Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

thu hút đầu tư nước ngoài FDI và thực trạng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.96 KB, 34 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng

Biểu đồ

1


I - Tổng quan về FDI

I.1 Khái niệm và bản chất
 Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một hoạt động kinh doanh quốc tế dựa trên cơ
sở của quá trình dịch chuyển tư bản giữa các quốc gia, chủ yếu do các pháp nhân hoặc thể
nhân thực hiện theo những hình thức nhất định trong đó chủ đầu tư tham gia trực tiếp vào
quá trình điều hành, quản lý và sử dụng vốn đầu tư.
Xuất hiện vào cuối thế kỷ 19, FDI nhanh chóng khẳng định được vị trí của mình
trong hệ thống các quan hệ kinh tế quốc tế. Đến nay khi FDI đã trở thành xu hướng của
thời đại thì cũng là một nhân tố quan trọng góp phần đẩy mạnh lợi thế so sánh của các
nước và mang lại quyền lợi cho cả đôi bên.


Bản chất của FDI



Có sự thiết lập về quyền sở hữu về tư bản của công ty một nước ở một nước




Có sự kết hợp quyền sở hữu với quyền quản lí các nguồn vốn đã được đầu



Có kèm theo quyền chuyên giao công nghệ và kỹ năng quản lí



Có liên quan đến việc mở rộng thị trường của các công ty đa quốc gia



Gắn liên với sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại

khác


quốc tế.
1.2. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài
 Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài
Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức truyền thống và phổ
biến của FDI. Với hình thức này, các nhà đầu tư, cùng với việc chú trọng khai thác những
lợi thế của địa điểm đầu tư mới, đã nỗ lực tìm cách áp dụng các tiến bộ khoa học công
nghệ, kinh nghiệm quản lý trong hoạt động kinh doanh để đạt hiệu quả cao nhất. Hình
thức này phổ biến ở quy mô đầu tư nhỏ nhưng cũng rất được các nhà đầu tư ưa thích đối
với các dự án quy mô lớn. Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia thường đầu tư theo hình
2



thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và họ thường thành lập một công ty con của
công ty mẹ xuyên quốc gia.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước
ngoài nhưng phải chịu sự kiểm soát của pháp luật nước sở tại (nước nhận đầu tư). Là một
pháp nhân kinh tế của nước sở tại, doanh nghiệp phải được đầu tư, thành lập và chịu sự
quản lý nhà nước của nước sở tại. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp
thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại nước chủ nhà, nhà đầu tư phải tự quản
lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Về hình thức pháp lý, dưới hình thức này,
theo Luật Doanh nghiệp 2005, có các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh
nghiệp tư nhân, công ty cổ phần…
Hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài có ưu điểm là nước chủ nhà không cần bỏ
vốn, tránh được những rủi ro trong kinh doanh, thu ngay được tiền thuê đất, thuế, giải
quyết việc làm cho người lao động. Mặt khác, do độc lập về quyền sở hữu nên các nhà
đầu tư nước ngoài chủ động đầu tư và để cạnh tranh, họ thường đầu tư công nghệ mới,
phương tiện kỹ thuật tiên tiến nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao, góp phần nâng cao trình
độ tay nghề người lao động. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là nước chủ nhà khó tiếp nhận
được kinh nghiệm quản lý và công nghệ, khó kiểm soát được đối tác đầu tư nước ngoài và
không có lợi nhuận.
 Thành lập doanh nghiệp liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước
ngoài
Đây là hình thức được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ trước tới nay. Hình thức
này cũng rất phát triển ở Việt Nam, nhất là giai đoạn đầu thu hút FDI. DNLD là doanh
nghiệp được thành lập tại nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa Bên hoặc
các Bên nước chủ nhà với Bên hoặc các Bên nước ngoài để đầu tư kinh doanh tại nước sở
tại
Như vậy, hình thức DNLD tạo nên pháp nhân đồng sở hữu nhưng địa điểm đầu tư
phải ở nước sở tại. Hiệu quả hoạt động của DNLD phụ thuộc rất lớn vào môi trường kinh
doanh của nước sở tại, bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, mức độ hoàn thiện pháp luật,
trình độ của các đối tác liên doanh của nước sở tại... Hình thức DNLD có những ưu điểm
là góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn, nước sở tại tranh thủ được nguồn vốn lớn để

phát triển kinh tế nhưng lại được chia sẻ rủi ro; có cơ hội để đổi mới công nghệ, đa dạng
3


hóa sản phẩm; tạo cơ hội cho người lao động có việc làm và học tập kinh nghiệm quản lý
của nước ngoài; Nhà nước của nước sở tại dễ dàng hơn trong việc kiểm soát được đối tác
nước ngoài. Về phía nhà đầu tư, hình thức này là công cụ để thâm nhập vào thị trường
nước ngoài một cách hợp pháp và hiệu quả, tạo thị trường mới, góp phần tạo điều kiện
cho nước sở tại tham gia hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, hình thức này có
nhược điểm là thường dễ xuất hiện mâu thuẫn trong điều hành, quản lý doanh nghiệp do
các bên có thể có sự khác nhau về chế độ chính trị, phong tục tập quán, truyền thống, văn
hóa, ngôn ngữ, luật pháp. Nước sở tại thường rơi vào thế bất lợi do tỷ lệ góp vốn thấp,
năng lực, trình độ quản lý của cán bộ tham gia trong DNLD yếu.
 Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC)
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư
nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập
pháp nhân
Hình thức đầu tư này có ưu điểm là giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, công
nghệ; tạo thị trường mới, bảo đảm được quyền điều hành dự án của nước sở tại, thu lợi
nhuận tương đối ổn định. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là nước sở tại không tiếp nhận
được kinh nghiệm quản lý; công nghệ thường lạc hậu; chỉ thực hiện được đối với một số
ít lĩnh vực dễ sinh lời như thăm dò dầu khí.
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh không thành lập pháp nhân riêng và mọi
hoạt động BCC phải dựa vào pháp nhân của nước sở tại. Do đó, về phía nhà đầu tư, họ rất
khó kiểm soát hiệu quả các hoạt động BCC. Tuy nhiên, đây là hình thức đơn giản nhất,
không đòi hỏi thủ tục pháp lý rườm rà nên thường được lựa chọn trong giai đoạn đầu khi
các nước đang phát triển bắt đầu có chính sách thu hút FDI. Khi các hình thức 100% vốn
hoặc liên doanh phát triển, hình thức BCC có xu hướng giảm mạnh.
 Hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT
BOT là hình thức đầu tư được thực hiện theo hợp đồng ký kết giữa cơ quan nhà

nước có thẩm quyền và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu
hạ tầng trong một thời gian nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi
hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam
BTO và BT là các hình thức phái sinh của BOT, theo đó quy trình đầu tư, khai
thác, chuyển giao được đảo lộn trật tự.
4


