riêng biệt, độc đáo kết hợp với
đầu óc sang tạo và nghệ thuật thông qua lao động bằng tay. Ngày nay,nhiều làng
nghề truyền thống đã biết sử dụng máy móc cơ khí trong sản xuất. Tuy nhiên
nhiều dấu ấn lao đọng thủ công vẫn được gìn giữ và chính chất thủ công mang
lại đặc thù cho sản phẩm làng nghề truyền thống.

7



Làng nghề truyền thống luôn gắn với tên làng( thương hiệu) và có khả năng tồn
tại và phát triển lâu dài.
Mỗi làng nghề truyền thống thường gắn liền với địa danh của làng đó để đặt
tên cho làng nghề truyền thống của làng mình như làng tranh Đông Hồ, làng
gốm Bát Tràng, tơ lụa Tân Châu, làng mộc Kim Đồng… Đây chính là đặc điểm
tiêu biếu để phân biệt các đặc điểm riêng của mỗi làng nghề truyền thống.
1.1.3. Vai trò của làng nghề truyền thống.
Phát triển các làng nghề truyền thống có vai trò chủ yếu sau:
Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, đa dạng hóa kinh
tế nông thôn.
Quá trình phát triển các làng nghề truyền thống đã có vai trò tích cực góp
phần tăng tỉ trọng sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ,
chuyển lao động từ sản xuất có thu nhập còn rất thấp sang nghành nghề phi nông
nghiệp có thu nhập cao hơn. Như vậy khi nghành nghề thủ công hình thành và
phát triển thì kinh tế nông thôn không chỉ có nghành nông nghiệp thuần nhất mà
bên cạnh các nghành nghề thủ công tồn tại và phát triển.
Giải quyết viêc làm ở nông thôn, tăng thu nhập cho người lao động.
Yêu cầu phát triển toàn diện kinh tế- xã hội ở nông thôn, tạo việc làm nâng
cao đời sống cho dân cư ở nông thôn là vấn đề quan trọng hiện nay ở nước ta.
Các làng nghề truyền thống ra đời đã giải quyết được phần nào công ăn việc làm
cho người dân, nâng cao đời sống.
Cung cấp một khối lượng hàng hóa cho xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế.
Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn sẽ tạo điều kiện
huy động một cách tối đa mọi nguồn lực sẵn có ở nông thôn như nguồn lực tự
nhiên, nguồn lực cơ sở vật chất kĩ thuật, tiềm năng vốn có nguyên liệu sẵn có
của địa phương… phục vụ vào sản xuất. Do đó, sản xuất được đẩy mạnh và tạo
ra được nhiều hàng hóa có chất lượng cao, đa dạng phục vụ cho nhu cầu sản
xuất và đời sống. Mặt khác, sản xuất trong các làng nghề truyền thống thường

tương đối năng động và gắn chặt kinh tế thị trường. Vì vậy, sản xuất các làng
nghề mang tính chuyên môn hóa và đa dạng hóa cao.
Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống góp phần bảo tồn các giá
trị văn hóa địa phương.

8


Khai thác được tiềm năng cũng như phát huy được lợi thế so sánh, lợi thế
nhờ quy mô ở từng vùng, từng địa phương góp phần thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông thôn nói riêng.
Như vậy, làng nghề truyền thống không chỉ là nơi sản xuất ra hàng hóa mà
còn chứa đựng những tiềm ẩn giá trị văn hóa tinh thần, truyền thống văn hóa của
dân tộc được lưu truyền bao đời nay. Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế,
quốc tế, thì việc phát triển các làng nghề truyền thống còn là cơ sở để tổ chức du
lịch làng nghề thu lợi nhuận cao, có khả năng thu hút đông đảo du khách tìm
hiểu, chiêm ngưỡng những nét văn hóa, những sản phẩm truyền thống của dân
tộc.
1.1.4. Sự cần thiết phát triển làng nghề truyền thống trong nền kinh tế thị
trường.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, cá nhân, hộ gia đình được tự do đầu tư
và sản xuất kinh doanh những sản phẩm mà pháp luật không cấm, được bình
đẳng trước pháp luật. Nhiều làng nghề truyền thống được khôi phục và phát
triển mạnh mẽ, trở thành một xu hướng phát triển tất yếu là do:
Thứ nhất, môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi, cơ chế quản lý Nhà
nước thay đổi đã cho phép mọi cá nhân, hộ gia đình tự do đầu tư sản xuất kinh
doanh. Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng như đường giao thông, cầu cống, điện
nước, bưu chính viễn thông, trường học trạm y tế… tạo điều kiện thuận lợi trong
giao lưu trao đổi hàng hóa, mở rộng các loại thị trường hàng hóa, lao động tài

chính…
Thứ hai, phát triển làng nghề truyền thống gắn với lợi ích, đời sống thiết
thực của nông dân. Xuất phát từ lợi ích lợi nhuận mà bản thân làng nghề truyền
thống nó tự phát triển. Mặt khác, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường, Đảng và nhà nước đã quan tâm nhiều đến sự phát triển nông nghiệp,
nông thôn trong đó có làng nghề truyền thống nhằm mục tiêu nhanh chóng nâng
cao đời sống người dân, giảm khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành
thị.
Thứ ba, gắn liền với việc gìn giữ thương hiệu sản phẩm, gìn giữ bản sắc văn
hóa dân tộc, “ Mỗi làng nghề là một địa chỉ văn hóa nó phản ánh nét văn hóa
độc đáo của từng địa phương, từng vùng”. Làng nghề truyền thống thể hiện

