Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Phân vùng chất lượng nước dưới đất tầng chứa nước trầm tích đệ tứ khu vực nội đô Hà Nội phục vụ cấp nước sinh hoạt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 47 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin bày tỏ tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc của em tới thầy, cô
giáo Th.S Trần Thành Lê và Th.S Hoàng Thị Huê. Người đã hướng dẫn, chỉ dạy
tận tình cho em trong quá trình thực hiện đồ án tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Môi trường của
trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã dìu dắt, dạy dỗ em cả về kiến
thức chuyên môn và tinh thần học tập trong bốn năm học vừa qua để em có được
những kiến thức thực hiện đồ án tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn ban giám hiệu nhà trường, các phòng ban đã giúp
đỡ tạo điều kiện tốt nhất cho em trong suốt thời gian học tập tại trường.
Tiếp đến là lời cảm ơn tới người thân, bạn bè đã động viên em trong suốt thời
gian làm đồ án cũng như trong thời gian học tập.
Tuy có nhiều cố gắng nhưng trong quá trình học tập, cũng như trong quá trình
làm đồ án tốt nghiệp không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự
góp ý quý báu của tất cả các thầy cô giáo cũng như tất cả các bạn để kết quả của em
được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

Nguyễn Thị Thu Phương


Danh mục các từ viêt tắt
STT
1
2

Từ viết tắt

Chú thích


NDĐ

Nước dưới đất

TCN

Tầng chứa nước


MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thành phố Hà Nội là Thủ Đô của cả nước, được xếp vào loại đô thị đặc biệt.Ở
đây tập trung số lượng lớn dân số có mật độ dân cư cao nhất cả nước. Là trung tâm
kinh tế, chính trị của cả nước nên tốc độ đô thị hóa, dân số tăng nhanh chóng, công
nghiệp, nông nghiệp phát triển, dẫn đến nhu cầu về nước cho ăn uống và sinh hoạt
là rất lớn.
Thành phố Hà Nội (chưa mở rộng) là thành phố lớn duy nhất trong cả nước
hầu như sử dụng các nguồn nước dưới đất. Có thể nói nước là nguồn sống quan
trọng cho con người, nước đóng một vai trò quan trọng để suy trì hoạt động nhân
sinh. Kể từ khi xuất hiện, con người đã biết dùng nước để ăn uống sinh hoạt, ngoài
ra nước còn được dùng để sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, tưới tiêu…
Với địa thế là trung tâm bể nước ngầm nhạt khổng lồ của đồng bằng châu thổ
sông Hồng, thành phố Hà Nội được thiên nhiên ưu đãi có lượng nước phong
phú.Cùng với thời gian và sự phát triển của thành phố việc khai thác nguồn tài
nguyên nước ngày càng gia tăng. Hiện tại, lượng khai thác nước dưới đất bình quân
khoảng 780.000m3/ng. Việc khai thác nước dưới đất để cung cấp cho thành phố đã
góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội nói
riêng và là đầu tàu kéo cả nước đi lên nói chung. Tuy nhiên, trong quá trình khai
thác nước, đô thị hóa, phát triển đô thị đã nảy sinh và tiềm ẩn nhiều nguy cơ tác
động xấu tới nguồn tài nguyên nước dưới đất. Tình trạng suy giảm nguồn tài

nguyên nước (ô nhiễm và cạn kiệt) đang làm ảnh hưởng không nhỏ tới tính phát
triển bền vững của thủ đô Hà Nội.
Do diện tích thành phố Hà Nội quá rộng, nên Em chỉ lựa chọn khu vực phía
Tây Nam Hà Nội bao gồm các quận nội thành Hà Nội là diện tích bao trùm hầu như
toàn bộ các bãi giếng khai thác tập trung. Trong giới hạn nội dung nghiên cứu, Em
tập trung vào đối tượng nghiên cứu chính là tầng chứa nước trong các trầm tích Đệ
Tứ Pleistocen( qp) đang là đối tượng khai thác phục vụ cung cấp nước Thủ Đô.

3


Từ những yêu cầu của thực tế trên, em đã lựa chọn và thực hiện đề tài:“Phân
vùng chất lượng nước dưới đất tầng chứa nước trầm tích đệ tứ khu vực nội đô
Hà Nội phục vụ cấp nước sinh hoạt”.
Mục đích và ý nghĩa của đề tài
- Xác định chất lượng nước ngầm trên địa bàn phía Tây Nam Hà Nội.
- Lập bản đồ phân vùng chất lượng nước ngầm tầng chứa nước trầm tích Đệ tứ
Pleistocen( qp) phục vụ cấp nước sinh hoạt khu vực Tây Nam Hà nội
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nước dưới đất tầng chứa nước trầm tích Đệ tứ
Pleistocen( qp).
- Phạm vi nghiên cứu: Khu vực trung tâm thành phố là phần diện tích phía
Tây Nam Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập tài liệu, số liệu: Thu thập các tài liệu số liệu của mạng quan trắc
khu vực Hà Nội về nước dưới đất trên địa bàn Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2015
bao gồm các số liệu mực nước trung bình tháng tại các lỗ khoan quan trắc; các công
trình khai thác trong vùng nghiên cứu; bản đồ địa hình khu vực; mực nước sông
Hồng; lượng mưa, bốc hơi tại trạm thủy văn Hà Nội.Báo cáo hiện trạng môi trường
nước ngầm của thành phố Hà Nội….

- Phân tích, đánh giá: Xây dựng bản đồ phân vùng chất lượng nước dưới đất.
-

Sử dụng các phần mềm tin học chuyên dụng để xử lý, tính toán số liệu như
Microsoft Excel, Surfer, Mapinfo…

-

Chuyên gia: Trong quá trình hoàn thành đồ án, em đã xin ý kiến đóng góp, đánh
giá của các thầy,cô trong lĩnh vực tài nguyên nước; các chuyên gia nghiên cứu về
tài nguyên nước dưới đất.
Cấu trúc của đề tài
Bao gồm phần mở đầu, kết luận và 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về khu vực nghiên cứu.
Chương 2: Đặc điểm địa chất - địa chất thủy văn.
Chương 3: Chất lượng nước và phân vùng chất lượng nước tầng chứa nước
Pleistocen.
4


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về khu vực nghiên cứu
1.1.1. Vị trí địa lý