Hình thức BOT, BTO, BT có các đặc điểm cơ bản: một bên ký kết phải là Nhà
nước; lĩnh vực đầu tư là các công trình kết cấu hạ tầng như đường sá, cầu, cảng, sân bay,
bệnh viện, nhà máy sản xuất, điện, nước...; bắt buộc đến thời hạn phải chuyển giao không
bồi hoàn cho Nhà nước.
Ưu điểm của hình thức này là thu hút vốn đầu tư vào những dự án kết cấu hạ tầng,
đòi hỏi lượng vốn lớn, thu hồi vốn trong thời gian dài, làm giảm áp lực vốn cho ngân sách
nhà nước. Đồng thời, nước sở tại sau khi chuyển giao có được những công trình hoàn
chỉnh, tạo điều kiện phát huy các nguồn lực khác để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, hình
thức BOT có nhược điểm là độ rủi ro cao, đặc biệt là rủi ro chính sách; nước chủ nhà khó
tiếp nhận kinh nghiệm quản lý, công nghệ.
 Đầu tư mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp
Đây là hình thức thể hiện kênh đầu tư Cross - border M & As đã nêu ở trên. Khi thị
trường chứng khoán phát triển, các kênh đầu tư gián tiếp (FPI) được khai thông, nhà đầu
tư nước ngoài được phép mua cổ phần, mua lại các doanh nghiệp ở nước sở tại, nhiều nhà
đầu tư rất ưa thích hình thức đầu tư này.
Ở đây, về mặt khái niệm, có vấn đề ranh giới tỷ lệ cổ phần mà nhà đầu tư nước
ngoài mua - ranh giới giúp phân định FDI với FPI. Khi nhà đầu tư nước ngoài tham gia
mua cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán nước sở tại, họ tạo nên kênh đầu tư
gián tiếp nước ngoài (FPI). Tuy nhiên, khi tỷ lệ sở hữu cổ phiếu vượt quá giới hạn nào đó
cho phép họ có quyền tham gia quản lý doanh nghiệp thì họ trở thành nhà đầu tư FDI.
Luật pháp Hoa Kỳ và nhiều nước phát triển quy định tỷ lệ ranh giới này là 10%. Đối với
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, tỷ lệ này được quy định là 30%.

Hình thức mua cổ phần hoặc mua lại toàn bộ doanh nghiệp có ưu điểm cơ bản là
để thu hút vốn và có thể thu hút vốn nhanh, giúp phục hồi hoạt động của những doanh
nghiệp bên bờ vực phá sản. Nhược điểm cơ bản là dễ gây tác động đến sự ổn định của thị
trường tài chính. Về phía nhà đầu tư, đây là hình thức giúp họ đa dạng hoá hoạt động đầu
tư tài chính, san sẻ rủi ro nhưng cũng là hình thức đòi hỏi thủ tục pháp lý rắc rối hơn và
thường bị ràng buộc, hạn chế từ phía nước chủ nhà.
1.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm chủ yếu sau:

5


Thứ nhất, gắn liền với việc di chuyển vốn đầu tư, tức là tiền và các loại tài sản
khác giữa các quốc gia, hệ quả là làm tăng lượng tiền và tài sản của nền kinh tế nước tiếp
nhận đầu tư và làm giảm lượng tiền và tài sản nước đi đầu tư.
Thứ hai, được tiến hành thông qua việc bỏ vốn thành lập các doanh nghiệp mới
(liên doanh hoặc sở hữu 100% vốn), hợp đồng hợp tác kinh doanh, mua lại các chi nhánh
hoặc doanh nghiệp hiện có, mua cổ phiếu ở mức khống chế hoặc tiến hành các hoạt động
hợp nhất và chuyển nhượng doanh nghiệp.
Thứ ba, nhà đầu tư nước ngoài là chủ sở hữu hoàn toàn vốn đầu tư hoặc cùng sở
hữu vốn đầu tư với một tỷ lệ nhất định đủ mức tham gia quản lý trực tiếp hoạt động của
doanh nghiệp.
Thứ tư, là hoạt động đầu tư của tư nhân, chịu sự điều tiết của các quan hệ thị
trường trên quy mô toàn cầu, ít bị ảnh hưởng của các mối quan hệ chính trị giữa các nước,
các chính phủ và mục tiêu cơ bản luôn là đạt lợi nhuận cao.
Thứ năm, nhà đầu tư trực tiếp kiểm soát và điều hành quá trình vận động của dòng
vốn đầu tư.
Thứ sáu, FDI bao gồm hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào trong nước và đầu tư
từ trong nước ra nước ngoài, do vậy bao gồm cả vốn di chuyển vào một nước và dòng vốn
di chuyển ra khỏi nền kinh tế của nước đó.
Thứ bảy, FDI chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia thực hiện.

Các đặc điểm nêu trên mang tính chất chung cho tất cả các hoạt động FDI trên toàn
thế giới. Đối với Việt Nam, quá trình tiếp nhận FDI diễn ra đã được 20 năm và những đặc
điểm nêu trên cũng đã thể hiện rõ nét. Chính những đặc điểm này đòi hỏi thể chế pháp lý,
môi trường và chính sách thu hút FDI phải chú ý để vừa thực hiện mục tiêu thu hút đầu
tư, vừa bảo đảm mối quan hệ cân đối giữa kênh đầu tư FDI với các kênh đầu tư khác của
nền kinh tế.

1.4

Sự tác động của đầu tư trực tiếp
Hoạt động FDI có tình hai mặt với nước đầu tư cũng như nước tiếp nhận đầu tư

đều có tác động tiêu cực và tác động tích cực.

1.4.1
Sự tác động của nước đi đầu tư
1.4.1.1 . Tác động tích cực
6


Do đầu tư là người nước ngoài là người trực tiếp điều hành và quản lí vốn nên họ
có trách nhiệm cao, thường đưa ra những quyết định có lợi cho họ. Vì thế họ có đảm bảo
hiệu quả của vốn FDI. đầu tư nước ngoài mở rộng được thị trường tiêu thị sản phẩm
nguyên liệu, cả công nghệ và thiết bị trong khu vực mà họ đâù tư cũng như trên thế giới.
Do khai thác được nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ, thị trường tiêu thụ rộng
lớn nên có thể mở rộng quy mô, khai thác được lợi thế kinh tế của quy mô từ đó có thể
nâng cao năng suất, giảm giá thành sản phẩm. Tránh được các hàng rào bảo hộ mâu dịch
và phí mậu dịch của nước tiếp nhận đầu tư với thông qua FDI chủ đầu tư hay doanh
nghiệp nước ngoài xây dựng được các doanh nghiệp của mình nằm trong lòng nước thì
hành chính sách bảo hộ.