9


những nét văn hóa độc đáo qua từng sản phẩm, qua các lễ hội và phong tục tập
quan ứng xử làng nghề. Bởi làng nghề truyền thống với những sản phẩm làm
bằng tay, chất liệu, hoa văn Việt Nam là biểu tượng cho di sản văn hóa Việt
Nam, những chất liệu, kiểu dáng và từng chi tiết khéo léo tinh xảo trên các sản
phẩm thủ công chính là nơi truyền tải các sắc thái văn hóa địa phương và góp
phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc.
1.2. Các nhân tố tác động đến sự phát triển làng nghề truyền thống.
1.2.1. Tác động của quản lý nhà nước.
Định hướng và khuyến khích phát triển làng nghề truyền thống.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn làng nghề luôn giữ
một vị trí quan trọng, luôn được đảng và nhà nước quan tâm như:
Xây dựng các cụm côg nghiệp tiểu thủ công nghiệp tập trung.
Hỗ trợ quản lý môi trường, tiếp cận tín dụng.
Chương trình bảo tồn phát triển làng nghề gắn với phát triển du lịch.
Tổ chức các lớp, khóa đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, truyền nghề, tổ chức,

hỗ trợ cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn tham gia hội trợ, triểm lãm, tham
quan, khảo sát, học tập kinh nghiệp, hợp tác quốc tế.
1.2.2. Phát huy các nhân tố của bản thân các làng nghề.
Nhân tố truyền thống của từng hộ gia đình.
Làng nghề truyền thống thường gắn với những kinh nghiệm truyền thống,
cha truyền con nối, do đó đã xuất hiện nhiều nghệ nhân tài hoa. Tính truyền
thống của làng nghề tạo nên uy tín lan truyền qua bao thế hệ trong phạm vi rộng
lớn. Đây là yếu tố tác động cản trở việc di chuyển làng nghề truyền thống đến
một địa điểm mới, một khu mới tách biệt dân cư để xây dựng mô hình cụm công
nghiệp làn nghề.
Sản xuất làng nghề truyền thống có nguồn gốc từ tiểu thủ công nghiệp được
tách ra từ sản xuất nông nghiệp. Vì thế sản xuất mang tính nhỏ lẻ, manh mún tự
phát với kĩ thuật thô sơ, lạc hậu. Tính chất này đã ăn sâu trong tâm trí người
nông dân và trở thành yếu tố tâm lý.
Cơ sở vật chất của các làng nghề truyền thống đều do nhân dân, hộ gia đình,
đầu tư xây dựng một cách tự phát tùy theo khả năng sản xuất lao động và tiền
vốn của từng gia đình. Từ việc mua máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng,
cung ứng nguyên vật liệu đến việc tổ chức tiêu thụ cũng đều do người nông dân

10


tự phát xây dựng, không theo quy hoạch, không tính đến tác hại cảu những
người xung quanh, chỉ miễn sao có lợi cho gia đình của họ. Như vậy tính cộng
đòng trong các làng nghề thường không có, nếu có là tính gia đình, dòng họ.
Bảo vệ môi trường để phát triển bền vững.
Phát triển làng nghề truyền thống gắn với mục tiêu sử dụng tiết kiệm, có
hiệu quả và bảo vệ tài nguyên môi trường. Sản xuất trong làng nghề truyền
thống luôn là quá trình gồm hai mặt. Một mặt, đó là quá trình khai thác, chế biến
các nguồn tài nguyên thiên nhiên để sản xuất ra sản phẩm. Mặt khác, là sự tiêu

dùng các sản phẩm công nghiệp của người dân. Vì vậy, mọi người dân phải
nhận thức được và có năng lực tự điều chỉnh và kiểm soát môi trường. Điều đó,
đòi hỏi các cấp chính quyền địa phương phải tăng cương giáo dục cho người dân
nông thôn nhận thức được ý thức trách nhiệm trước cộng đồng. Đồng thời, phải
tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát môi trường.

11


Tiểu kết chương 1.
Hàng trăm làng nghề truyền thống ở Thái Bình tồn tại lâu đời không chỉ là
nguồn kinh tế chính của cư dân nơi đây, mà còn góp phần tạo nên bản sắc văn
hóa cho mỗi vùng quê. Để bảo tồn và phát triển làng nghề, Tỉnh ủy Thái Bình đã
ra Nghị quyết về bảo tồn và phát triển làng nghề. Từ 53 làng nghề hoạt động
cầm chừng, nay Thái Bình đã có 290 làng nghề, tạo việc làm cho hàng chục
nghìn lao động mỗi năm.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay các làng nghề có vị trí đặc biệt
quan trọng chúng là một bộ phận cơ bản của công nghệp nông thôn. Các làng
nghề có khả năng thu hút nhiều lao động góp phần tích cực vào việc giải quyết
tình trạng thất nghiệp tăng thu nhập cho người lao động nhất là ở vùng nông
thôn. Thái Bình là một tỉnh thuần nông với 94% dân số sống ở nông thôn là nơi
có số lượng làng nghề tập trung đông, nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng.
Các làng nghề đã có những đóng góp đáng kể vào quá trình phát triển kinh tế
chung của toàn tỉnh.
Việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống cũng như các làng
nghề mới có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ về mặt kinh tế mà về mặt ổn
định chính trị xã hội. Để góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà cụ thể là phát triển các làng nghề ở Thái
Bình.


12


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG THÁI BÌNH
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội.
2.1.1. Điều kiện tự nhiên tài nguyên thiên nhiên tỉnh Thái Bình.
Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản xuất và tiêu thụ các
sản phẩm, do đó nó ảnh hưởng lớn đến việc phát triển các làng nghề. Mỗi vùng
với điều kiện khí hậu thời tiết, đặc trưng tạo nên những nguồn nguyên liệu cho
các làng nghề khác nhau, hầu hêt, các sản phẩm thủ công truyền thống đều nhằm
phục vụ đời sống của người dân mà mỗi nơi người dân có những nhu cầu khác
nhau cho phép phát triển các ngành nghề khác nhau. Ví dụ: vùng Đồng Bằng
Sông Hồng có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa nó ảnh hưởng trực tiếp đến các
nghành may mặc, ngành dệt len, chế biến lương thực …
Vị trí địa lý là một yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự hình
thành và phát triển và đảm bảo sự phát triển lâu dài đối với các ngành nghề đặc
biệt là các ngành nghề truyền thống.
Thái Bình là một tỉnh ven biển ở đồng bằng sông Hồng, miền Bắc Việt
Nam. Trung tâm tỉnh là thành phố Thái Bình cách thủ đô Hà Nội 110 km về phía
đông nam, cách thành phố Hải Phòng 70 km về phía tây nam.
Thái Bình tiếp giáp với 5 tỉnh, thành phố: Hải Dương ở phía bắc, Hưng Yên
ở phía tây bắc, Hải Phòng ở phía đông bắc, Hà Nam ở phía tây, Nam Định ở
phía tây và tây nam. Phía đông là biển Đông (vịnh Bắc Bộ). Theo quy hoạch
phát triển kinh tế, Thái Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ.
Do có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên nên nguồn nguyên liệu cho các
làng nghề mây tre đan, chế biến lương thực thực phẩm dồi dào đây là một nghề
trước đây khá phổ biến ở Thái Bình.
Tình hình phát triển kinh tế- xã hội tỉnh Thái Bình.