Hình 1-1: Bản đồ hành chình vùng Tây Nam thành phố Hà Nội

5


Phía Bắc giáp huyện Đông Anh và huyện Đan Phượng. Phía Tây giáp huyện

Hoài Đức. Phía Nam giáp huyện Thanh Oai và huyện Thường Tín.Phía Đông giáp
quận Long Biên. Khu vực nghiên cứu của đề tài gồm toàn bộ phần phía Nam sông
Hồng của thành phố Hà Nội gồm 11 quận nội thành (Bắc Từ Liêm, Nam Từ Liêm,
Tây Hồ, Cầu Giấy, Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Hoàng Mai,
Thanh Xuân, Hà Đông) và 1 huyện ngoại thành (Thanh Trì).
Theo số liệu thống kê của Sở Tài nguyên và môi trường Hà Nội, tổng diện tích
tự nhiên của vùng Tây Nam Hà Nội khoảng 278km2.
1.1.2. Địa hình
Khu vực Tây Nam Hà Nội gồm 12 quận huyện thuộc đồng bằng sông Hồng có
độ cao trung bình từ 5m đến 7m so với mực nước biển. Địa hình của Hà Nội thấp
dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Điều này được phản ánh rõ nét qua
hướng dòng chảy tự nhiên của các dòng sông chính chảy qua Hà Nội.
Nhìn chung,vùng Tây Nam Hà Nội có dạng địa hình đồng bằng được bồi đắp
bởi các dòng sông với các bãi bồi hiện đại, bãi bồi cao. Xen giữa các bãi bồi hiện
đại và các bãi bồi còn có các vùng trũng với các hồ đầm (dấu vết của các lòng sông
cổ).
Hầu hết diện tích là trồng lúa, canh tác rau màu, cây công nghiệp, và phần đất
còn lại là nơi cư dân sinh sống. Đất cấu thành nên bề mặt thường là dạng sét, sét
pha; bên dưới là lớp cát các loại, các chỏm sét bùn, than bùn chứa các vật chất hữu
cơ. Bề mặt địa hình phần rìa sông Hồng có độ cao từ 9 – 10 m, vùng ven đê từ 7 - 8
m, vùng nội thành từ 5 - 6 m, vùng Tây Nam địa hình thấp, trũng từ 3 - 4 m, thường
xuyên bị ngập úng vào mùa mưa.
1.1.3. Khí hậu - Thủy văn
1.1.3.1. Nhân tố khí tượng
Vùng Tây Nam Hà Nội thuộc vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng, có khí
hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa chủ yếu trong năm là mùa mưa – nóng và mùa
khô - lạnh.
Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10 có đặc điểm chủ yếu là nóng, ẩm,
mưa nhiều, nắng nhiều, gió mùa đông nam thịnh hành. Mùa khô kéo dài từ tháng 11
đến tháng 3 năm sau: lạnh, khô và ít mưa. Do chịu sự chi phối của gió mùa Đông

6


Bắc nên gió thịnh hành trong mùa lạnh hầu hết có hướng Đông – Bắc. Hai tháng 4
và tháng 10 có thể coi là những tháng chuyển tiếp, tạo cho khí hậu Hà Nội có 4
mùa: xuân, hạ, thu, đông.
1.1.3.1.1. Mưa
Mưa là nhân tố quan trọng nhất trong các nhân tố khí tượng vì đó là nguồn
cung cấp cho nước dưới đất. Các đặc điểm của mưa: lượng mưa, thời gian mưa, loại
mưa … quyết định động thái nước dưới đất. Mưa là một trong những yếu tố khí hậu
biến động mạnh mẽ nhất theo thời gian và không gian,
biến động mạnh mẽ cả về thời gian mưa, số ngày có mưa và lượng mưa trong
từng tháng, trong từng khu vực nhỏ ở Tây Nam Hà Nội.
Hàng năm, trung bình toàn vùng nhận khoảng 1.700 - 1.800mm nước mưa.
Tháng VII - IX là các tháng có lượng mưa lớn nhất trong năm, thường đạt 200 ÷
300mm mỗi tháng. Tháng XI - III là các tháng có lượng mưa ít nhất trong năm,
thường là không mưa hoặc lượng mưa không đáng kể. Số ngày mưa trong năm đạt
100÷140 ngày, chủ yếu tập trung vào các tháng mùa mưa, với 15 ÷ 20 ngày mỗi
tháng.
Lượng mưa trung bình mùa mưa chiếm khoảng 90 ÷ 92% tổng lượng mưa
năm, còn lượng mưa trung bình mùa khô chỉ có 8 ÷10% (xem bảng 1-1)
Bảng 1-1: Lượng mưa trung bình tháng nhiều năm (mm) trạm Hà Nội
Tháng
1

2

3

4


5

6

7

8

9

10

11

12

2005

0.4

1.3

0.9

1.1

7.0

9.3


9.0

12.2

12.2

0.6

3.4

0.9

2006

0.0

0.9

1.0

0.6

4.5

3.2

8.0

11.4


6.1

0.9

3.9

0.0

2007

0.1

0.9

0.9

3.3

3.8

7.0

9.2

10.7

12.9

4.7


0.2

0.7

2008

0.9

0.5

0.7

4.1

5.9

7.8

13.7

9.8

6.6

15.1

8.6

0.4


2009

0.2

0.3

1.6

2.5

7.4

8.1

17.8

7.0

5.2

2.5

0.0

0.1

2010

2.6


0.3

0.2

1.9

4.8

5.8

9.0

8.9

5.7

0.8

0.0

0.4

Năm

Do lượng mưa tập trung hoàn toàn trong mùa mưa làm cho mực nước dưới đất
dâng dần từ đầu mùa, thường đạt các cực đại vào gần cuối mùa mưa và tạo thành
7



dao động mực nước theo mùa. Biên độ dao động mực nước năm của nước dưới đất
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như địa hình, địa mạo, thuỷ văn … nhưng trong các
công trình ở những nơi chỉ ảnh hưởng bởi nhân tố mưa thì nó phụ thuộc rất lớn vào
lượng mưa năm (xem hình 1-2).

Hình 1-2: Biểu đồ qh dao động mực nước dưới đất tại điểm quan trắc P_23a với
mưa trung bình tháng nhiều năm tại trạm Hà Nội.
1.1.3.1.2. Nhiệt độ
Nằm trong vùng nhiệt đới, Hà Nội quanh năm tiếp nhận được lượng bức xạ
mặt trời rất dồi dào và có nhiệt độ cao.
Số giờ nắng khoảng 1.500 - 2.000 giờ, nhiệt bức xạ trung bình năm
100kcal/cm².
Đặc điểm khí hậu Hà Nội rõ nét nhất là sự thay đổi và khác biệt của hai mùa
nóng, lạnh.
Từ tháng 5 đến tháng 9 là mùa nóng, kèm theo mưa nhiều, nhiệt độ trung bình
28,1 °C. Nhiệt độ tối cao tuyệt đối có thể tới trên 400 C, nhưng ít xảy ra.
Từ tháng 11 tới tháng 3 năm sau là mùa đông với nhiệt độ trung bình 18,6 °C.
Trong khoảng thời gian này số ngày nắng của thành phố xuống rất thấp, bầu trời
thường xuyên bị che phủ bởi mây và sương, tháng 2 trung bình mỗi ngày chỉ có 1,8
giờ mặt trời chiếu sáng. Đôi khi những đợt không khí gió mùa Đông Bắc tràn về,
nhiệt độ không khí xuống dưới ngưỡng 100 C.

