Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

Hoàn thiện kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Kiểm toán ASC thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.17 KB, 111 trang )

MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, những kết quả
nghiên cứu được sử dụng trong khóa luận của các tác giả khác đã được tôi xin ý
kiến sử dụng và được chấp nhận. Các số liệu trong khóa luận là kết quả khảo sát
thực tế từ đơn vị thực tập. Tôi xin cam kết về tính trung thực của những luận điểm
trong khóa luận này.
Tác giả khóa luận
(Ký tên)
Vũ Thị Tươi


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. BCĐ
2. BCKQKD
3. BCTC
4. GTGT
5. HĐQT
6. HTK
7. HTKSNB
8. KH
9. KTV
10. LN
11. NV
12. TNHH
13. TSCĐ
14. VCSH
15. XDCB



: Bảng cân đối
: Báo cáo kết quả kinh doanh
: Báo cáo tài chính
: Giá trị gia tăng
: Hội đồng quản trị
: Hàng tồn kho
: Hệ thống kiểm soát nội bộ
: Khách hàng
: Kiểm toán viên
: Lợi nhuận
: Nghiệp vụ
: Trách nhiệm hữu hạn
: Tài sản cố định
: Vốn chủ sở hữu
: Xây dựng cơ bản

Danh mục sơ đồ, bảng biểu


Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nến kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập mạnh mẽ, đồng thời yêu cầu minh
bạch hóa BCTC được đặt ra ngày càng cấp thiết hơn bao giờ hết. Đây chính là cơ hội
nhưng cũng mang đầy thách thức đối với lĩnh vực kiểm toán, đặc biệt là kiểm toán
BCTC độc lập. Kiểm toán BCTC ra đời đảm bảo độ trung thực, tin cậy và hợp lý của
thông tin đươc kiểm toán.
Hiện nay, việc thực hiện kiểm toán BCTC chủ yếu được thực hiện bởi các Công
ty kiểm toán độc lập. Tại Công ty TNHH kiểm toán ASC, nhằm duy trì uy tín, hình
ảnh và vị thế của một Công ty kiểm toán trên thị trường Việt Nam, việc nâng cao hiệu

quả tổ chức quản lý và kiểm soát chất lượng kiểm toán luôn được đặt lên hàng đầu.
Qua 7 năm xây dựng và phát triển, Công ty đã không ngừng lớn mạnh để mang lại
dịch vụ tốt nhất cho khách hàng và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế
nước nhà.
Chu trình bán hàng – thu tiền là một chu trình có liên quan đến nhiều khoản
mục trọng yếu trên Bảng cân đối kế toán cũng như Báo cáo kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Do đó chu trình bán hàng – thu tiền là một trong những phần hành kiểm
toán quan trọng trong kiểm toán báo cáo tài chính. Nhận thấy tầm quan trọng của chu
trình này, em đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền
trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Kiểm toán ASC thực hiện”.
1.2 Tổng quan các đề tài

Với tầm ảnh hưởng lớn tới báo cáo tài chính mà đề tài kiểm toán chu trình
bán hàng – thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính đã có rất nhiều đề tài


nghiên cứu về vấn đề này và đạt được những thành công nhất định. Dưới đây là
một số đề tài tiêu biểu:
Đề tài “hoàn thiện kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền trong kiểm toán
báo cáo tài chính tại Công ty TNHH dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán”
(năm 2013) của tác giả Lê Nguyễn Thùy Giang trường Đại học Kinh tế quốc dân đã
trình bày chi tiết lý luận chung về chu trình bán hàng – thu tiềntrong kiểm toán BCTC
làm nổi bật lên đặc điểm chung và riêng kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền trong
BCTC do công tyTNHH dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán. Ưu điểm của
đề tài là đã nêu được những quy trình chung và những điểm riêng mà Công ty thực
hiện trong quá trình kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền.Hồ sơ kiểm toán được
trình bày khoa học giúp cho người đọc dễ dàng tìm hiểu nghiên cứu.Tất cả các công
việc được giao tại cuộc kiểm toán cho công ty khách hàng đều hoàn thành đúng kế
hoạch. Các giấy tờ làm việc (GTLV) của KTV được trình bày hợp lý, hiệu quả công
việc cao, thời gian làm việc được tận dụng triệt để. Bằng chứng kiểm toán thu được có