Về tăng trưởng kinh tế.
Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp mặc dù có trình độ thâm canh lúa nước
khá cao song nề kinh tế vẫn chưa được cao, cơ cấu GDP nông nghiệp vẫn giữ
vai trò chủ yếu.

13


Công nghiệp chiếm tỉ trọng quá nhỏ bé đây là một khó khăn đối với việc
phát triển nghành nghề ở nông thôn. Ở các nước công nghiệp phát triển thì các
cơ sở ngành nghề nông thôn tồn tại với tư cách như là những vệ tinh cho công
nghiệp đô thị.
Thu nhập bình quân của toàn tỉnh còn quá thấp công nghiệp phát triển
chậm, các dự án đầu tư nước ngoài dường như không đáng kể, nguồn thu chủ
yếu của tỉnh hiện nay vẫn dựa vào nông nghiệp.
Trong cơ cấu tổng thu nhập của hộ gia đình toàn tỉnh nói chung thu nhập từ
nông lâm thủy sản chiếm tới 77,5% công nghiệp 3,5% dịch vụ 19%. Tỷ lệ người
nghèo ở Thái Bình năm 2012 là 8,2%. Trong nguồn thu từ nông nghiệp thu từ
trồng lúa luôn chiếm vị trí ban đầu.
Điều kiện văn hóa xã hội.
Thái Bình là một tỉnh đông dân theo thống kê 2010 Thái Bình có khoảng
1.787,903 người, mật độ 1.163 người/km2 trong đó lao động nông nghiệp chiếm
83%, dân số sống nông thôn chiếm 94%. Diện tích đất nông nghiệp bình quân
đầu người thấp chỉ khoảng 0,06ha/người. Tình trạng thất nhiệp khá trầm trọng
nhất là vào thời gian nông nhàn, từng đoàn người kéo ra thành phố lớn để tìm
việc kéo theo sự di cư tự do đó là hàng loạt những vấn đề mà các thành phố lớn
phải giải quyết.
Theo số liệu điều tra của tỉnh Thái Bình thì trình độ chuyên môn nghiệp vụ
là:
Không bằng cấp chiếm

: 79,83%
Sơ cấp chiếm
: 3,30%
Công nhân kĩ thuật
: 9,01%
Trung cấp
: 4,73%
Cao đẳng và đại học
: 3,02%
Trên đại hoc
: 0,01%
Với những số liệu trên cho thấy lực lượng lao động Thái Bình tuy đông đảo
về số lượng song chất lượng còn hạn chế. Mặc dù trong những năm gần đây
công tác đầu tư cho giáo dục đã đặc biệt được quan tâm nhưng tỉ lệ người học
hết trung học vẫn ít, đội ngũ công nhân kỹ thuật thiếu trầm trọng đây sẽ là một
khó khăn cơ bản trên con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa.

14


Trong quá trình phát triển tất yếu phải đi lên một xã hội công nghiệp để đi
từ nông nghiệp lên công nghiệp đối với nước ta có những bước chuyển dịch dần
lao động từ nông nghiệp – công nghiệp mà một trong những bước trung gian
quan trọng đó là phát triển công nghiệp nông thôn.
2.1.2. Đặc điểm hình thành và phát triển các làng nghề truyền thống Thái
Bình.
Lịch sử hình thành và phát triển các làng nghề truyền thống Thái Bình.
Cho tới ngày nay làng nghề ở Thái bình đã trải qua nhiều giai đoạn phát
triển một số làng nghề đã có hàng trăm năm tồn tại như chạm bạc Đông Xâm
(trên 300 năm ) dệt Nam Cao, mây tre đan Thượng Hiền….

Làng nghề trạm bạc Đồng Xuân hiện thờ vị tổ nghề Nguyễn Kim Lâu, ông
vốn làm nghề vàng bạc ở Cao Bằng, khoảng năm 1689 ông tới xứ Đông Xâm và
lập ra 12 phường để truyền nghề. Buổi đầu là nghề hàn đồng, gõ thùng chậu,
chữa khóa…. Đây là một làng nghề tiêu biểu cho nhóm nghề thủ công mỹ nghệ
truyền thống không chỉ của Thái Bình mà là cả nước. Bởi những giá trị độc đáo
của sản phẩm, cả những quy định chặt chẽ về truyền nghề, giữ bí mật nghề. Đến
nay mỹ thuật của nghề chạm bạc không còn là độc quyền của thợ Đồng Xuân
nữa nhưng một số thủ pháp nghệ thuật tinh xảo vẫn giữ bí truyền.
Trải qua hàng trăm năm tồn tại các làng nghề Thái Bình đã trải qua nhiều
giai đoạn phát triển, suy thoái có giai đoạn ngành nghề thịnh vượng nhung cũng
có giai đoạn người thợ phải bỏ nghề thậm chí bỏ làng ra đi tìm con đường sống.
Giai đoạn 2007 – 2012 các làng nghề cả nước nói chung và ở Thái Bình nói
riêng đã đạt đến đỉnh cao của sự phát triển, kim nhạch xuất khẩu đạt hàng triệu
đo la, thị trường lúc này chủ yếu là các nước Đông Âu, Liên Bang Nga nơi có
nhu cầu rất lớn về hàng thủ công mỹ nghệ.
Từ 2012 lại đây đã bắt đầu hồi phục và khởi sắc do chuyển hướng được thị
trường sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan…
Số làng nghề tăng lên từ 40 làng
Sau gần mười năm triển khai, đến nay cả tỉnh có khoảng 290 làng nghề
được cấp bằng công nhận, 100% số xã, phường không nơi nào "trắng nghề".
Mỗi năm, các làng nghề giải quyết việc làm cho từ 15 nghìn đến 20 nghìn lao
động với thu nhập từ 600 nghìn đến hai triệu đồng/người/tháng. Sản phẩm của
làng nghề chiếm khoảng 30% giá trị sản xuất công nghiệp của toàn tỉnh. Các
làng nghề phát triển ổn định, trở thành những thương hiệu làng nghề nổi tiếng