1.4.1.2 . Tác động tiêu cực
Khi các doanh nghiệp thực hiện việc đầu tư ra nước ngoài thì trong nứơc sẽ mất đi
khoản vốn đầu tư, khó khăn hơn trong việc tìm nguồn vốn phát triển cũng như giải quyết
việc làm. do đó trong nước có thể dẫn tới nguy cơ suy thoái, vì thế mà nước chủ nhà
không đưa ra những chính sách khuyên khích cho việc đầu tư ra nước ngoài. đâù tư ra
nước ngoài thì doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn trong môi trường mới
về chính trị, sự xung đột vũ trang của các tổ chức trong các quốc gia hay những tranh
chấp nội bộ của quốc gia hay đơn thuần chỉ là sự thay đổi trong chính sách và pháp luật
của quốc gia tiếp nhận… tất cả những điều đó đều khiến cho các doanh nghiệp có thể rời
vào tình trạng mất tài sản cơ sở hạ tầng. Do vậy mà họ thường phải đầu tư vào các nước
ổn định về chính trị cũng như trong chính sách và môi trường kinh tế.
1.4.2. Sự tác động đối với nước tiếp nhận đầu tư
1.4.2.1. Tác động tích cực
Nhờ nguồn vốn FDI đầu tư mà có thể có điều khiến tốt để khai thác tốt nhất các lợi
thế về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lí. Bởi các nước tiếp nhận thì thường là nước đang
phát triển có tài nguyên song không biệt cách khai thác.

7


Tạo điều kiện để khai thác được nguồn vốn từ bên ngoài do không quy định mức
vốn góp tối đa mà chỉ quyết định mức vốn góp tối thiểu cho nhà đầu tư.
Thông qua việc hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài hay cạnh tranh với doanh
nghiệp nước ngoài và tiếp thu được kỹ thuật công nghệ hiện đại hay tiếp thu được kính
nghiệm quản lí kinh doanh của họ.
Tạo điều kiện để tạo việc làm, tăng tốc độ tăng trưởng của đối tượng bỏ vốn cũng
như tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế, qua đó nâng cao đời sống nhân dân.
Khuyến khích doanh nghiêp trong nước tăng năng lực kinh doanh, cải tiến công
nghệ mới nâng cao năng suất chất lượng giảm giá thành sản phẩm do phải cạnh tranh với

doanh nghiệp nước ngoài, một mặt khác thông qua hợp tác với nước ngoài có thể mở rộng
thị trường thông qua tiếp cận với bạn hàng của đối tác đầu tư.
1.4.2.2. Tác động tiêu cực
Nếu không có quy hoạch cụ thể và khoa học, có thể đầu tư tràn lan kém hiệu qua,
tài nguyên thiên nhiên có thể bị khai táhc bừa bại về sẽ gây ra ô nhiễm môi trường
nghiệm trọng.
Môi trường chính trị trong nước có thể bị ảnh hưởng, các chính sách trong nước có
thể bị thay đổi do khi đầu tư vào thì các nhà đầu tư thường có các biện pháp vận động
quan chức địa phường theo hướng có lợi cho mình.
Hiệu quả của đầu tư phụ thuộc vào nước tiếp nhận có thể tiếp nhận từ các nước đi
đầu tư những công nghệ thiết bị lạc hậu không phù hợp với nền kinh tế gây ô nhiễm môi
trường.
Các lĩnh vực và địa ban đầu tư phục thuộc vào sự lựa chọn của nhà đầu tư nước
ngoài mà không theo ý muốn của nước tiếp nhận. Do vậy việc bổ trí cơ cấu đầu tư sẽ gặp
khó khắn sẽ tạo ra sự phát triển mất cân đối giữa các vùng.

8


Giảm số lượng doanh nghiệp trong nước do quá trình cạnh tranh nên nhiều doanh
nghiệp trong nước bị phá sản. hay ảnh hưởng tới can cần thành toán quốc tế do sự di
chuyển của các luồng vốn cũng như luồng hàng hoá ra vào trong nước.
Ngày này hầu hết việc đàu tư là của các công ty đa quốc gia vì thế các nước tiếp
nhận thường bị thua thiệt, thất thu thuế hay các liên doanh sẽ phải chuyển thành doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài do các vấn đề chuyển nhượng giá nội bộ của các công ty
này.
1.5. Xu hướng đầu tư trên thế giới
Các quốc gia trên thế giới đang có xu hướng đầu tư vào Việt Nam
Việt Nam có tiềm năng rất lớn để tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên vấn đề quan trọng
và cấp bách hiện nay là làm sao để cân đối giữa kiềm chế lạm phát và duy trì tốc độ tăng

trưởng kinh tế bền vững.
Đó là nhận xét của cựu Thượng Nghị sĩ Mỹ Paul Sarbanes, đồng tác giả của Đạo
luật Sarbanes-Oxley về bảo hiểm cho các nhà đầu tư, tại Hội nghị Thượng đỉnh Ngân
hàng Châu Á (Asian Banker Summit 2008) tổ chức lần đầu tiên tại Hà Nội từ 17-18/3.
Ông Paul Sarbanes cho rằng để kiềm chế lạm phát ngoài việc thắt chặt chính sách
tiền tệ cần phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, đặc biệt chú trọng đến yếu tố con
người, chất lượng quản lý và xây dựng hệ thống tài chính tổng thể.
Chia sẻ quan điểm này, ông David Eldon - Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Hội nghị
thượng đỉnh Asian Banker, cựu Chủ tịch Ngân hàng HSBC cho biết, cần phải có thời gian
để nền kinh tế thích nghi với các thay đổi trong thời kỳ hội nhập quốc tế và áp dụng các
biện pháp của các nước đã trải qua thời kỳ phát triển giống như Việt Nam hiện nay.
Hiện nay nhiều doanh nghiệp từ các quốc gia trên thế giới đang có xu hướng đầu
tư vào Việt Nam, đặc biệt là thị trường tài chính ngân hàng - một lĩnh vực còn mới mẻ và
đầy hứa hẹn, ông David nói.
Đề cập đến việc áp dụng các giải pháp công nghệ trong hiện đại hoá ngân hàng,
ông cho rằng hiện có hai xu hướng, một là với quy mô lớn, ngân hàng sẽ tự đầu tư công
nghệ. Hai là với quy mô nhỏ hơn, họ sẽ hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ thông tin
và nhà cung cấp giải pháp, như vậy sẽ dễ dàng cập nhật thường xuyên và đổi mới công
nghệ.