Hình 1-3: Nhiệt độ không khí trung bình các tháng (ºC)

8


1.1.3.1.3. Bốc hơi
Diễn biến của lượng bốc hơi phụ thuộc vào diễn biến của nhiệt độ và độ ẩm
không khí. Lượng bốc hơi tháng bình quân nhiều năm dao động trong khoảng 60 ÷

100 mm. Tháng có lượng bốc hơi lớn nhất trong năm là tháng VII, tới 98 mm. Thời
kỳ khô hanh đầu mùa đông cũng là thời kỳ có lượng bốc hơi lớn, trung bình dao
động trong khoảng 90 ÷ 95 mm.
1.1.3.2. Nhân tố thủy văn
Hà Nội có các sông lớn chảy qua như sông Hồng, sông Đáy, sông Đuống,
sông Cầu, sông Cà Lồ và các sông nhỏ như sông Nhuệ, sông Tô Lịch, sông Kim
Ngưu, sông Lừ, sông Sét. Ngoài ra, Hà Nội có rất nhiều hồ, ao, đầm lầy. Các hồ lớn
như hồ Tây, hồ Quảng Bá, hồ Trúc Bạch, hồ Bảy Mẫu, hồ Hoàn Kiếm, hồ Yên Sở,
hồ Kim Nỗ và đầm Vân Trì.
Sông Hồng là sông lớn thứ 2 ở Việt Nam, đoạn chảy qua Hà Nội như cánh
cung ôm lấy phần phía Tây Nam Hà Nội. Chiều rộng của sông thay đổi theo các
thời kì trong năm, từ 480m đến 1440m. Lưu lượng sông Hồng phân bố không đều
trong năm với 75% lượng nước tập trung vào mùa mưa lũ. Theo tài liệu quan trắc từ
năm 1990 đến nay thì lưu lượng trung bình tháng thấp nhất là 959 m 3/s (tháng 2) và
cao nhất là 7147 m3/s (tháng 7), bình quân cả năm là 2640m 3/s (chưa kể lượng nước
chảy qua sông Đuống). Về mùa lũ, mực nước sông dâng cao, thường cao trên 10m
tức là cao hơn bề mặt đồng bằng trong đê. Mùa khô ít nước nhưng lại bị khai thác
mạnh mẽ để tưới. Sông Hồng có khả năng bồi đắp rất lớn, hàng năm nó chuyển ra
biển khoảng 130 triệu tấn phù sa. Sông Hồng là nguồn cung cấp đáng kể cho nước
dưới đất đặc biệt là trong điều kiện khai thác nước dưới đất mạnh mẽ như ở khu vực
Tây Nam Hà Nội.
Sông Đuống là một chi lưu của sông Hồng và nối với hệ thống sông Thái Bình
tại Phả Lại.Động thái sông Đuống thay đổi tuỳ thuộc vào sông Hồng. Theo tài liệu
quan trắc nhiều năm tại trạm Thượng Cát cho thấy lưu lượng nước sông lớn nhất đạt
dến 6300 m3/s (năm 2005), nhỏ nhất là 109 m3/s (năm 2005).
Sông Cà Lồ bắt nguồn từ sườn phía dãy Tam Đảo chảy qua Tam Dương (Vĩnh
Phúc), Sóc Sơn (Hà Nội) và nhập lưu vào sông Cầu ở rìa Đông Bắc thành phố Hà
Nội.
9



Sông Nhuệ là một chi lưu của Sông Hồng được bắt nguồn từ cống Thụy
Phương (Từ Liêm), chảy theo hướng Tây Nam xuôi về phía Hà Đông. Sông Nhuệ là
con sông nhỏ, nước trong sông được điều tiết bởi cống Thụy Phương để phục vụ
cấp nước cho nông nghiệp.
Hồ Tây có diện tích 538 ha và chứa 8 triệu m 3 nước.Hồ Thành Công rộng 220
ha trữ lượng 3 triệu m3 nước. Nhìn chung, ở Hà Nội nhiều sông ngòi, mương lạch,
hồ, ao đầm tạo điều kiện thuận lợi cho cấp và thoát nước, đồng thời là một trong
những nguồn hình thành trữ lượng cho nước dưới đất.
1.1.4 Đặc điểm kinh tế xã hội khu vực Hà Nội
Thành phố Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của cả nước,
đó cũng là nơi thu hút dân cư từ các vùng nông thôn làm cho mật độ dân cư ngày
càng cao
Số dân của thành phố Hà Nội là 3055300 người trong đó dân nội thành là
1619309 người chiếm 53%. Mật độ dân số phân bố rất không đều, các quân nội
thành trung bình là 19163 người /km2, đông nhất là quận Hoàn Kiếm mật độ lên tới
37265 người /km2, ở ngoại thành là 1721 người /km2. Là thành phố có mật độ cao
nhất Việt Nam dẫn tới lượng nước khai thác nước ngày càng tăng, lượng chất thải
công nghiệp và sinh hoạt càng lớn có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cũng như
trữ lượng nước dưới đất.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII Đảng bộ Thành phố trong 5 năm
qua, Hà Nội đã đạt được những thành tựu quan trọng, tiếp tục tạo ra những biến đổi
tích cực trên các lĩnh vực:
Kinh tế thủ đô đã phát triển nhanh và khá toàn diện: cơ cấu kinh tế công
nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp hình thành rõ rệt và đang chuyển dịch sang dịch vụ công nghiệp - nông nghiệp theo hướng hiện đại hoá. Năm 2005, Hà Nội đạt hơn 8%
GDP, hơn 10% giá trị sản lượng công nghiệp, 8% kim ngạch xuất khẩu, 13,8% tổng
thu ngân sách nhà nước, gần 11% vốn đầu tư toàn xã hội của cả nước; GDP bình
quân đầu người đạt gấp gần 2,4 lần cả nước… đến năm 2007 tổng sản phẩm nội địa
(GDP) tăng 11,5%, trong đó giá trị tăng thêm công nghiệp và xây dựng tăng 13%,
dịch vụ tăng 11%, nông lâm thuỷ sản tăng 1,1%.