độ tin cậy cao. Bên cạnh đó tác giả cũng chỉ ra một số tồn tại Công việc này đòi hỏi
KTV phải có kiến thức sâu sắc bản chất của kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền
để kiểm tra. Vấn đề thu thập thông tin về khách hàng còn hạn chế, chưatìm hiểu sâu;
quá trình kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiềncòn nhiều thiếu sót . Từ đó tác giả đề
xuất kiến nghị các giải pháp hoàn thiện kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiềntrong
báo cáo tài chính.
Đề tài “Kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài
chính do Công ty Hợp danh kiểm toán Việt Nam thực hiện (Phùng Thị Hảo – Kiểm
toán 44B). Đề tài này đã nêu được rõ nét đặc điểm riêng của kiểm toán chu trình bán
hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Hợp danh kiểm toán
Việt Nam thực hiện; làm nổi bật được sự khác biệt của đề tài. Bên cạnh đó đề tài của
tác giả còn một số tồn tại khi nêu các thủ tục làm việc trong quá trình kiểm toán chu
trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính còn nhiều thiếu sót.
Đề tài “Hoàn thiện quy trình kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền trong kiểm
toán báo cáo tài chính tại Công ty TNHH kiểm toán và kế toán AAS (Nguyễn Thị
Kiều My). Điểm nổi bật của đề tài này là tác giả nêu rất cụ thể các thủ tục trong quy
trình kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính tại


Công ty TNHH kiểm toán và kế toán AAS. Các thủ tục, giấy tờ làm việc đầy đủ, rõ
ràng, bên cạnh đó tác giả đã tìm ra được những nhược điểm rất cụ thể còn tồn tại trong
quá trình thực hiện kiểm toán chu trình từ đó tác giả đưa ra được những biện pháp
nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền trong kiểm toán báo
cáo tài chính tại Công ty TNHH kiểm toán và kế toán AAS .
Đề tài “hoàn thiện thủ tục kiểm tra chi tiết trong kiểm toán chu trình bán hàng –
thu tiền tại CôngtyTNHH Kiểm toán và Dịch vụ tin học TP.HCM (AISC) (Trần Tuấn
Anh – kiểm toán 41B). Đề tài đi theo hướng chuyên sâu một phần trong thủ tục kiểm
toán chu trình bán hàng – thu tiền là kiểm tra chi tiết. Tác giả trình bày các giấy tờ làm
việc theo đúng trình tự của thủ tục kiểm toán. Nêu được ưu điểm trong thủ tục kiểm tra
chi tiết trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền tại CôngtyTNHH Kiểm toán và

Dịch vụ tin học TP.HCM (AISC) là rõ ràng, ngắn gọn và đày đủ; xong vẫn tồn tại một
số thiếu sót trong bước kiểm tra chi tiết này từ đó tác giả nêu ra ý kiến của mình nhằm
hoàn thiện thủ tục kiểm tra chi tiết trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền tại
CôngtyTNHH Kiểm toán và Dịch vụ tin học TP.HCM (AISC)
Đề tài “ Hoàn thiện quy trình kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán trong
kiểm toán tài chính do Công ty TNHH Kiểm toán & Tư vấn NEXIA ACPA thực hiện”
của tác giả Vũ Đình Khánh Lớp 52A
Do tầm quan trọng của kiểm toán quy trình bán hàng và thu tiền ảnh
hưởng đến kiểm toán Báo cáo tài chính nên trong quá trình thực tập tại Công ty TNHH
Kiểm toán ASC sinh viên Lê Thị Thu Hiền trường Kinh tế Quốc Dân thực hiện đề tài
“Quy trình kiểm toán bán hàng – thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty
TNHH Kiểm toán ASC”
1.3 Mục đích nghiên cứu đề tài:
Mô tả thực trạng áp dụng quy trình kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền tại
các khách hàng do Công ty TNHH kiểm toán ASC thực hiện. Từ đó nêu nhận xét và
đưa ra những ý kiến đóng góp để hoàn thiện quy trình kiểm toán chu trình bán hàng –
thu tiền trong BCTC do Công ty TNHH kiểm toán ASC thực hiện.
1.4Đối tượng và thời gian nghiên cứu:

- Đối tượng nghiên cứu: quy trình kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền trong kiểm
toán BCTC.