9


Asian Banker Summit đã tạo ra một cơ hội tốt để cộng đồng quốc tế hiểu thêm về
hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính Việt Nam, đồng thời giúp các ngân hàng Việt
Nam tiếp cận và hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế.
Phát biểu bên lề Hội nghị, Ông Emmual Daniel, Chủ tịch và Tổng Biên tập Tạp chí
The Asian Banker, cho rằng với lợi thế về nguồn nhân lực và nền kinh tế đang trên đà
phát triển cùng với các cam kết WTO, Việt Nam sẽ trở thành nước có nhiều tiềm năng và
sẽ đạt được tốc độ kinh tế phát triển cao trong những năm tới. Việt Nam cũng đang phải

đối mặt với một số thách thức, trong đó lớn nhất là các thông điệp gửi tới các nhà đầu tư
nước ngoài chưa rõ ràng và các hoạt động an ninh và bảo mật dữ liệu chưa hiệu qủa.
Tuy nhiên, ông cũng bày tỏ tin tưởng rằng Việt Nam sẽ vượt qua được các thách
thức này vì con người Việt Nam rất chăm chỉ, năng động và thông minh và Chính phủ
Việt Nam luôn sẵn sàng hỗ trợ các doanh nghiệp trong và ngoài nước.

II – Phân tích thực trạng đầu tư FDI tại Việt Nam trong những năm qua
2.1 Tình hình chung về FDI của Việt Nam
Trong vòng 28 năm kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực (1988-2016), Việt
Nam đã thu hút được khối lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký vào Việt
Nam là hơn 260,9 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện là hơn 124,2 Tỷ USD, chiếm 47,6 %,
với khoảng 19.277 số dự án đầu tư vào Việt Nam.
Vào ngày 11/1/2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO.Sự kiện
này mở ra cơ hội mới cho sự phát triển đất nước và cả những thách thức cần phải vượt
qua khi VN được tham gia vào tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu. Vì vậy tổng số vốn
đăng ký, tổng vốn thực hiện, số dự án đầu tư vào Việt Nam cũng có xu hướng tăng lên
mạnh mẽ. Từ năm 2006-2009, tổng vốn đăng ký tăng lên khoảng 128 tỷ USD ( gấp
khoảng 6 lần giai đoạn 2001-2005), tổng vốn thực hiện là khoảng 33.7 tỷ USD, trong đó
có 4910 số dự án đầu tư mới vào Việt Nam.

10


Biều đồ 2.: Đầu tư của khu vực FDI giai đoạn 2010 – 2014

Nguồn: Tổng cục Thống kê
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm ngày 15/12/2015 thu
hút 2013 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 15,58 tỷ USD, tăng 26,8% về
số dự án và giảm 0,4% về số vốn so với cùng kỳ năm 2014. Tổng vốn đăng ký của các dự
án cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 22,76 tỷ USD, tăng 12,5% so với năm 2014. Vốn đầu

tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2015 ước tính đạt 14,5 tỷ USD, tăng 17,4% so với
năm trước. Nhìn chung, môi trường đầu tư trong năm qua có chuyển biến tốt, các nhà đầu
tư nước ngoài cũng lạc quan hơn về tình hình kinh tế Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập
kinh tế thế giới, cộng đồng AEC, Hiệp định xuyên Thái Bình Dương ( TPP), EVFTA, các
AFTA gần đây với Hàn Quốc được thành lập, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn nữa trong
việc tiếp cận với các nguồn vốn.

Bảng 2.: Bảng số liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam quý I/2016
Vốn

đăng


Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Tổng

Vốn

thực

hiện
(triệu USD)
1.011,42
893,68
835,35
2.740,45

Số dự án

(triệu USD)
800
700
2.000
3.500

127
164
182
473

Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư

11


2.1.1. Quy mô vốn trên một dự án.
Nhìn chung các dự án FDI vào Việt Nam đều có quy mô vừa và nhỏ, trung bình
cho cả giai đoạn 1988-2014 là ở mức 14,22 triệu USD/dự án. Quy mô bình quân
dự án chiếm lớn nhất là Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (nếu không tính
tới khu vực dầu khí) mà chủ yếu tập trung ở năm 2008, với các dự án lớn nhất
nước đều tập trung ở vùng này.
FDI tính bình quân tỉnh (thành phố) cho thấy vùng đồng bằng sông Hồng đứng đầu
với bình quân mỗi tỉnh thành thu hút được 16,5 tỷ USD và thấp nhất là vùng Tây Nguyên
với FDI bình quân chỉ đạt 163,35 triệu USD. Với những số liệu trên cho thấy sự chênh
lệch FDI giữa các vùng ở Việt Nam khá lớn, địa phương cao nhất có sự chênh lệch gấp
hơn 100 lần so với địa phương thấp nhất. Điều đó thể hiện sự chênh lệch của dòng chảy
FDI vào Việt Nam theo đặc tính
2.1.2. Hình thức đầu tư
Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, tính đến tháng 10/2014, các nhà đầu tư nước ngoài

đến từ 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam dưới 6 hình thức. Trong đó,
hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài chiếm ưu thế cả về số lượng dự án lẫn tổng vốn
đầu tư đăng ký, vượt trội hơn hẳn các hình thức đầu tư còn lại do đây là hình thức mang
lại quyền quản lý cũng như tỷ lệ phân chia lợi nhuận tối đa cho nhà đầu tư FDI. Thêm vào
đó, khi các MNEs đã có những hiểu biết nhất định về thị trường Việt Nam thì lợi thế của
hình thức DN liên doanh, hình thức đầu tư FDI của đạo vào Việt Nam trong giai đoạn
1988 – 1996 bị mất đi. Và với sự mở rộng về hành lang pháp lý của Việt Nam với mọi
loại hình đầu tư FDI, sự đi lên về tỷ trọng của hình thức DN 100% vốn nước ngoài là tất
yếu. Cùng với đó hình thức đầu tư qua DN liên doanh dần trở nên kém hấp dẫn với các
nhà đầu tư nước ngoài. Hai hình thức đầu tư FDI còn lại là hợp đồng hợp tác kinh doanh,
và cổ phần có sự đóng gốp nhỏ hơn. Đặc biệt, cùng với sự phát triển của thị trường chứng
khoán Việt Nam kể từ khi nước ta gia nhập WTO, hình thức vốn cổ phần ngày càng được
ưa chuộng.
Cụ thể, lũy kế đến nay, cả nước đã thu hút được 17.219 dự án có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký lên tới trên 244 tỷ USD. Dẫn
12