15


như thêu Minh Lãng, dệt đũi Nam Cao, chạm bạc Đồng Xâm, đúc đồng An
Lộc... Nhiều nơi dần trở thành vùng nghề như dệt chiếu Quỳnh Phụ, Hưng Hà,

Đông Hưng. Tại những làng nghề, thu nhập từ sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ
đã dần trở thành nguồn sống chính của nhiều hộ dân.
Một số làng nghề tiêu biểu:
Nghề chạm bạc ở Đồng Xâm
Làng nằm ở phía Bắc của huyện Kiến Xương, thuộc xã Hồng Thái. Đây là
một làng nghề chạm khắc trên mặt kim loại. Theo người làng kể lại cách đây
hơn 300 năm có nghệ nhân nghề chạm bạc tên là Nguyễn Kim Lâu theo thuyền
dọc sông Trà Lý về lập nghiệp ở đây. Ông đã truyền nghề chạm bạc cho dân
làng. Trải qua nhiều thời kỳ đến nay nghề vẫn được duy trì và ngày càng phát
triển. Sau khi ông mất, để tưởng nhớ đến công lao của ông, họ đã lập đền thờ
ông ở ngay làng gọi là đền Chạm bạc Ðồng Xâm.
Chạm bạc Ðồng Xâm với những sản phẩm tuyệt mỹ, có một không hai,
mang tên một trung tâm làm đồ kim hoàn nổi tiếng và lâu đời ở Việt Nam: làng
Ðồng Xâm.
Nếu như Châu Khê (Hải Hưng) sản xuất đồ trang sức bằng vàng là chính;
Ðịnh Công (Hà Nội) chủ yếu làm nữ trang bằng vàng, thì Ðồng Xâm (Thái
Bình) chuyên nghề chạm bạc. Làng nghề chạm bạc Ðồng Xâm (tên cũ là Ðường
Thâm) nằm ở bên hữu ngạn sông Ðồng Giang, thuộc xã Hồng Thái, huyện Kiến
Xương, Thái Bình. Những ghi chép trong sách sử cho biết: làng này hình thành
vào cuối thời Trần-Hồ, cách chúng ta ngày nay trên 600 năm. Nhưng nghề chạm
bạc ở đây thì mãi về sau mới xuất hiện. Làng hiện còn một am thờ và một tấm
bia đá ở trong khu chùa Ðường (thôn Thượng Gia ngày nay). Ðó là một văn bia
Tổ nghề (dựng năm 1689). Trên văn bia có ghi:
"Hoàng triều Chính Hoà thập niên, Tổ phụ Nguyễn Kim Lâu (...) Bảo Long
tụ lạc học nghệ, đáo Ðồng Xâm xứ kiến lập thập nhị phường kim hoàn truyền
nghệ."
Tạm dịch: Năm thứ mười dưới triều vua Chính Hoà (1689), vị tổ sư Nguyễn
Kim Lâu vốn làm nghề vàng bạc ở Châu Bảo Long, tới xứ Ðồng Xâm lập ra
mười hai phường để truyền nghề.
Nguyễn Kim Lâu sống vào khoảng đầu thế kỷ XVII. Và như vậy nghề chạm

bạc Ðồng Xâm đã tồn tại gần 400 năm nay. Buổi đầu là nghề hàn đồng, gò

16


thùng chậu, đánh dao kéo, chữa khoá, làm quai và vòi ấm tích, điếu bát...về sau
mới làm đồ kim hoàn, chuyên sâu về chạm bạc.
Cũng như nhiều nghề thủ công cao cấp khác, như đúc đồng, luyện kim...
nghề kim hoàn mang lại thu nhập cao cho người thợ, kỹ thuật lại hết sức phức
tạp, nên suốt mấy trăm năm người Ðồng Xâm luôn giữ bí mật nghề. Ðến nay, kỹ
thuật này không còn là độc quyền của thợ Ðồng Xâm nữa, nhưng một số thủ
pháp kỹ thuật và nghệ thuật tinh xảo nhất vẫn được giữ bí truyền. Phường chạm
bạc xưa đã qui định chặt chẽ trong hương ước của làng rằng: người nào đem bí
quyết nghề truyền dạy cho nơi khác, cho người làng khác, hay làm đồ giả để lừa
người khác, gây sự bất tín thì phải phạt thật nặng hoặc đem đánh đòn trước nhà
thờ Tổ, hoặc phải xoá tên trong phường.
Hàng chạm bạc Ðồng Xâm khác hẳn và nổi trội so với hàng bạc của các nơi
khác ở các kiểu thức lạ về hình khối, dáng vẻ sản phẩm, ở các đồ án trang trí
tinh vi mà cân đối, lộng lẫy mà nổi rõ chủ đề chính, ở thủ pháp xử lý sáng-tối
nhờ tận dụng đặc tính phản quang của chất liệu bạc. Ðặc trưng của sản phẩm
Ðồng Xâm là sự điêu luyện tế nhị và hoàn hảo tới mức tối đa. Có thể nói rằng tài
năng và tính cẩn trọng của nghệ nhân bạc Ðồng Xâm đã và đang có thể đáp ứng
được mọi yêu cầu sử dụng đồ chạm bạc của những khách hàng khó tính và am
tường nghệ thuật nhất.
Suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), nghề chạm
bạc đình đốn. Mãi đến sau ngày hoà bình lập lại, từ năm 1955 trở lại đây, sản
xuất đồ vàng bạc được phục hồi và phát triển. Nhưng các sản phẩm của những
năm làm ăn tập thể nhìn chung ít sáng tạo, nhỏ lẻ và khá đơn điệu. Phải đợi đến
thời kỳ đổi mới, mấy năm nay, người thợ chạm bạc mới thực sự "vẫy vùng mặc
sức" trong cơ chế thị trường, được tự làm, tự bán theo kiểu các doanh nghiệp