10


Năm 2015, Du lịch Hà Nội đón gần 3,3 triệu lượt khách du lịch quốc tế, tăng
8% so với năm 2014, khách nội đại đạt trên 16,4 triệu lượt khách, tăng 6% so với
năm 2014, tổng thu từ khách du lịch đạt trên 50 nghìn tỷ đồng. Giai đoạn 20102015, dù gặp khó khăn do tác động của suy thoái kinh tế nhưng lượng khách du lịch
quốc tế đến Thủ đô vẫn tăng trưởng ấn tượng với mức tăng trung bình đạt trên 10%,
chiếm tỷ trọng 40% so với cả nước. Hiện Hà Nội đang tập trung đầu tư cơ sở vật
chất kỹ thuật đồng bộ, hiện đại; nâng cao tính chuyên nghiệp; có sản phẩm du lịch
chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu và có sức cạnh tranh, nhằm đưa Hà Nội trở
thành điểm đến hấp dẫn, có đẳng cấp, xứng đáng là trung tâm du lịch lớn của cả
nước và khu vực.

1.2. Tổng quan về tình hình khai thác nước ngầm khu vực nội thành
thành phố Hà Nội
Khu vực nội thành thành phố Hà Nội hầu như sử dụng 100% các nguồn nước
dưới đất. Với tốc độ đô thị hoá, dân số gia tăng nhanh chóng, công nghiệp, nông
nghiệp phát triển. Việc khai thác nước dưới đất tăng lên rất mạnh với hình thức khai
thác đa dạng. Hiện nay có ba hình thức khai thác nước dưới đất chủ yếu: khai thác
tập trung, khai thác đơn lẻ và khai thác nước theo quy mô gia đình.
1.2.1.. Khai thác nước tập trung
Theo thống kê đến năm 2013 khu vực phía Tây Nam Hà Nội có 14 nhà máy
nước khai thác nước tập trung với tổng công suất khoảng 563.400 m 3/ng. Sơ đồ vị
trí các nhà máy nước được chỉ ra trong hình 1-4, lưu lượng khai thác tại các nhà
máy nước được trình bày trong bảng 1-2.

11



Hình 1-4: Sơ đồ vị trí các nhà máy nước khu vực Tây Nam Hà Nội

12


Các giếng khai thác nước tập trung tại các nhà máy nước và các cụm giếng
khai thác đều có ống lọc đặt trong tầng chứa nước Pleistoxen có chiều sâu phân bố
từ 10 đến 80 m.
Bảng 1-2: Bảng thống kê lưu lượng khai thác nước tập trung
ST

Tên nhà máy

Số lượng

Công suất

TCN khai

T
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

11
12
13
14

nước
Thượng Cát
Cáo Đỉnh
Yên Phụ
Mai Dịch
Ngọc Hà
Lăng Bác
Ngô Sỹ Liên
Lương Yên
Bách Khoa
Hạ Đình
Tương Mai
Nam Dư
Pháp Vân
Hà Đông
Tổng

giếng
9
19
33
24
14
6
19

15
2
13
13
20
12
12
211

khai thác m3/ng
60000
60000
90000
60000
32000
4800
47000
50000
2600
20000
20000
60000
21000
36000
563400

thác
Pleistoxen
Pleistoxen
Pleistoxen

Pleistoxen
Pleistoxen
Pleistoxen
Pleistoxen
Pleistoxen
Pleistoxen
Pleistoxen
Pleistoxen
Pleistoxen
Pleistoxen
Pleistoxen

1.2.2. Khai thác đơn lẻ
Hình thức khai thác nước đơn lẻ thường phổ biến chủ yếu trong các nhà máy,
xí nghiệp phân bố trên phạm vi khu vực Hà Nội. Mỗi đơn vị thường có một hoặc
vài giếng khai thác nước phục vụ cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt trong đơn vị
của mình. Các giếng khai thác nước dạng này chủ yếu khai thác nước trong tầng
chứa nước Pleistoxen với công suất mỗi giếng khoảng 5 – 5000 m 3/ng. Theo thống
kê năm 2010 toàn bộ khu vực phía Tây Nam Hà Nội có khoảng 245 cơ sở khai thác
nước bằng các giếng khoan công nghiệp khai thác đơn lẻ, tổng số giếng là 293
giếng, tổng công suất khai thác là 133.400 m3/ng.
1.2.3. Khai thác nước quy mô gia đình
Hình thức khai thác nước này chủ yếu là các giếng khoan kiểu UNICEF có
chiều sâu lỗ khoan nông hoặc các giếng đào. Tầng chứa nước khai thác chủ yếu là
tầng Holocen.

13


Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ năm 2008 quận Nam Từ Liêm và Bắc Từ

Liêm có khoảng 17048 công trình, huyện Thanh Trì có khoảng 6303 công trình khai
thác nước dạng khai thác nhỏ cấp nước quy mô gia đình. Lưu lượng khai thác của
mỗi công trình thường nhỏ hơn 2 m3/ng.
Tác động của nhân tố này biểu hiện rõ nét qua sự suy giảm mực NDĐ ở vùng
Tây Nam Hà Nội nơi tập trung chủ yếu các bãi giếng khai thác công suất lớn, tạo
thành các phễu hạ thấp sâu có tốc độ suy giảm mực nước khác nhau.
Dải ven sông Hồng có chiều rộng từ 2-4km, tốc độ giảm mực nước từ 0,1 đến
0,3m/năm. Khu vực tương đối xa sông với khoảng cách từ 4-7km, mực NDĐ từ
năm 2008 bắt đầu bị suy giảm với tốc độ từ 0,3-0,5m/năm. Mực nước thấp nhất so
với mặt đất năm 2008 ở bãi giếng Tương Mai là 27,38m, Pháp Vân là 23,52m (hình
1-5, hình 1-6). Khu vực từ Mai Dịch đến Thanh Xuân, Hạ Đình, mực NDĐ bị suy
giảm mạnh với tốc độ từ 0,4-0,8m/năm. Mực nước thấp nhất so với mặt đất năm
2008 ở bãi giếng Mai Dịch là 25,47m, Hạ Đình là 34,60m sâu nhất vùng Hà Nội
(hình 1-7, hình 1-8, hình 1-9).

Hình 1-5: Đồ thị dao động mực nước các lỗ khoan quan trắc P.42a tại các bãi
giếng Tương Mai.
Hình 1-6: Đồ thị dao động mực nước các lỗ khoan quan trắc P_60aa tại các bãi
giếng Pháp Vân.

Hình 1-7: Đồ thị dao động mực nước các lỗ khoan quan trắc P.29a tại bãi giếng
Ngọc Hà.