đầu là các dự án FDI đầu tư dưới hình thức 100% vốn nước ngoài với 13.886 dự án, tổng
vốn đầu tư đăng ký đạt 166,35 tỷ USD (chiếm 81% tổng số dự án và 68% tổng vốn đầu tư
đăng ký của cả nước).
Hình thức liên doanh đứng thứ hai với 2.912 dự án và 59,8 tỷ USD vốn đăng ký
(chiếm 17% tổng số dư án và 25% tổng vốn đầu tư đăng ký). Tiếp theo là 4 hình thức đầu
tư còn lại, lần lượt theo thứ tự là: Hình thức Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển
giao (BOT), xây dựng - chuyển giao (BT) có 12 dự án với 8,17 tỷ USD vốn đầu tư đăng
ký. Hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh có 215 dự án với 5,13 tỷ USD.
Biều đồ 2.: Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài 2014
Nguồn : cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
2.1.3 Theo ngành, lĩnh vực
Theo báo cáo của cục đầu tư nước ngoài, bộ kế hoạch và đầu tư, hơn 25 năm thu

hút đầu tư FDI tính đến năm 2015, cơ cấu vốn đầu tư được chia làm 3 nhóm ngành: Công
nghiệp – xây dựng, dịch vụ và nông – lâm – ngư nghiệp. Trong đó, nhóm ngành công
nghiệp – xây dựng chiếm ưu thế trong việc thu hút đầu tư FDI.

13


Biểu 2.3: FDI theo lĩnh vực đầu tư 1988 – 2007

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Có thể nhận thấy, dòng vốn FDI chảy vào các ngành kinh tế có sự chênh lệch khá
lớn giữa công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và nông lâm ngư nghiệp. Các dự án FDI chủ yếu
tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, trong đó có một loại hình dịch vụ được rất
nhiều nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đó là bất động sản. Điều này đã tạo nên tình trạng
“bong bóng” trên thị trường bất động sản, phần nào ảnh hưởng xấu đến tác động của FDI
đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Mặt khác, ngành nông – lâm – ngư nghiệp thu hút vốn
đầu tư khá hạn chế, ít hơn rất nhiều so với những ngành còn lại. Mặt khác, cũng có sự
chuyển dịch mạnh về nguồn vốn đầu tư FDI vào ngành công nghiệp – xây dựng và dịch
vụ.
Bảng 2.: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép phân theo ngành kinh tế
(Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2014)
Vốn đăng ký
STT

Tỉ trọng

Ngành kinh tế
(Triệu đô la Mỹ)

(%)

14


1

Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản

3.721,8

1,47

2

Khai khoáng

3.375,3

1,33

3

Công nghiệp chế biến, chế tạo

141.406,7

55,95

9.774,8

3,86


1.348,5

0,53

11.400,4

4,51

4.030,7

1,59

Sản xuất và phân phối điện, khí đốt,
4

nước nóng, hơi nước và điều hoà
không khí

5
6
7

Cung cấp nước; hoạt động quản lý và
xử lý rác thải, nước thải
Xây dựng
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô,
mô tô, xe máy và xe có động cơ khác

8


Vận tải, kho bãi

3.755,3

1,48

9

Dịch vụ lưu trú và ăn uống

11.193,6

4,42

10

Thông tin và truyền thông

4.124,9

1,63

1.332,4

0,52

48.279,8

19,10


1.797,4

0,71

211,6

0,08

11
12
13

14

Hoạt động tài chính, ngân hàng và
bảo hiểm
Hoạt động kinh doanh bất động sản
Hoạt động chuyên môn, khoa học và
công nghệ
Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ
trợ

15

Giáo dục và đào tạo

819,9

0,32


16

Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội

1.754,6

0,69

17

Nghệ thuật, vui chơi và giải trí

3.634,2

1,43

18

Hoạt động dịch vụ khác

754,1

0,38

Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam
15


Một điều dễ nhận thấy nữa là dòng vốn FDI vào Việt Nam trong vài năm trở lại

đây không chỉ thay đổi về lượng (vốn đầu tư) mà cả về chất (chiều sâu đầu tư) thông qua
sự có mặt của các tập đoàn nổi tiếng trong lĩnh vực điện tử, như: Intel, Compal, Foxconn,
Samsung... Đặc biệt trong năm 2008 còn xuất hiện dự án của các tập đoàn lớn, như Good
Choi (Hoa Kỳ), Berjaya (Ma-lai-xi-a) v.v.. Điều này cho thấy, sau một thời gian nghiên
cứu thị trường Việt Nam các tập đoàn nước ngoài đã quyết định đầu tư quy mô lớn, xem
Việt Nam như một mắt xích trong chuỗi sản xuất toàn cầu. Các dự án lớn nói trên sẽ kéo
theo nhiều nhà sản xuất và cung cấp sản phẩm phụ trợ phục vụ sản xuất.

Bảng 2.: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 11 tháng năm 2015 theo ngành
(Tính từ 01/01/2015 đến 20/11/2015)
Vốn đăng
STT

Ngành

Số dự án
cấp mới

ký cấp
mới (triệu
USD)

Số
lượt
dự án
tăng
vốn

Vốn đăng


Vốn đăng ký

ký tăng

cấp mới và

thêm

tăng thêm

(triệu USD)

(triệu USD)

Công nghiệp
1

chế biến, chế

892

7070.2

491

5861.5

12,931.6

tạo

Sản xuất, phân
2

phối điện, khí,

8

2763.9

6

12.6

2,776.5

3

nước, điều hòa
Hoạt động kinh

29

2029.4

10

299.2

2,328.6
16



doanh bất động
4

5

sản
Xây dựng
Bán buôn và
bán lẻ; sửa chữa
ô tô, mô tô, xe

109

600.4

17

110.6

711.0

273

368.8

61

141.7


510.5

17

178.0

13

92.5

270.5

194

210.0

37

19.5

229.5

46

61.4

11

65.9


127.3

149

55.5

26

29.7

85.2

48

77.7

6

-0.8

76.8

22

54.4

2

3.2


57.6

15

27.7

5

10.4

38.0

36

28.5

3

1.4

30.0

3

2.2

1

15.4


17.6

11

13.3

1

2.0

máy
Nông nghiêp,
6

lâm nghiệp và
thủy sản
Hoạt động

7

8
9

10

chuyên môn,
khoa học công
nghệ
Vận tải kho bãi

Thông tin và
truyền thông
Dịch vụ lưu trú
và ăn uống
Hoạt động hành

11

12
13
14

15

chính và dịch
vụ hỗ trợ
Hoạt động dịch
vụ khác
Giáo dục và đào
tạo
Cấp nước và xử
lý chất thải
Y tế và hoạt
động trợ giúp