nhỏ, qui mô gia đình, được trực tiếp xuất khẩu... Vận hội mới đang quay trở lại
với người Ðồng Xâm và nghề chạm bạc.
Nghề làm hương.
Thôn Lai Triều, xã Thụy Dương huyện Thái Thụy từ lâu đã được biết đến
với nghề làm hương truyền thống. Là một xã thuần nông nhưng nghề hương đã
trở thành một nghề chính, tồn tại song song với sản xuất nông nghiệp.
Khi được hỏi về xuất xứ của nghề, ông Bùi Văn Kháng- một chủ hộ sản
xuất cho biết: Nghề hương có cách đây khoảng 300 năm. Ông tổ nghề là cụ Bùi

17


Nhân Toàn. Cụ là người ngoại tỉnh, khi đi qua đất Lai Triều, thấy đất đai màu
mỡ, cây hương bài lại có thể phát triển tốt nên cụ đã dừng chân nơi đây và
truyền dạy nghề cho mọi người. Để tưởng nhớ tới công đức cụ, dân làng đã lập
bia thờ cụ và tôn cụ là Thành Hoàng của làng.
Hương thường được làm quanh năm nhưng làm nhiều nhất là vào khoảng
tháng 9 âm lịch tới tháng 3 năm sau. Trong khoảng thời gian này, hương Lai
Triều xuất ra thị trường khối lượng lớn để phục vụ nhu cầu Tết Nguyên Đán và
phục vụ lễ hội. Hương Lai Triều luôn có một hương vị đặc trưng riêng, rất thơm
nhưng không quá ngào ngạt, một hương vị thanh khiết của thiên nhiên. Sở dĩ
như vậy bởi nguyên liệu làm hương được người dân chắt lọc từ thiên nhiên,
không hề pha thêm bất cứ hoá chất nào. Đó là rễ cây hương bài, mía, bột than
tồn tính và nhựa trám. Để làm ra một nén hương, trước hết, người sản xuất phải
trộn nhựa trám với bột than tồn tính. Mía và rễ hương bài cũng được băm phơi
khô, nghiền nhỏ và trộn đều, tạo nên hỗn hợp khô. Tăm tre sau khi được vuốt
với hỗn hợp than và nhựa trám được lăn đều qua hỗn hợp mía và rễ hương.
Hương làm ra được bó thành từng bó và phơi khô dưới nắng, thường là 100 200 nén/ bó. Do công đoạn sản xuất và phơi khô một cách tự nhiên nên hương
Lai Triều luôn có một vị ngọt ngào thanh khiết, rất được người tiêu dùng ưa
chuộng.

Đến quê hương Lai Triều, ta sẽ dễ dàng bắt gặp những hình ảnh cả gia đình
cùng làm hương, đủ mọi độ tuổi: từ người già, trung niên tới trẻ nhỏ. Nhưng
công việc không vì thế mà trở nên dễ dàng. Chỉ khi tham gia, ta mới thấy được
những khó khăn, vất vả của nghề. Bởi người làm hương luôn ở trong một không
gian đầy những bụi hương, rất dễ làm đầu óc căng thẳng, đòi hỏi người làm phải
thật chuyên tâm. Riêng công đoạn pha chế nguyên liệu thì chỉ những người có
kinh nghiệm mới có thể làm được. Đây là một công đoạn vô cùng quan trọng
bởi nó cách pha chế nguyên liệu tạo nên hương vị của nén hương. Tuỳ vào mỗi
gia đình mà có những tỉ lệ pha trộn khác nhau. Trong nghề luôn có những bí
quyết pha trộn riêng và chỉ truyền lại cho con trai và con dâu chứ không truyền
nghề cho con gái bởi con gái khi đi lấy chồng sẽ có thể mang nghề truyền thống
sang làng khác. Sản phẩm hương Lai Triều thường là hương nén và hương sào.
Hương sào cao khoảng 50- 60 phân, đường kính khoảng 1cm với giá thành từ
20- 30 nghìn/nén. Hương nén thì nhỏ và rẻ hơn. Có loại 30 phân, có loại 40- 50

18


phân, đường kính khoảng 0.4mm. Hương nén được bó và bán theo từng trăm.
Giá thành khoảng 15- 30 nghìn/ trăm hương
Cho đến nay, nghề làm hương đã trở thành một nghề chính, tồn tại cùng với
sản xuất nông nghiệp. Trước đây, làng có 120 hộ thì có tới gần 100 hộ làm
hương. Ngày nay, số hộ làm hương tuy đã giảm nhưng nhiều gia đình đã chuyển
từ sản xuất nhỏ sang sản xuất theo quy mô lớn hơn, thu hút được nhiều lao động.
Có những gia đình thu nhập hàng tháng lên tới 15- 20 triệu đồng. Sản phẩm của
nghề không chỉ được người trong tỉnh ưa chuộng mà còn tiêu thụ và đặt thương
hiệu vững chắc trên cả nước
Mỗi làng mỗi nghề. Đối với người dân Lai Triều, làm hương không chỉ là
một nghề làm lúc nông nhàn mà còn tăng thêm thu nhập, tạo công ăn việc làm
cho mọi người. Tháng 8/ 2004, người dân Lai Triều vui mừng đón nhận bằng