- Thời gian nghiên cứu: đề tài được nghiên cứu trong thời gian 3 tháng.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu: là thu thập các số liệu thực tế và mới nhất từ Hệ
thống KSNB, phòng kế toán, phòng hành chính, phòng kinh doanh của công ty nhằm
cung cấp thông tin
- Phương pháp so sánh và phân tích số liệu: Dùng lý luận và dẫn chứng (chứng
từ, giấy tờ làm việc) cụ thể, sau đó so sánh và phân tích từ đó thấy được những ưu

điểm, nhược điểm của công tác kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền, nhận xét và
đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện.
- Phương pháp quan sát và phỏng vấn: quan sát các công việc được KTV tiến
hành trong quá trình thực hiện kiểm toán và phỏng vấn KTV
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp thống kê, mô tả

1.6 Kết cấu đề tài nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu gồm các chương:
Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Chương 2:Những vẫn đề cơ bản về kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền trong
kiểm toán báo cáo tài chính
Chương 3: Thực trạng kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền trong kiểm toán
BCTC tại Công ty TNHH kiểm toán ASC
Chương 4: Nhận xét và các giải pháp hoàn thiện kiểm toán chu trình bán hàng –
thu tiền trong kiểm toán BCTC do Công ty TNHH kiểm toán ASC thực hiện.


Chương 2: Những vấn đề cơ bản về kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền
trong kiểm toán báo cáo tài chính.
2.1 Khái quát chung về chu trình bán hàng – thu tiền có ảnh hưởng đến kiểm
toán báo cáo tài chính.
2.1.1 Khái niệm, bản chất chu trình bán hàng – thu tiền
Sơ đồ 2.1: Mối liên hệ giữa chu trình bán hàng – thu tiền với các chu trình khác
Tiền

Bán hàng- thu tiền

Tiếp nhận và hoàn trả vốnMua hàng- thanh toánTiền lương và nhân viên


Hàng tồn kho

Trong các chu trình trên, chu trình bán hàng – thu tiền được xem là chu trình
cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh có vai trò quan trọng đó là đánh giá hiệu
quả của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy bản chất của chu
trình bán hàng – thu tiền là gì?
Đi sâu vào tìm hiểu ta nhận thấy, bản chất chu trình bán hàng – thu tiền là quá
trình chuyển quyền sở hữu sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ từ người bán – khách thể


kiểm toán sang người mua- khách hàng của họ, được thực hiện thông qua quá trình
trao đổi hàng – tiền. Như vậy chu trình này bắt đầu khi khách hàng yêu cầu mua hàng
và kết thúc khi hàng hóa, dịch vụ được chuyển đổi thành tiền hoặc ghi nhận khoản
phải thu khách hàng nếu doanh nghiệp thực hiện việc bán chịu. Kết quả của chu trình
bán hàng – thu tiền sẽ cho biết doanh nghiệp có thu hồi được vốn đã bỏ ra và có được
lợi nhuận để tái sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống
của người lao động, đóng góp vào Ngân sách nhà nước hay không? Điều này một lần
nữa nhấn mạnh vai trò của chu trình bán hàng – thu tiền đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Bán hàng là một quá trình có mục đích thống nhất song phương thức thực hiện
rất đa dạng. Chẳng hạn theo phương thức trao đổi và thanh toán có thể có bán hàng
theo phương thức thu tiền mặt trực tiếp về két hoặc thu qua ngân hàng, bán hàng theo
phương thức giao hàng trực tiếp nhưng thu tiền sau (bán chịu), bán hàng theo phương
thức gửi hàng đại lý…
2.1.2 Đặc điểm chu trình bán hàng – thu tiền có ảnh hưởng đến kiểm toán báo
cáo tài chính.
BCTC là tấm gương phản ánh kết quả tổng hợp của một doanh nghiệp. Quá
trình này bao gồm các chu trình nghiệp vụ kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Các chu trình này không có điểm bắt đầu hoặc kết thúc ngoại trừ lúc doanh nghiệp bắt