15.3

xã hội
17



16

Khai khoáng
Nghệ thuật, vui

17

chơi và giải trí
Hoạt động tài

2

10.4

1

2.5

chính, ngân

18

hàng và bảo
hiểm
Tổng số

1,855

13554.4


10.4
1

0.4

2.9

1

1.1

1.1

692

6666.2

20,221

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài- Bộ Kế hoạch và Đầu tư
2.1.4. Theo đối tác.
Các đối tác đầu tư FDI chủ yếu vào Việt Nam vẫn là những nước đã có quan hệ
ngoại giao lâu dài với nước ta như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, các nước thuộc
khối ASEAN như Singapore, Malaysia.
Bảng 2.: 10 đối tác nước ngoài có lũy kế đầu tư thị trường nước ngoài lớn nhất.
(Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2015)
ST
T


Đối tác

Số dự án

Tổng vốn đầu tư
đăng ký
(Triệu USD)

1 Hàn Quốc

4.970

45.191,10

2 Nhật Bản

2.914

38.973,63

3 Singapore

1.544

35.148,51

4 Đài Loan

2.478


30.997,43

5 BritishVirginIslands

623

19.275,31

6 Hồng Kông

975

15.546,76

7 Malaysia

523

13.420,05

8 Hoa Kỳ

781

11.301,82

1.296

10.174,22


9 Trung Quốc
10 Hà Lan

18


255

8.264,55

Nguồn: Tổng cục thống kê.
2.1.5. Theo địa phương
Các nhà đầu tư nước ngoài đã có mặt ở tất cả các địa phương trong nước, ở cả 63
tỉnh thành phố nhưng phân bố không đồng đều.
FDI đã có mặt tại 64/64 tỉnh thành phố của Việt Nam. Nhiều nhất vẫn là những vùng
đông bằng có vị trí địa lý thuận lợi, dân cư đông đúc và trình độ nhân lực cao như Đông
Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng.
Bảng 1 : FDI đăng ký vào các địa phương, tích lũy đến 2012.

FDI tập trung chủ yếu ở TP.HCM và các tỉnh lân cận, chiếm hơn 1 nửa số vốn
đăng kí của cả nước với 28,66 tỷ USD, chiếm 56% vốn đăng kí.
Hà Nội và các tỉnh lân cận chỉ chiếm chưa đầy ½ số lượng vốn khu vực phía Nam,
với 13,42 tỷ USD chiếm 26,3% vốn đăng kí.
Sự phân bố không đều vốn FDI chủ yếu là do nhân tố địa lý - tự nhiên quyết định.
Những nơi có cảng biển, sân bay, hệ thống đường giao thông thuận tiện, điện nước và các
dịch vụ phát triển tốt là những nơi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư.
Số dự án và vốn đăng kí chủ yếu tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam: TP.HCM, Đồng Nai. Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước,
19



Long An đã chiếm 58,6% vốn đăng kí của cả nước. Vùng trọng điểm phía Bắc chiếm
27,5%tổng vốn đăng kí của cả nước.
2.2. Đánh giá hoạt động đầu tư FDI tại Việt Nam trong những năm qua:
2.2.1 Thành tựu:
2.2.1.1 Chuyển giao công nghệ:
Lợi ích quan trọng mà FDI mang lại đó là công nghệ khoa học hiện đại, kỹ sảo
chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến. Khu vực FDI sử dụng công nghệ cao hơn hoặc
bằng công nghệ tiên tiến đã có trong nước và thuộc loại phổ cập trong khu vực. Từ năm
1993 đến năm 2015, cả nước có 951 hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được phê
duyệt/đăng ký, trong đó có 605 hợp đồng của DN FDI, chiếm 63,6%. Thông qua hợp
đồng chuyển giao công nghệ, khu vực FDI đã góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ
tiên tiến vào Việt Nam, nâng cao năng lực công nghệ chế biến, chế tạo đạt hiệu quả cao
nhất. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, một số ngành đã thực hiện tốt chuyển giao công
nghệ như dầu khí, điện tử, viễn thông, tin học, cơ khí chế tạo, ô tô, xe máy và dệt may,
giày dép, trong đó viễn thông, dầu khí được đánh giá có hiệu quả nhất.
Tác động lan tỏa công nghệ của khu vực FDI được thực hiện thông qua mối liên kết
sản xuất giữa DN FDI với DN trong nước, qua đó tạo điều kiện để DN trong nước tiếp
cận hoạt động chuyển giao công nghệ. Nhìn chung, khu vực FDI có tác động lan tỏa gián
tiếp tới khu vực DN sản xuất trong nước cùng ngành và DN dịch vụ trong nước khác
ngành. Bên cạnh đó, thông qua mối quan hệ với DN FDI, Doanh nghiệp trong nước ứng
dụng công nghệ sản xuất tương tự để sản xuất sản phẩm/dịch vụ thay thế và sản
phẩm/dịch vụ khác để tránh cạnh tranh. Đồng thời tác động tạo ra các ngành sản xuất,
dịch vụ khác trong nước để hỗ trợ cho hoạt động của các DN FDI.
2.2.1.2 Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế :
FDI đã trở thành nguồn vốn bổ sung vô cùng quan trọng cho tăng trưởng kinh tế.
Hoạt động của các dự án FDI đã và đang đóng vai trò chủ yếu quyết định tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Hoạt động của các DN FDI đã tác động tích cực tới nâng cao trình độ công nghệ
20