làng nghề truyền thống do UBNN tỉnh Thái Bình trao tặng.
Làng dệt chiếu Hới.
Làng Hới (Thái Bình) có nghề dệt chiếu lâu đời và nổi tiếng ở nước ta.
Chiếu Hới còn gọi là chiếu Hưng Nhân theo tên huyện cũ, là chiếu Hưng Hà
theo tên huyện mới, và chiếu Thái Bình (tên tỉnh).
Như thế, sản phẩm chiếu dệt thủ công của làng Hới từ lâu đã trở thành một
sản phẩm tiêu biểu không chỉ của một địa phương nhỏ, mà của cả một tỉnh nông
nghiệp. Chưa có ai biết nghề chiếu xuất hiện ở Hới từ bao giờ, cũng như Tổ
nghề thật sự là ai. Theo truyền thuyết, vào thời Tiền Lê - Lý (thế kỷ X-XI), làng
Hới đã bắt đầu dệt chiếu, rồi phát triển mạnh vào thời Hậu Lê (thế kỷ XV).
Nghề dệt chiếu Hới thịnh đạt lúc bấy giờ là nhờ công lao của Trạng nguyên
Phạm Đôn Lễ (1457 - ?)- Ông người làng Hải Triều, huyện Ngự Thiêm, phủ Tân
Hưng. Ông thi đỗ Trạng nguyên khoa thi Tân Sửu, niêu hiệu Hồng Đức năm thứ
12 (1481) làm quan tới chức Thượng thư. Khi ông lớn lên, làng Hới đã có nghề
dệt chiếu từ lâu. Nhưng chiếu dệt khung đứng, không có ngựa đỡ sợi nên chiếu
không đẹp. Đi sứ sang Trung Quốc, khi qua vùng Ngọc Hà, Châu Quế Lâm, tỉnh
Quảng Tây, Phạm Đôn Lễ đã tìm hiểu và học được bí quyết kỹ thuật dệt chiếu
của người Trung Quốc. Đó là kỹ thuật dệt khung nằm, có ngựa đỡ sợi dọc, làm
cho sợi đay căng, chao cói nhanh hơn và chiếu đẹp hơn. Ông đã phổ biến kinh
nghiệm và kỹ thuật dệt mới cho nhân dân. Ông cho cải tiến khung dệt. Nhờ vậy,
chiếu Hới đẹp hơn và nổi tiếng từ đó.

19


Dân làng tôn ông là ông Tổ nghề dệt chiếu, gọi ông là "Trạng Chiếu" và lập
đền thờ sau khi ông mất; đền thờ Phạm Trạng Nguyên.
Chiếu Hới có nhiều loại: chiếu cài hoa, chiếu đậu, chiếu trơn, chiếu cạp
điều, chiếu đót, chiếu sợi xe... với nhiều kích cỡ khác nhau. Trước đây, ở Hới có
loại chiếu gon bền, đẹp nổi tiếng rất được ưa chuộng. Lịch Sử Văn học Việt

Nam còn ghi lại giai thoại cô gái bán chiếu gon bên Hồ Tây ở kinh đô hồi thế kỷ
XV. Đó là cuộc gặp gỡ tài tử, giai nhân giữa Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ,
với những câu thơ đối đáp trữ tình giữa nhà thơ lớn với cô bán chiếu tài sắc:
Nàng ở đâu đi bán chiếu gon
Phải chăng chiếu bán hết hay còn
Xuân canh chừng độ bao nhiêu tuổi
Đã có chồng chưa, được mấy con?
Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon
Hỏi chi chiếu bán hết hay còn ?
Xuân canh chừng độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, hỏi chi con?
Mãi đến thời nhà Nguyễn, chiếu Hới vẫn là loại chiếu tốt nhất, chưa có
loại chiếu nào khác trong vùng cạnh tranh nổi. Nhân dân quanh vùng có câu
phương ngôn: "Ăn cơm hom, nằm giường hòm, đắp chiếu Hới". Bởi chiếu Hới
không chỉ đẹp, bền mà còn có thể dùng đắp thay chăn, cũng rất ấm. Làng Hới
dệt chiếu nhưng chỉ trồng đay mà không trồng cói. Đó là nét đặc biệt của làng
chiếu này, khác hẳn các làng và trung tâm nghề dệt chiếu khác ở miền Bắc nước
ta - dệt chiếu gắn liền với trồng cói là nguyên liệu. Làng Hới xưa nay trồng khá
nhiều đay, đủ đáp ứng nhu cầu se sợi dệt chiếu, ít mua đay sợi của các nơi khác.
Kỹ thuật vê đay (se sợi đay), cải tiến khung dệt, kỹ thuật chế biến cói và dệt các
loại chiếu của thợ thủ công làng Hới vừa cao vừa độc đáo, đã tạo ra những sản
phẩm đặc sắc.
Khác với nhiều làng nghề Việt Nam, ở Hới chưa có gia đình nào thoát ly hẳn
sản xuất nông nghiệp. Người ta chỉ dệt chiếu trong 8 tháng mỗi năm, còn 4
tháng thì làm ruộng. Chiếu Hới bây giờ vẫn được ưa chuộng ở nhiều nơi. Địa
phương đã cố gắng tìm thị trường quốc tế, tìm đối tác kinh doanh, đang xuất
sang Trung Quốc những lô hàng lớn. Những người thợ tài hoa làng Hới còn cải