Hình 1-8: Đồ thị dao động mực nước các lỗ khoan quan trắc P.45a tại bãi giếng
Hạ Đình

14


Hình 1-9: Đồ thị dao động mực nước các lỗ khoan quan trắc Q_63aM tại bãi

giếng Mai Dịch.
Kết quả theo dõi phễu hạ thấp mực nước trong năm 2008 vùng Hà Nội cho
thấy diện tích bị ảnh hưởng khai thác có sự thay đổi theo mùa ở các mức cốt cao
mực nước đạt các trị số dưới đây. Tuy nhiên xu thế chung cho thấy chúng phát triển
không chỉ theo chiều sâu mà còn phát triển cả chiều rộng, diện tích phễu hiện nay
đã tăng hơn thời điểm 2005 là 81.73 km2, tức là tăng 37%. (hình 1 -10).
- Diện tích ảnh hưởng do khai thác (cốt cao mực nước < 0m) thay đổi từ
259.59 (Tháng 8/2013) đến 300.10 km2 (Tháng 12/2013).
- Diện tích ảnh hưởng mạnh do khai thác (cốt cao mực nước < - 8m) thay đổi
từ 112.51 (Tháng 8/2013) đến 124.14 km2 (Tháng 12/2013).
- Diện tích ảnh hưởng mạnh do khai thác (cốt cao mực nước < - 14m) liên tục
mở rộng từ 39.34 (Tháng 1/2013) đến 48.27 km2 (Tháng 11/2013).

15


d iệ n t íc h p h ễ u h ạ t h ấ p

chỉ dẫn

P .4 1

D iệ n tíc h p h ễ u < 0 m : 2 9 3 .4 4 K m 2
D iệ n t íc h p h ễ u < - 8 m : 1 1 8 . 2 6 K m 2

2

D iệ n t íc h p h ễ u < - 1 4 m : 4 2 . 9 3 K m 2

L ỗ k h o a n q u a n trắ c

Đ

ờ n g th u ỷ đ ẳ n g á p

Hỡnh 1-10: S phu h thp mc ND vựng Tõy Nam H Ni thỏng 3/2013.

II. c im a cht- a cht thy vn.
2.1. a cht
Vựng nghiờn cu nm trong trng kin to H Ni, ó c nhiu tỏc gi v
c quan nghiờn cu t m v a tng v cu trỳc a cht. Vỡ vy trong lun vn ny
ch cp n c im a tng a cht gii Kainozoi theo ti liu ca on a
cht 64 trong Bỏo cỏo lp bn a cht thy vn a cht cụng trỡnh t l 1:
50.000 vựng H Ni v cỏc ti liu V phong húa v trm tớch t Vit Nam ca
Ngụ Quang Ton. Cỏc thnh to trm tớch Kainozoi phỏt trin khỏ mnh m, bao
gm cỏc phõn v a tng c mụ t t c n tr nh sau:
* Gii Kainozoi
2.1.1. H Neogen - Thng Pliocen, tng Vnh Bo (N2vb).
H tng Vnh Bo c on a cht H Ni xỏc lp nm 1989. Trong vựng
nghiờn cu, trm tớch ca h tng ny b ph hon ton bi cỏc trm tớch tr hn, ch
xỏc nh c qua ti lu cỏc l khoan. Thnh phn thch hc ch yu gm cui si
mi trũn tt ln bt set xen kp bt cỏt gn kt yu.
16


Về mặt quan hệ địa tầng: Tầng Vĩnh Bảo nằm phủ bất chỉnh hợp lên bề mặt
móng các đất đá có tuổi cổ hơn và bị các trầm tích Đệ tứ phủ bất chỉnh hợp lên trên.
Các lỗ khoan trong vùng chưa khoan hết tầng Vĩnh Bảo (N 2vb), tuy nhiên theo
tài liệu thăm dò của đoàn địa chất 64 cho thấy bề dày của tầng (N 2vb) khoảng 250
m.
2.1.2. Hệ Đệ tứ:

2.1.2.1. Thống Pleistocen hạ, tầng Lệ Chi (a Q1lc):
Tầng Lệ chi (a Q1lc) được đoàn địa chất Hà nội xác lập năm 1987 trên cơ sở
nghiên cứu địa tầng các lỗ khoan, tài liệu Carota, cổ sinh và so sánh với các thành
tạo trầm tích Q1 ở vùng lộ đá gốc. Chiều dầy thay đổi từ khu vực Nhổn 2,5m tăng
dần đến khu vực Thanh Trì 24,5m.
Theo đặc điểm thạch học có thể phân chia tầng Lệ Chi (a Q1lc) thành 3 tập:
+ Tập dưới: Gồm cuội, sỏi lẫn ít cát, bột, sét thuộc tướng lòng miền núi.
Thành phần khoáng vật chủ yếu là thạch anh, silíc, kích thước cuội trung bình từ 3 6 cm, độ chọn lọc trung bình đến kém, độ mài tròn tốt.
+ Tập giữa: Gồm cát hạt nhỏ, cát bột màu vàng xám, độ chọn lọc, độ mài tròn
tốt. Thành phần khoáng vật chủ yếu là thạch anh chiếm 90 - 95 %, còn lại là silíc,
fenspat, và một ít khoáng vật nặng. Trầm tích thuộc tướng lòng sông và gần lòng
sông, thành tạo trong môi trường có dòng chảy phân dị mạnh.
+ Tập trên gồm: bột, sét, cát màu xám, xám vàng, xám đen lẫn mùn thực vật
(có cả thực vật chưa phân hủy hết), độ chọn lọc và mài tròn kém thuộc tướng bãi
bồi. Trong tập này chứa di tích bào tử phấn hoa: Polyapodia ceae, Lycopodium,
Pirus, Cedrus, Morus... và một ít tảo nước ngọt Centrophy ceae, xác định tuổi
Pleistoxen dưới.
Về quan hệ địa tầng: Tầng (a Q1lc) nằm phủ bất chỉnh hợp lên tầng (N2vb).
Bề dày của tầng tại khu vực nghiên cứu thay đổi từ 3.5m đến 25.0m, trung
bình 12.0m.
2.1.2.2 Thống Pleixtocen trung – hạ, tầng Hà Nội (a Q1hn)
Các trầm tích tầng Hà Nội (aQ1hn) phân bố rộng khắp vùng nghiên cứu, tuy
nhiên chỉ lộ ra ở một số vùng ven rìa phía Bắc nối tiếp giao vùng núi còn lại chủ
yếu bị chìm dưới các thành tạo có tuổi trẻ hơn.
17