sản xuất, chất lượng nguồn lao động và năng suất lao động, đặc biệt là trong lĩnh vực sản
xuất công nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DN thuộc các thành phần kinh tế
khác nhận chuyển giao công nghệ hiện đại, học hỏi phương pháp quản lý tiên tiến, không
ngừng nâng cao sức cạnh tranh về kinh tế của quốc gia. FDI thúc đẩy sự hình thành và
phát triển các khu, cụm công nghiệp thúc đẩy sự phát triển nhanh của hệ thống kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội.
Rõ ràng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước đã góp phần tích cực
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nước ta. Nó là tiền đề, là chỗ dựa để khai thác các tiềm năng
to lớn trong nước nhằm phát triển kinh tế.
2.2.1.3 Thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế:
FDI đóng góp tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế (58,4% vốn FDI tập
trung vào lĩnh vực công nghiệp – xây dựng với trình độ công nghệ cao hơn mặt bằng
chung của cả nước). Tốc độ tăng trưởng công nghiệp – xây dựng của khu vực FDI đạt
bình quân gần 18%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng toàn ngành. Khu vực FDI tạo ra gần
45% giá trị sản xuất công nghiệp, điển hình trên các lĩnh vực truyền thông, khai thác, chế
biến dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin, thép, xi măng.
Về nông nghiệp, FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đa dạng hóa sản
phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa nông nghiệp theo hướng tăng giá trị gia tăng và tiếp thu
một số công nghệ iên tiến, giống cây, giống con có năng suất, chất lượng cao đạt tiêu
chuẩn quốc tế, tạo ra phương thức mới có hiệu quả cao, nhất là các dự án đầu tư vào phát
triển nguồn nguyên liệu, góp phần cải thiện tập quán canh tác và điều kiện hạ tầng yếu
kém, lạc hậu ở một số địa phương.
Lĩnh vực dịch vụ, các DN FDI cũng đã góp phần phát triển theo hướng chất lượng
và chuyên nghiệp hệ thống khách sạn, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn luật, vận tải biển,
logistic, thị trường bán lẻ và thị trường tài chính. Các dịch vụ này cũng góp phần tạo ra
phương thức mới trong phân phối hành hóa, tiêu dung, kích thích hoạt động thương mại
nội địa và góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.
Một số tác động khác:


21


Ngoài những tác động trên, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam còn có một
số tác động sau:



Đóng góp một phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế



của các đơn vị đầu tư và tiền thu được từ việc cho thuê đất….
FDI của các nước khác đã giúp cải thiện cán cân quốc tế cho nước ta. Bời vì hầu hết các
dự án đầu tư là sản xuất ra các sản phẩm hướng vào xuất khẩu phần đóng góp của tư bản
nước ngoài và việc phát triển xuất khẩu là khá lớn trong nhiều nước đang phát triển. Cùng
với việc tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn mở rộng thị
trường cả trong nước và ngoài nước. Đa số các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đều có
phương án bao tiêu sản phẩm. Đây gọi là hiện tượng “hai chiều” đang trở nên phổ biến ở



khá nhiều nước đang phát triển hiện nay.
Về mặt xã hội, đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước khác đã tạo ra nhiều chỗ làm việc
mới, thu hút một khối lượng đáng kể người lao động của nước ta vào làm việc tại các đơn
vị của đầu tư nước ngoài. Điều đó góp phần đáng kể vào việc làm giảm bớt nạn thất
nghiệp vốn là một tình trạng nan giải của nhiều quốc gia. Đặc biệt là đối với các nước
đang phát triển như Việt Nam, nơi có lực lượng lao động rất phong phú nhưng không có
điều kiện khai thác và sử dụng, thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là chìa khóa quan

trọng để giải quyết vấn đề này. Vì đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra được các điều kiện về
vốn và kỹ thuật, cho phép khai thác và sử dụng các tiềm năng về lao động. Ở một số nước
đang phát triển, số người làm việc trong các xí nghiệp, chi nhánh nước ngoài so với tổng
người có việc làm đạt tỷ lệ tương đối cao như Singapore 54,6%, Brazin 23%, Mehico
21%. Mức trung bình ở nhiều nước khác là 10%. Ở Việt Nam có khoảng trên 100 nghìn
người đang làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên đây là con
số khá khiêm tốn.
2.2.2 Những hạn chế còn tồn đọng khi đầu tư FDI vào Việt Nam
Bên cạnh những đóng góp đáng kể của dòng vốn FDI đối với kinh tế - xã hội Việt
Nam, một số dự án FDI cũng mang đến những tác động tiêu cực đối với kinh tế xã hội
nước ta cần phải khắc phục, đó là:
Thứ nhất, hiệu quả tổng thể nguồn vốn FDI chưa cao. Trong công nghiệp – xây
dựng, các dự án FDI chủ yếu tập trung vào lắp ráp, giá trị gia tăng thấp; có quá ít dự án về
22


cơ sở hạ tầng; tỷ trọng dự án trong nông – lâm – ngư nghiệp rất thấp và có xu hướng giảm
dần trong khi đây là những ngành Việt Nam có thê mạnh. Trong dịch vụ, các dự án bất
động sản quy mô lớn còn cao song nhiều trong số dự án này chậm triển khai, gây lãng phí
về đất đai, vay vốn trong nước. FDI vào các dịch vụ trung gian, dịch vụ giá trị gia tăng
cao, giáo dục đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe, môi trường còn hạn chế.
FDI hiện tập trung chủ yếu tại địa bàn có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, nguồn
nhân lực, thị trường tiêu thụ sản phẩm gây mất cân đối vùng miền, không đạt được mục
tiêu hướng FDI vào địa bàn khó khăn. Các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ
cao không tạo ra lợi thế khác biệt cho từng địa phương và vùng lãnh thổ.’
Đối tác đầu tư vào Việt Nam chủ yếu từ Châu Á, nhà đầu tư nước ngoài là DN nhỏ
và vừa chiếm tỷ lệ cao.
Thứ hai, mục tiêu thu hút công nghệ (công nghệ cao và công nghệ nguồn), chuyển
giao công nghệ chưa đạt được như kỳ vọng,
Trên 80% DN FDI sử dụng công nghệ trung bình của thế giới, 5-6% sử dụng công

nghệ cao, 14% ở mức thấp và lạc hậu, cá biệt có trường hợp sử dụng công nghệ lạc hậu.
Chuyển giao công nghệ chủ yếu thực hiện theo chiều ngang, giữa DN với DN, ít có
những biến đổi về trình độ và năng lực công nghệ. Do mặt bằng công nghệ sử dụng trong
các dự án FDI chưa cao nên hiệu quả chuyển giao công nghệ theo chiều ngang còn hạn
chế. Không ít trường hợp nhà đầu tư lợi dụng sơ hở của pháp luật, yếu kém trong quản lý
nhà nước để nhập khẩu vào Việt Nam máy móc, thiết bị lạc hậu gây ô nhiễm môi trường,
khai tăng giá trị nhập khẩu và giá trị chuyển giao công nghệ,
Công nghệ thấp dẫn đến các DN tại Việt Nam chủ yếu thực hiện việc gia công, một
số DN được coi là công nghệ cao nhưng những khâu sử dụng công nghệ cao lại không
thực hiện tại Việt Nam. Hệ quả là DN Việt Nam tạo ra gí trị gia tăng tháp, khó tham gia
vào mạng lưới sản xuất toàn cầu.
Thứ ba, số lượng việc làm tạo ra chưa tương xứng, đời sống người lao động chưa
cao, tranh chấp và đình công có xu hướng gia tăng.
Tỷ lệ việc làm mới do khu vực FDI tạo ra không tương xứng. Thu nhập bình quân
theo tháng của người lao động ở khu vực FDI chỉ cao hơn khu vực DN tư nhân trong
nước nhưng thấp hơn khu vực DN nhà nước. Nhu cầu về nhà ở, đời sống văn hóa ở các
khu tập trung nhiều lao động trở nên bức xúc mà chưa đáp ứng được.
Từ năm 1995 đến nay, cả nước đã xảy ra 4.142 cuộc đình công, trong đó 75,4% của
DN FDI, chủ yếu xảy ra tại DN của Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản; tập
23