20



tiến công nghệ, tìm cách dệt loại sản phẩm mới để xuất sang một số nước tư bản
phát triển. Đó là loại chiếu dệt sợi dọc bằng sợi vải, viền mép (biên) bằng vải.
Bánh Cáy Làng Nguyễn:
Dù ai đi đông đi tây
Nhớ mùi bánh Cáy ngất ngây trong lòng.
Bánh Cáy Thái Bình, hấp dẫn thực khách ban đầu cũng bởi cái tên. Loại
bánh tưởng chừng quà của biển, ăn vào lại thấy gạo nếp, lạc vừng, mứt bí, cơm
dừa… những mùi vị của thênh thang đồng rộng…
Không cần những biển báo địa giới, không cần những lời hỏi thăm đường
xá vòng vèo, qua đất Nam Định, có một đặc điểm người ta biết đã đặt chân tới
đất Thái Bình, ấy là bạt ngàn những cửa hàng bán bánh Cáy. Như bánh đậu xanh
của Hải Dương, bánh phu thê của Bắc Ninh, bánh Cáy từ bao đời nay đã trở
thành niềm tự hào của miền đất lúa.
Bánh Cáy là quà ngon được làm từ bàn tay khéo léo của những người dân
làng Nguyễn, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Từ thành phố Thái Bình, xuôi
theo quốc lộ 10, rồi rẽ vào quốc lộ 39, gặp xã Nguyên Xá, ngửi thấy từ đầu làng
mùi thơm ngọt ngào của gạo nếp, của nha, của mứt, ấy là khứu giác tự mách bảo
với ta, đến đất làng Nguyễn- quê tổ món bánh Cáy làm nức lòng thực khách.
Bánh Cáy Thái Bình, ban đầu có tên bánh Cay, được làm ra bởi một bà lão
quanh năm với nghề nông, mang tiến vua được ngợi khen, làng Nguyễn từ đó
nức tiếng với món bánh Cay độc đáo. Một giấc mơ của bà lão kì lạ có con cáy
đến khóc, lúc bà qua đời, xác bà khi mang xuống biển lại có sóng rẽ, đón bà vào
lòng đại dương, từ đó tên bánh Cáy được đặt cho món bánh ngọt ngon.
Bánh Cáy trước đây được làm hoàn toàn thủ công, nhưng nay, đáp ứng nhu cầu
lớn của thị trường, máy móc hỗ trợ người làng Nguyễn rất lớn trong việc làm ra
những vuông bánh ngọt thơm.
Bánh Cáy làng Nguyễn hôm nay được sản xuất hiện đại hơn, với những
người thợ làm bánh lành nghề, chuyên nghiệp.
Tận mắt chứng kiến một dây chuyền sản xuất bánh Cáy của một gia đình có

truyền thống lâu năm với món bánh độc đáo này, mới thấy hết được cái tâm
người ta dành cho món ăn quê hương. Bánh Cáy làng Nguyễn được làm hoàn
toàn bằng nông sản quê hương: nếp cái hoa vàng tròn mẩy, gấc chín đỏ, lạc,
vừng rang vàng giòn rụm, mỡ phần, cơm dừa xắt lát ướp đường, mứt bí dẻo

21


thơm, mạch nha, hương bưởi dịu thơm cho món bánh thêm hấp dẫn.
Bánh Cáy làng Nguyễn chính hiệu phải làm cầu kì chứ không đơn giản. Nếp cái
hoa vàng ngâm nước, trộn gấc đỏ đồ xôi, rồi ép dẻo, xắt hạt lựu lại đem phơi
khô (người làng Nguyễn gọi đây là “con cáy”). Thóc tẻ bung trong nồi gang, cho
xòe cánh thành một thức gọi là “nẻ”. Mỡ phần loại ngon, cơm dừa bào sợi, cho
ướp đường nửa tháng. Chiên vàng nẻ, “con cáy”, trong dầu ăn. Mạch nha được ủ
công phu từ mầm lúa gạo đem nấu già trên bếp than đỏ hồng, đảo thật khéo, thật
đều tay cáy con, nẻ, mỡ phần, cơm dừa, mứt bí, gừng sợi, thêm hương hoa bưởi
đến độ kết dính thích hợp. Xong xuôi, bánh cáy cho vào khay ép phẳng, tranh
thủ lúc bánh còn nóng rắc một lớp vừng lạc cho thơm. Một anh thợ lành nghề
tay thước, tay dao cắt bánh nhanh thoăn thoắt. Từng vuông bánh khi ấy đem
đóng hộp, dãn nhãn, sẵn sàng mang đến những thực khách đang nóng lòng
thưởng thức.
Công nghệ có hiện đại, máy móc giúp cho người làm bánh đỡ cực trong
việc nhào trộn nguyên liệu, chiên, ép bánh, nhưng người làm bánh làng Nguyễn
có tâm vẫn ngày đêm trăn trở tìm ra một công thức trộn nha thế nào để bánh
không quá ngọt, không quá nhạt, nấu sao cho bánh vừa chín dẻo, mà không
cháy, không khô cứng.
Miếng bánh Cáy ngon phải có độ dẻo, ngọt vừa phải, gạo nếp, lạc vừng dậy
mùi. Cắn miếng bánh thấy cái lạ miệng khi trong đó có mứt bí, cơm dừa sần sật,
cay cay nồng nồng của mùi vị gừng tươi, nhấp chén nước trà đăng đắng thấy
hương vị hòa quyện.

2.2. Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống Thái Bình hiện nay.
2.2.1. Lao động và chất lượng lao động .
Có thể nói các làng nghề đã có những đóng góp tích cực trong việc nâng
cao đời sống, văn hóa, tinh thần của người dân mà trực tiếp là những người lao
động nghề. Đối với lược lựng lao động trực tiếp làm nghề có khoảng 60% tốt
nghiệp phổ thông cơ sở, 30% tôt nghiệp trung học phổ thông. Như vậy rõ rang
số người tốt nghiệp trung học phổ thông ở làng nghề đã cao hơn nhiều so với
mặt bằng chung của tỉnh. Về trình độ chuyên môn kĩ thuật do hầu hết các nghề
là đơn giản nên lao động chủ yếu không được đào tạo hoặc chỉ được học tập qua
những lớp bồi dưỡng ngắn hạn. Các làng nghề truyền thống chủ yếu đào tạo
bằng hình thức truyền nghề.

22


Tính đến năm 2000 hầu hết các xã trong tỉnh đều có ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ chủ trương của tỉnh ủy, Ủy Ban Nhân Dân tỉnh đã tạo
điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các làng nghề đã có, tích cực học hỏi du
nhập nghề mới từ nơi khác với mục tiêu mỗi năm thành lập 10-15 làng nghề.
Đây là một chủ trương lớn phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nông dân.
Theo số liệu ước tính tổng số lao động tham gia sản xuất công nghiệp- tiểu thủ
công nghiệp toàn tỉnh hiện nay khoảng 16 vạn người chiếm 20% lao động. Khả
năng tận dụng lao động trong các làng nghề là tương đối lớn bởi nó không chỉ sử
dụng lao động trong độ tuổi mà còn tận dụng được những người ngoài độ tuổi
tham gia.
2.2.2. Số lượng và quy mô các làng nghề truyền thống ở Thái Bình.
Số lượng làng nghề truyền thống Thái Bình.
Hiện nay, Thái Bình có 82 làng nghề theo tiêu chuẩn quy định. Trong đó
huyện Kiến Xương có 15, Đông Hưng 8, Vũ Thư 11, Quỳnh Phụ 10, Thái Thụy
7, Hưng Hà 16, Tiền hải 14, Thị Xã 1.