Với vùng phủ: Bề dày của tầng thay đổi từ vài m đến 32.3m, trung bình 22.5m.
Mặt cắt đặc trưng của tầng này được chia thành 3 tập:
+ Tập dưới: Thành phần thạch học chủ yếu là cuội sạch lẫn cát kích thước phổ

biến từ (5.0 ÷ 7.0)cm đôi khi gặp tảng có kích thước đạt đến (10.0 ÷15.0)cm, lẫn sỏi
sạn và ít bột cát tướng lòng sông miền núi và chuyển tiếp xen kẽ với nhngx pha lũ
tích. Cuội có thành phần khoáng vật chủ yếu là thạch anh, silíc và ít đá phun trào,
độ mài tròn kém đến trung bình. Độ sâu phổ biến từ (30.5 ÷ 63.0)m. bề dày 10-34m.
+ Tập giữa: gồm sỏi nhỏ cát thô, cát bột màu vàng xám là sản phẩm của pha
xâm thục thứ 2. Chiều dày trung bình 17m.
+ Tập trên: Gồm bột sét, bột cát màu xám, xám vàng, xám nâu đôi khi có lẫn
cuội nhỏ, sạn cát. Thỉnh thoảng trong tầng này gặp các thấu kính sét bột, màu xám
xanh, xám đen lẫn mùn thực vật đặc trưng cho tướng bãi bồi. Mặt cắt địa chất dọc
theo bãi giếng Gia Lâm cho thấy bề dày của tập này thay đổi từ (0 ÷ 3.5)m.
Với vùng lộ: thường chúng nằm phủ lên bề mặt lớp phong hóa laterit của đá
gốc tuổi Neogen ở Mê Linh, Sóc Sơn – Vệ Linh, Phú Cường Kim Anh. Tập dưới
gồm cuội, cuội tàng lẫn sỏi sạn, cát bột có ít sét màu vàng nâu. Chiều dày 0.5-2m.
Tập trên gồm cát bột, bột có ít cát màu vàng gạch bề dày 0,3-2,5m bị laterit
hóa thành lớp đá ong. Tại Mê Linh, Sóc Sơn, các trầm tích này quan sát thấy là các
các sản phẩm lục tích, sườn tích, dạng nón phóng vật cổ gồm cuội tảng, tảng, cuội
dăm hỗn độn lẫn ít bột sét. Cuội mài tròn kém, chiều dày 1-2m, phần trên chủ yếu là
bột sét màu vàng gạch lẫn ít dăm và kết vón oxit sắt cứng chắc. Bề dày 2-4m.
2.1.2.3. Thống Pleixtocen thượng tầng Vĩnh Phúc (alb Q1vp).
Tầng này có diện phân bố hầu như rộng khắp vùng nghiên cứu lộ ra trên mặt
chiếm phần lớn khu vực bờ trái Sông Hồng và một chỏm nhỏ vùng Cổ Nhuế, Xuân
Đỉnh. Chúng bị các trầm tích trẻ hơn phủ lên nên chỉ quan sát được từ các các lỗ
khoan.
Đặc điểm nổi bật của tầng Vĩnh Phúc là bề mặt bị laterit hóa yếu có màu loang
lổ và có sự chuyển đổi nhanh về thành phần thạch học theo chiều ngang
Tầng Vĩnh Phúc được chia làm 4 tập theo thứ tự từ dưới lên như sau:
+ Tập 1 dưới: gồm cuội, sỏi nhỏ lẫn cát hạt nhỏ, trung, thô ít bột sét màu xám
vàng, xám. Thành phần đa khoáng nhưng chủ yếu là thạch anh. Theo tài liệu của
18



đoàn địa chất Hà Nội trong tập này có chứa di tích tảo nước ngọt Gomphonema,
Navicula, Centrophyceae...Thành phần thạch học chủ yếu là cát hạt trung, hạt thô,
màu xám xanh, xám vàng lẫn sỏi. Bề dày 3-10m.
+ Tập 2: gồm cát bột có ít sét cát vàng thỉnh thoảng có thấu kính sỏi nhỏ. Bề
dày 33m
+ Tập 3 Sét caolin màu trắng, sét bột xám vàng, cát bột sét xen kẽ thành từng
nhịp cát bột, bột sét, sét lẫn bột và cát mịn thuộc tướng bãi bồi. Bề dày 2-10m
+ Tập 4: gồm sét đen,, bột sét màu đen lẫn mùn thực vật, bột sét xám vàng, ở
vùng Sóc Sơn trong bột sét có thấu kính sỏi nhỏ và thấu kính than bùn thuộc tướng
hồ đầm lầy. Bề dày 2-10m.
Trong phần này có chứa bào tử phấn hoa gồm các dạng của dương xỉ. thực vật
hạt trần và hạt kín không có yếu tố ngập mặn như Polypodium sp và tảo nước ngọt
Penmadrophye ceae... Tầng Vĩnh Phúc (a,am Q 1vp) phủ bất chỉnh hợp lên tầng Hà
Nội (aQ1hn) và được các nhà địa chất thuộc đoàn địa chất 64 (1989) thừa nhận là
các thành tạo lục địa liên quan chặt chẽ với quá trình hoạt động của hệ thống sông
Hồng, có tuổi Pleistoxen thượng. Bề dày trung bình của cả tầng là 36.7m.
2.1.2.4. Thống Holocen
2.1.2.4.1.Phụ thống Holocen trung – hạ, tầng Hải Hưng (Q 21-2hh)
Tầng Hải Hưng (Q41-2hh) phân bố rộng rãi bao gồm các tích tụ đa nguồn gốc
hồ - đầm lầy (lb Q21-2hh), tích tụ sông - biển (am Q21-2hh), tích tụ biển (m Q21-2hh),
hồ (lQ21-2hh) và đầm lầy (b Q21-2 hh). Song trong vùng nghiên cứu chỉ tồn tại tích tụ
hồ - đầm lầy (lb Q21-2hh), tích tụ biển (m Q21-2hh). Được xếp vào hai phụ tầng.
+ Phụ tầng dưới - Trầm tích hồ - đầm lầy (lb Q21-2hh).
Các trầm tích này phân bố khá rộng rãi phần lớn bị các trầm tích Holocen
muộn phủ lên. Thành phần thạch học của phụ tầng gồm sét, sét cát, bột sét lẫn tàn
tích thực vật than bùn đen, xám đen mềm nhão. Chiều dày trung bình của phụ tầng
4,6m. Phụ tầng dưới nằm trên bề mặt phong hoá loang lổ của tầng Vĩnh Phúc
(aQ1vp).
Tích tụ bùn than có nhiều kiểu hồ ven biển như ở khu vực Hồ Thành Công,

Thạch Bàn, và các đầm lầy lục địa như khu vực Sơn Đồng, Hoài Đức.
+ Phụ tầng trên - Trầm tích biển (mQ21-2hh):
19