đầu hoặc kết thúc hoạt động của mình; tuy nhiên nếu xét trên khía cạnh tổng quát thì
các chu trình này cũng có thể được phân tích một các tương đối. Cụ thể một công ty
bắt đầu hoạt động bằng cách huy động vốn thường dưới dạng tiền mặt (chu trình huy
động vốn hoàn trả), tiền đó được dùng để mua nguyên vật liệu, hàng hóa và các dịch
vụ đầu vào có liên quan đến quá trình sản xuất (chu trình tiền lương và thanh toán), để
thuê mướn lao động cho sản xuất (chu trình tiền lương và nhân sự). Quá trình sản xuất
thành phẩm được lưu kho chờ (chu trình hàng tồn kho), sau đó hàng tồn kho được bán
và thu tiền (chu trình bán hàng và thu tiền).
Theo trình tự trên thì chu trình huy động vốn có thể được coi một cách tương
đối là chu trình cuối cùng hoàn thành một vòng tuần hoàn vốn, tiền nhờ đó được tạo ra
một phần dùng để hoàn trả vốn và để lại cho các chu kỳ kinh doanh tiếp sau. Mỗi chu
trình nghiệp vụ kinh doanh đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chu trình trước tạo


tiền đề cho chu trình sau và chu trình sau là căn cứ đánh giá hiệu quả của toàn bộ quá
trình kinh doanh.
Với chu trình bán hàng và thu tiền, các nghiệp vụ về kinh doanh, doanh thu trả
lại, chiết khấu, giảm giá, các khoản thu về tiền, số dư các tài khoản phải thu và cá
khoản dự phòng đều là những bộ phận chi tiết. Khi kiểm tra chu trình này, sau những
bước khảo sát hệ thống kiểm soát nội bộ, khảo sát nghiệp vụ và đi sâu vào khảo sát chi
tiết số dư tài khoản. KTV phải xác định được tài khoản điển hình của chu trình này là
những tài khoản nào. Từ đó để có các thủ tục kiểm toán cần thiết để thu thập đầy đủ
bằng chứng xác đáng về mọi khía cạnh làm cơ sở kết luận về phần hành bán hàng –
thu tiền nói riêng và BCTC nói chung.
2.1.3 Các chức năng cơ bản của chu trình bán hàng – thu tiền
Xuất phát từ bản chất và hình thức biểu hiện, chu trình bán hàng – thu tiền được
cụ thể hóa thành các chức năng sau:
Xử lý đơn đặt hàng của người mua
Được xem là điểm khởi đầu của chu trình bán hàng- thu tiền. Hình thức đặt
hàng của người mua rất phong phú, có thể là đơn đặt hàng hay phiếu yêu cầu mua

hàng, có thể là người mua xem hàng qua catalog hay trên trang web của Công ty rồi
tiến hành đặt hàng qua thư điện tử hay điện thoại… Dù theo hình thức nào thì về mặt
pháp lý, việc đặt hàng thể hiện nhu cầu và sự sẵn sàng mua theo những điều kiện xác
định của khách hàng. Đối với khách thể kiểm toán, khi nhận được đơn đặt hàng, cần
cân nhắc xem xét một số yếu tố như: khả năng cung ứng của doanh nghiệp có đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng hay không; khả năng thanh toán của khách hàng; điều
kiện về giá cả, phương thức thanh toán… để đi đến quyết định có cung cấp hàng hóa,
dịch vụ cho khách hàng hay không.
Xét duyệt bán chịu
Ngay từ thỏa thuận ban đầu, sau khi quyết định bán hàng, việc doanh nghiệp
xem xét vấn đề bán chịu một phần hay bán chịu toàn bộ lô hàng là vô cùng quan trọng.
Vì nếu doanh nghiệp không thực hiện chính sách bán chịu tức là không tạo ra sự linh
hoạt trong thanh toán, tất yếu sẽ không khuyến khích bán hàng. Nhưng nếu doanh
nghiệp không xem xét, kiểm soát chặt chẽ chính sách này thì có thể dẫn đến tình trạng
nợ khó đòi, thậm chí là thất thu do khách hàng mất khả năng thanh toán hoặc cố tình


không thanh toán. Do vậy, các chính sách phê chuẩn bán chịu được thực hiện tại đơn
vị bán hàng để làm giảm thiểu những khoản phải thu không thu hồi được.
Chuyển giao hàng
Đối với sản phẩm, hàng hóa thì chuyển giao hàng là việc chuyển hàng từ kho
người bán đến kho người mua hoặc địa điểm khác theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp
và khách hàng. Còn đối với dịch vụ thì chuyển giao hàng là việc thực hiện dịch vụ mà
khách hàng yêu cầu. Khi hàng ra khỏi kho của doanh nghiệp thì phải lập phiếu xuất
kho và chứng từ vận chuyển. Hóa đơn vận chuyển là một tài liệu có tính pháp lý thể
hiện trách nhiệm đối với người chuyển giao hàng. Các công ty có quy mô lớn, các
nghiệp vụ bán hàng diễn ra thường xuyên thường lập sổ vận chuyển để cập nhật các
chứng từ vận chuyển.
Gửi hóa đơn tính tiền cho khách hàng và ghi sổ nghiệp vụ bán hàng
Hóa đơn bán hàng được lập khi có thông báo về việc hàng hóa đã được chuyển