trung ở ngành gia công, sử dụng nhiều lao động như dệt may, cơ khí, điện tử, da giày xuất
phát từ yêu cầu về lợi ích của người lao động. Điều đáng nói là hầu hết các cuộc đình
công không tuân thủ theo đúng trình tự quy định của pháp luật mặc dù 70% số cuộc đình
công xảy ra ở DN có tổ chức công đoàn. Thực tế, tổ chức công đoàn cơ sở còn nhiều hạn
chế trong viejc đảm bảo các quyền lợi cho người lao động, đặc biệt là vấn đề thỏa thuận
mức tiền lương và điều kiện lao động.
Thứ tư, hiệu ứng lan tỏa khu vực FDI sang khu vực khác của nền kinh tế còn hạn
chế, có dấu hiệu chèn lấn.

Mặc dù DN trong nước được hưởng lợi từ FDI chủ yếu thông qua tác động mở của
thị trường nhưng từ năm 2007 khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO thì DN sản xuất và
dịch vụ trong nước ở một số lĩnh vực đã chịu tác động chèn lấn của các DN FDI.
Thứ năm, một số dự án được cấp phép nhưng chư đảm bảo tính bền vững, gây ô
nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng, tài nguyên, chưa chú ý đầy đủ tới an ninh quốc
phòng.
Quy định về môi trường của Việt Nam áp dụng chuẩn của cá nước phát triển, song
việc thẩm định chỉ mang tính hình thức, tập trung nhiều vào khâu tiền kiểm, dẫn đến
nhiều dự án khi triển khi đã vi phạm nghiêm trọng quy định về môi trường, gây tác động
lâu dài tới sức khỏa người dân và hệ sinh thái khu vực. Không ít dự án nhập khẩu máy
móc, thiết bị lac hậu gây ô nhiễm không được phát hiện kịp thời. Có chiều hướng dịch
chuyển dòng FDI tiêu tốn năng lượng và tài nguyên, nhân lực, không thân thiện với môi
trường vào Việt Nam nhưng nhiều địa phương không có cơ chế kiểm soát về môi trường.
Một số dự án chiếm giữ đất lớn nhưng không triển khai gây lãng phí tài nguyên.
Một số trường hợp thu hút đầu tư chưa tính đến hiệu quả tổng thể cả về an ninh
quốc phòng, nhất là các dự án trồng rừng, khai thác khoáng sản, nuôi trồng thủy, hải sản ở
vùng nhạy cảm về an ninh quốc phòng, một số dự án sử dụng nhiều lao động phổ thông
nước ngoài.
Thứ sáu, có hiện tượng chuyển giá, trốn thuế.
Một số DN FDI có biểu hiện áp dụng các thủ thuật chuyển giá tinh vi như nâng
khống gia trị nhập khẩu máy móc, thiết bị, bản quyền, giá trị nguyên vật liệu đầu vào, bán
thành phẩm, thành phẩm, dịch vụ, phí quản lý, tiền bản quyền, chi phí bảo lãnh, cho vay,
trả lương, đào tạo, quảng cáo, ... tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi thật gây thất thu ngân sách.

24


2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế:
2.3.2.1.Nguyên nhân khách quan.


Vốn nước ngoài rất hạn chế.
Mặc dù tính tổng thể vốn đầu tư trực tiếp lớn hơn và quan trọng hơn đầu tư gián
tiếp, nhưng so với đầu tư gián tiếp thì mức vốn trung bình của một dự án đầu tư là thường
nhỏ hơn nhiều. Do vậy tác động kịp thời của một dự án đầu tư trực tiếp cũng không tức
thì như dự án đầu tư gián tiếp. Hơn thế nữa các nhà đầu tư trực tiếp thường thiếu sự trung
thành đối với thị trường đang đầu tư, do vậy luồng vốn đầu tư trực tiếp cũng rất thất
thường, đặc biệt khi cần vốn đầu tư trực tiếp thì nó lại rất ít làm ảnh hưởng đến kế hoạch
kinh tế chung của đất nước nhận đầu tư.



Công nghệ không thích hợp.

“Giá chuyển nhượng nội bộ” cùng với việc giảm tính linh hoạt trong xuất khẩu,
ảnh hưởng đến cán cân thanh toán: Các công ty có sự kiểm soát nước ngoài có thể sử
dụng các kỹ thuật sản xuất sử dụng nhiều tư bản là chủ yếu (mà chúng sẵn có, nhưng
không thích hợp) dẫn tới sự chuyển giao công nghệ không đầy đủ ở mức chi phí quá cao
(để duy trì ưu thế công nghệ), định ra những giá cả chuyển nhượng giao cao một cách giả
tạo (để bòn rút lợi nhuận quá mức), gây ra sự căng thẳng cho cán cân thanh toán (bởi vì
với tư cách là một bộ phận của các chi nhánh sản xuất đa quốc gia, các doanh nghiệp đó
có thể có ít khả năng hơn so với các công ty thuộc quyền kiểm soát trong nước trong việc
mở rộng xuất khẩu, và có thể phải lệ thuộc nhiều vào hàng nhập khẩu). Bản chất thông tin
của công nghệ được chuyển giao, cho nên nó được chuyển giao trong một thị trường
không hoàn hảo cao độ mà trong đó thường khó có thể cố định giá cả một cách chính xác.
Các nước đang phát triển thường xuyên ở vào vị trí thương lượng yếu hơn trong các thị
trường này, đặc biệt là khi họ thiếu lực lượng cán bộ chuyên môn để có thể giúp xác định
mức đóng góp thích hợp của hoạt động chuyển giao công nghệ cần thiết. Điều này có thể
đặc biệt đúng khi công nghệ được chuyển giao như một yếu tố trong hệ thống các nguồn
lực do FDI đưa vào, bởi vì thường không được biết rõ các chi phí chính xác của công
nghệ đó. Một số nước đang phát triển đã cố gắng tăng cường vị trí thương lượng của họ

bằng cách đặt ra những giới hạn cho các khoản tiền trả sử dụng bản quyền phát minh
(chẳng hạn trả theo tỷ lệ cố định phần trăm của doanh thu) hoặc bằng cách thiết lập các
25


×