Có mặt ở rải rác phần bờ trái sông Hồng và phổ biến phía Nam, Đông Nam
vùng nghiên cứu, bị các trầm tích Holocen muộn phủ bất chỉnh hợp lên. Thành phần
thạch học của phụ tầng gồm sét, sét bột màu xám xanh, xám xanh lơ, xanh xám rất
đặc trưng, phần dưới lẫn ít mùn thực vật hoặc kết vón oxit sắt. Chiều dày trung bình
của phụ tầng 6.0m.
Tại khu vực bãi giếng Gia Lâm tầng Hải Hưng hầu như bị bào mòn hoàn toàn,
tất cả các lỗ khoan thăm dò đều không gặp tầng này. Địa tầng ở đây sau khi kết thúc
tầng (a Q3vp) chuyển tiếp ngay sang tầng (a Q 43tb ), chứng tỏ tồn tại một cửa sổ địa
chất thuỷ văn của tầng (Q21-2hh) tại khu vực nghiên cứu.
2.1.2.4.2. Phụ thống trên, tầng Thái Bình (al Q23tb ).
Tầng Thái Bình (a Q23tb) gồm các trầm tích có nhiều nguồn gốc và là trầm tích
trẻ nhất được thành tạo từ 3000 năm trước cho đến ngày nay. Diện phân bố phủ trên
hầu hết khu vực nghiên cứu ngoài các khu vực lộ các trầm tích hệ tầng Vĩnh Phúc ở
phía Bắc nêu trên. Dựa vào nguồn gốc, thành phần thạch học và điều kiện thành tạo
có thể chia thành hai phụ tầng:
+ Phụ tầng Thái Bình dưới(al Q2tb1 ): diện phân bố rộng khắp vùng nghiên
cứu có nơi lộ hẳn trên mặt đất. Độ sâu phân bố của tầng từ (0.0 ÷ 12.8)m, trung
bình 5.2m. Gồm 2 phân tầng:
* Phân tầng trầm tích nguồn gốc sông(a Q2tb): Phân bố rộng rãi trên bề mặt
đồng bằng gồm 3 tập:
-

Tập dưới gồm cuội nhỏ, sỏi cát, bột sét lẫn ít cát bột sét. Chiều dày 1-9m.

-


Tập giữa gồm bột màu xám lẫn ít mùn thực vật, dày 3-18m.

-

Tập trên gồm bột sét lẫn mùn thực vật.
* Phân tầng trầm tích sông hồ đầm lầy (alb Q2tb1: Phân bố rải rác ở vùng
đồng bằng là các tích tụ từ các hồ, sông chết bị lầy hóa. Thành phần lá sét lần mùn
thực vật.Dày 1m.
+ Phụ tầng Thái Bình trên (a Q2tb2): Đây là các thành tạo trẻ nhất có diện
phân bố nhỏ ngoài đê hiện tại của các sông Hồng, Đuống, Cà Lồ và các nhánh chi
lưu nhỏ khác. Các thành tạo Aluvi gồm bột sét, cát bột màu nâu, vàng xám chứa ốc
trai, hến nước ngọt có nơi gặp cuội sỏi nhỏ ở đáy phụ tầng. Bề dày chung của tầng:
5-10m.
20


2.2. Địa chất thủy văn
Vùng nghiên cứu đã được nhiều cơ quan và các nhà địa chất thuỷ văn nghiên
cứu khá tỷ mỉ. Trên cơ sở tài liệu đã thu thập, căn cứ vào thành phần thạch học,
điều kiện thành tạo và đặc điểm địa chất thuỷ văn của đất đá như tính thấm, mức độ
chứa nước, các đặc tính thuỷ động lực có thể phân chia địa tầng địa chất thuỷ văn
tầng chứa nước Pleistocen ở khu vực nghiên cứu thành các đơn vị chứa nước và
cách nước như sau:
Bảng 2-1: Bảng tổng hợp các phân vị địa tầng địa chất thuỷ văn khu vực Tây
Nam Hà Nội.
STT
Các tầng chứa nước và cách nước.
1
Lớp cách nước trong trầm tích Holocen

2
Tầng chứa nước trong trầm tích Holocen.
3

Lớp cách nước trầm tích Pleixtocen- Holocen.

4

Tầng chứa nước trong trầm tích Pleixtocen thượng.
Lớp cách nước trong trầm tích Pleixtocen trung –

5
6

thượng.
Tầng chứa nước trong trầm tích Pleixtocen trung –
thượng.

Ký hiệu
(alb Q2tb 1-2)
(a Q2tb2)
(aQ2hh2(aQ1
vp2))
(a Q1 vp1)
(a Q1hn2)
(a Q1hn1)

2.2.1. Tầng cách nước trong trầm tích Holocene (albQ2tb 1-2, albQ2hh 1-2)
Đây là tầng cách nước bao phủ hầu hết bề mặt vùng nghiên cứu bao gồm các
trầm tích sét, sét bùn, sét bùn, bột thuộc hệ tầng Thái Bình (alb Q2tb 1-2) và hệ tầng

Hải Hưng (alb Q2hh2). Do thành phần vật liệu rất mịn nên tính chất thấm nước rất
kém. Bề dày 5m đến 10.2 m, trung bình 8.5m.
2.2.2. Tầng chứa nước trong trầm tích Holocene (aQ2tb 1-2, aQ2hh 1-2)
Tầng chứa nước bao gồm các thành tạo có nguồn gốc khác nhau của các trầm
tích hiện đại tầng Thái Bình (Q23tb) và phần trên của tầng Hải Hưng (aQ21-2hh).
Các loại đất đá chứa nước có thành phần chủ yếu là cát hạt mịn, hạt trung màu
xám lẫn sét bột, mùn thực vật có nơi đáy tầng lẫn sạn sỏi nhỏ, cuội nhỏ thuộc tướng
lòng sông, bãi bồi. Kết quả phân tích thành phần hạt cho thấy:
- Hàm lượng hạt bụi sét (<0,05m) chiếm 7 ÷ 12,5%
- Hàm lượng các hạt cát sỏi 87,5÷ 93%
21


Tầng chứa nước này là tầng không áp hoặc áp lực yếu cục bộ.Mức độ phong
phú nước phụ thuộc vào thành phần thạch học và bề dày của tầng.ở những nơi đất
đá được cấu tạo bởi cát hạt trung, thô, lẫn cuội sỏi có bề dày lớn thì tầng này rất
giàu nước.
Từ các kết quả quan trắc động thái và thí nghiệm ngoài trời cho thấy rằng
nước dưới đất TCN có quan hệ trực tiếp với nước sông Hồng, được sông Hồng bổ
cập. Nó thoát đi bằng con đường bay hơi, do khai thác phục vụ sinh hoạt từ các
giếng đào, các lỗ khoan tay. Hoặc ngấm xuống cung cấp cho các tầng chứa nước
khai thác ở bên dưới.
2.2.3. Tầng cách nước trong trầm tích Pleixtocene-Holocen (alb Q1 vp2).
Phân bố rộng rãi, các lỗ khoan gặp chúng ở độ sâu từ: (0 ÷ 23,0) m, Bề dày
dao động từ: (0,60÷23,0)m, trung bình 10,2m. Tại khu vực bãi giếng Gia Lâm chiều
dày thay đổi từ 1,0÷ 23m, trung bình 7,15 m. Vật liệu cấu tạo nên tầng cách nước
bao gồm các thành tạo cát pha, sét pha lẫn tàn tích thực vật màu xám đen, xám nâu
của hệ tầng Hải Hưng và các lớp sét, sét pha, cát pha bị laterit hoá loang lổ thuộc
tập trên tầng Vĩnh Phúc. Về quan hệ địa tầng, chúng phủ lên trên TCN Q1vp1 và bị
phủ bởi tầng chứa nước Q2hh.