Chia theo nhóm nghề ta có như sau:
Nghề dệt may ươm tơ
11 làng
Cơ khí
5 làng
Chế biến lương thực thực phẩm
10 làng
Dệt chiếu cói
10 làng
Chạm bạc
5 làng
Mây tre đan
13 làng
Nghề sản suất đồ gỗ
2 làng
Nghề khác
26 làng
Một số nghề trong thời gian gần đây phát triển mạnh như: thêu, dệt, ươm tơ.
Bảng 1: Số hộ, cơ sở chuyên ngành nghề chia theo nhóm ngành toàn tỉnh
Tổng
số
1.Số hộ chuyên
ngành nghề (hộ)
2. Cơ sở chuyên

Chế biến
Tổng
%

CN, TTCN, XD

Tổng
%

66767

39644

59,38 20313

404

35

8,66

30,4

Dịch vụ
Tổng %
6810

10,2

166
1,09
203
50,2
( Nguồn : Báo Nhân dân Thái Bình)
Theo số lượng thống kê ở Thái Bình hộ chuyên ngành nghề chiếm khoảng
10% hộ kiêm trong những năm gần qua có bước phát triển khá đạt 28%, vẫn còn


23


tới 62% số hộ thuần nông. Phần lớn số hộ nghèo đều nằm trong số hộ thuần
nông này.
2.2.3. Tổ chức sản xuất kinh doanh.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các làng nghề truyền thống tồn tại
dưới hình thức hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, lúc đó sản xuất nông nghiệp là
chính còn nghề thủ công có phát triển nhưng chỉ được côi là nghề phụ, bổ trợ
cho nông nghiệp. Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng chủ
nghĩa xã hội. Đảng và nhà nước có chủ trương chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần, các làng nghề truyền thống dần dần được khôi phục. Đồng
thời, các làng nghề mới được xây dựng và phát triển, tổ chức sản xuất theo hình
thức cá thể, hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn
tham gia hoạt động theo pháp luật, tạo ra sản phẩm phục vụ thị trường trong
nước và xuất khẩu.
Bên cạnh loại hình sản xuất theo hộ gia đình, trong làng nghề truyền thống
còn có loại hình sản xuất hợp tác xã được tổ chức theo hình thức tập trung đảm
bảo việc cung cấp nguyên liệu và tiêu throng làng thụ sản phẩm trong làng nghề
truyền thống. Tuy nhiên, loại hình sản xuất hợp tác xã hiện nay trong các làng
nghề truyền thống có phát triển song chưa nhiều chiếm tỉ trọng rất nhỏ.
2.2.4. Vốn và nguồn vốn trong các làng nghề.
So với các làng nghề trong cả nước ở Thái Bình mức vốn đầu tư bình quân
không lớn lắm. Ngoài một số nghề vốn có đầu tư lớn như nghề gốm sứ, chạm
bạc, cơ khí còn lại chủ yếu là các nghề có mức đầu tư không lớn như: Nghề mây
tre đan, dệt chiếu, đan nón, thêu dệt….
Tỷ lệ hộ/cở sở phải đi vay vốn chiếm từ 50 – 70% trong đó đối với cơ sở
chuyên nghề tỷ lệ vay vốn chiếm tỷ lệ cao 76,9% so với 20,5% hộ chuyên và

16,7% hộ kiêm. Như vậy tỷ lệ vay vốn từ ngân hàng còn rất thấp đối với hộ gia
đình có hoạt động nghành nghề nguồn vốn từ các chương trình Nhà Nước không
đáng kể, mặc dù phát triển làng nghề là một trong năm chương trình kinh tế lớn
của tỉnh Thái Bình song xem ra còn thiếu những biện pháp cụ thể nhằm hộ trợ
vốn cho người sản xuất. Những con số trên cho thấy sự chưa hiệu quả của thị
trường tài chính Nhà nước đối với hộ nông dân. Phần lớn vốn vay từ Nhà Nước
tài chính phi chính thức với lãi xuất cao hoặc giựa vào quan hệ của huyện tộc

24


làng xã. Vốn đầu tư ban đầu cho các ngành nghề ở Thái bình thường không cao
đây là một thuận lợi trong việc mở mang phát triển nghề. Tuy nhiên để sản
phẩm của các làng nghề có chất lượng, có khả năng cạnh tranh trên thị trường
thì chúng ta còn phải đầu tư nhiều hơn.
Bảng 2: Vốn đầu tư ban đầu cho một chỗ làm việc.
Vốn
đầu tư
Nghề SX
toàn bộ
(trđ)
1.thêu ren
0,5
2.Dệt chiếu
1,2
3.Dệt đũi
4,5
4.Mây tre đan 0,2
5.Làm bún
1,5

6.Mộc
5,8

Trong đó
thiết bị

Nguyên
liệu

0,2
0,8
1,5
0,12
1
4

0,3
0,4
3
0,08
0,5
1,8

Số lao động

VĐT ban
đầu/ LĐ

1
1

3
1
2
3

0,5
1,2
1,5
0,2
0,75
1,9

(Nguồn : Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch Thái Bình, 2012)
2.2.5. Kỹ thuật công nghệ của các làng nghề.
Công nghệ trong các làng nghề:
Chủ yếu vẫn là sản xuất thủ công một số do đặc tính của sản phẩm một số
do thiếu vốn đầu tư. Tuy nhiên ngày càng có nhiều máy móc được đưa vào sử
dụng để thay thế sức lao động của con người đặc biệt là những khâu nặng nhọc
độc hại.
Sở dĩ các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp làm thủ công chủ yếu vì: các
hình thức tổ chức ở dạng cá thể là chủ yếu quy mô nhỏ, vốn ít không năng động
trong đầu tư cải tiến công nghệ chỉ có một số nghề như dệt may, chế biến gỗ,
lương thực thực phẩm là tỉ lệ cơ khí hóa cao hơn.

25


×