Trong tầng này phát hiện nhiều thấu kính có mức độ nước giầu đến trung
bình.Chiều dày 6,8m - 9m. Có thể đây là do nước biển tàn dư còn lại được pha trộn
với nước khí tượng từ trên xuống.
2.2.4. Tầng chứa nước trong trầm tích Pleixtocen thượng (aQ12 vp1).
Tầng chứa nước được phân bố rộng rãi khắp đồng bằng bao gồm các trầm tích
thuộc tập dưới của tầng Vĩnh Phúc. Thành phần đất đá bao gồm: Cát hạt mịn, trung,
thô màu vàng, xám đáy tầng có lẫn sạn nhỏ. Đôi chỗ gặp cuội, sỏi có kích thước
2÷3 cm.
Phần Nam Sông Hồng, bề dày của tầng chứa nước thay đổi từ: 3,0÷ 36,5m,
trung bình 12,02m.
Phần Bắc Sông Hồng chúng được phát hiện ở độ sâu từ: 1÷24,5 m, trung bình
12,19m.
Tai khu vực bãi giếng Gia Lâm bề dày dao động từ: 8,7 m (H24-5A) đến 20,5
m (H26). Kết quả phân tích thành phần hạt tầng chứa nước cho thấy:
22


- Hàm lượng hạt sét bụi (<0,05mm) 0,0 %.
- Hàm lượng hạt cát (0,05÷2mm) từ 85,5÷100%, trung bình 95,2%.
- Hàm lượng hạt sỏi (2÷10mm) biến đổi từ 0,0÷19,5%, trung bình 4,2%.
- Hàm lượng hạt cuội (>10mm) từ 0,0÷4%, trung bình 0,7%.
Đây là tầng chứa nước áp lực yếu, khá phong phú nước. Nguồn cung cấp cho
nước dưới đất TCN là nước mưa, nước mặt nước tưới ruộng và thoát theo sông,
hồ,bay hơi và ngấm xuống cấp cho tầng dưới. Tài liệu quan trắc động thái cho thấy
nước trong tầng này bị dao động theo mùa rất rõ rệt do ảnh hưởng của nước sông
Hồng và sự khai thác mãnh liệt từ hệ thống khai thác nước tập trung từ tầng chứa
nước chính bên dưới nó.
2.2.5.Lớp cách nước trong trầm tích Pleixtocene giữa trên (a Q1 vp2 ).
Lớp cách nước phân bố rất rộng nhưng không liên tục, có nơi bị bào mòn hoặc
mất hẳn ở nơi đó TCN trên phủ trực tiếp lên TCN chính bên dưới.

Phía Nam sông Hồng chiều dày thay đổi từ 0,5 m đến 13m, trung bình 5,22m
trong đó bề dày < 5m có 11LK, từ 5-10m có 8LK và > 10m có 5LK. Tại khu vực
Bãi giếng Gia Lâm, các lỗ khoan thăm dò gặp chúng ở độ sâu (33,2÷44,0m), với bề
dày thay đổi từ 0 đến 19,0 m, trung bình 6,4 m. Là tập trên cùng của tầng Hà Nội,
thành phần thạch học bao gồm: Bột- sét, bột- cát màu xám vàng, sạn sỏi lẫn sét- bột,
cát pha, sạn sỏi lẫn mùn thực vật.
2.2.6.Tầng chứa nước trong trầm tích Pleixtocene trung - thượng (aQ1hn).
Tầng chứa nước phân bố rộng khắp trong khu vực Hà Nội nói chung cả đồng
bằng Bắc Bộ. Đất đá chứa nước gồm tập dưới của tầng Hà Nội và các thành tạo của
tầng Lệ Chi.
Bề dày tầng chứa nước thay đổi rất lớn với xu thế tăng dần từ Băc xuống Nam
và từ rìa vào trung tâm Hà Nội.
Vùng phía Nam Sông Hồng thay đổi từ 1,6m LK 60 đến 46m LK 54 Chèm,
trung bình 18,14m. Chiều dầy tầng chứa nước trong trầm tích Lệ Chi thay đổi từ 2m
đến 32,7m; trung bình 11,38m
Vùng phía Bắc sông Hồng bề dày thay đổi từ 2,5m đến 44,5m; trung bình
18,58m. Hệ tầng Lệ Chi tăng dần về phía Nam. Bề dày 3m đến 26,5; trung bình
13,47m.
23


Tại khu vực bãi giếng Gia Lâm chiều dày tầng chứa nước thay đổi trong
khoảng từ 15,0m đến 34,5 m, trung bình 25,5 m. Thành phần thạch học bao gồm:
Cuội, sỏi, sạn, lẫn cát và bột sét.
Tầng chứa nước chính có quan hệ thuỷ lực chặt chẽ với các tầng chứa nước
bên trên nó và nước sông Hồng, sông Đuống. Đặc biệt do tình trạng khai thác ồ ạt
của tất cả các nhà máy nước phục vụ dân thủ đô với tổng lưu lượng lên đến trên1
triệu m3/ng đã gây ra một phễu hạ thấp mực nước và chất lượng nước cũng bị giảm
theo thời gian và lan rộng trong tầng chứa.
Nguồn cung cấp nước cho tầng chứa từ nước Sông Hồng, nước mưa nhấm

xuống qua các tầng bên trên và nước tưới ruộng.
Miền thoát chủ yếu là khai thác phục vụ nhu cầu nhân dân thủ đô.

24


CHNG 3: CHT LNG NC V PHN VNG CHT
LNG NC TNG CHA NC PLEISTOCEN
3.1. Hin trng cht lng nc khu vc nghiờn cu
3.1.1. Kt qu quan trc phõn tớch
Theo thng kờ ca cỏc mng li quan trc ng thỏi nc di t thuc khu
vc H Ni.

S lần lấy mẫu phân tích thành phần hoá học của nớc dới đất đợc thực
hiện một năm 2 lần/công trình. Một đợt mẫu lấy vào mùa khô (tháng 2-3) và
một đợt mẫu lấy vào giữa mùa ma (tháng 8-9) phân tích nhiều chỉ tiêu. Thiết
bị lấy mẫu là máy bơm chìm MP1. Mẫu lấy đợc bảo quản và phân tích tại
Trung tâm quan trắc và phân tích Tài nguyên và Môi trờng Hà Nội.

25


×