giao cho người mua. Hóa đơn cần cung cấp đầy đủ các thông tin: Số lượng hàng hóa,
mẫu mã, giá cả gồm giá gốc, chi phí vận chuyển, bảo hiểm và các yếu tố khác, thời
hạn thanh toán... Như vậy, khi nhận được hóa đơn khách hàng sẽ biết rõ số tiền và thời
gian hoàn trả số tiền đó. Tại doanh nghiệp bán hàng, kế toán căn cứ vào hóa đơn bán
hàng để ghi vào Nhật ký bán hàng và theo dõi các khoản phải thu.
Xử lý và ghi sổ các khoản thu tiền
Khi khách hàng thanh toán thì kết quả của quá trình này thể hiện trên phiếu thu
(nếu thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt) hay giấy báo Có của ngân hàng (nếu thanh
toán bằng chuyển khoản). Từ các chứng từ đó, kế toán ghi vào Nhật ký thu tiền, sổ chi
tiết, sổ Cái TK 111, 112.
Xử lý và ghi sổ hàng bán bị trả lại và khoản bớt giá
Các khoản giảm trừ doanh thu phát sinh khi khách hàng không hài lòng về hàng
hóa mà doanh nghiệp cũng cấp như hàng kém phẩm chất, không đúng chủng loại quy
cách.... (hàng bán bị trả lại, giảm giá hàng bán) hoặc khi khách hàng mua hàng với số
lượng lớn (chiết khấu thương mại). Tất cả các khoản này phải được kiểm tra và phê
chuẩn trước khi ghi sổ.
Lập dự phòng phải thu khó đòi


Lập dự phòng phải thu khó đòi là cần thiết khi doanh nghiệp thực hiện việc bán
chịu sau do không phải lúc nào khách hàng cũng trong điều kiện kinh doanh thuận lợi
và có khả năng thanh toán ổn định, dẫn đến tình trạng các khoản nợ đã đến hạn mà
khách hàng vẫn chưa trả được nợ. Thời điểm lập dự phòng là cuối kỳ đối với các công
ty chứng khoán và cuối năm đối với các công ty khác.
Theo thông tư số 228/2006/TT-BTC của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn chế
độ trích lập và sử dụng các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, tổn thất các
khoản đầu tư tài chính, nợ khó đòi và bảo hành sản phẩm, hàng hóa, công trình xây
lắp tại doanh nghiệp, quy định về việc lập dự phòng phải thu khó đòi (phụ lục số 1)
Doanh nghiệp có thể xóa sổ trước thời hạn trong trường hợp khách nợ chết, mất
tích có sự xác nhận của cơ quan công an hoặc khách nợ bị phá sản có chứng nhận của

tòa án.
Thẩm định và xóa sổ khoản phải thu không thu hồi được
Việc tồn tại các khoản phải thu không thu hồi được thường khó tránh khỏi khi
doanh nghiệp thực hiện chính sách bán chịu. Sau khi thẩm định, có chứng cứ chắc
chắn không thể thu hồi được khoản nợ đó do khách hàng mất khả năng thanh toán (phá
sản, giải thể...), doanh nghiệp cần tiến hành xóa sổ các khoản phải thu này.
2.1.4 Hoạt động KSNB đối với chu trình bán hàng – thu tiền
2.1.4.1 Tổ chức hạch toán kế toán bán hàng – thu tiền
* Trong chu trình bán hàng – thu tiền, các chứng từ sổ sách được sử dụng chủ
yếu bao gồm:
- Đơn đặt hàng, phiếu yêu cầu mua hàng
- Phiếu tiêu thụ
- Hóa đơn bán hàng
- Chứng từ vận chuyển thường là hóa đơn vận chuyển (hay vận đơn)
- Phiếu xuất kho
- Biên bản thanh lý hợp đồng
- Bảng kê hàng hóa bán ra
- Phiếu thu, Giấy báo Có của Ngân hàng
- Nhật ký bán hàng, nhật ký thu tiền
- Sổ Cái, sổ chi tiết các TK 111, 112, 131, 155, 156, 511...


.............
* Các tài khoản sử dụng trong chu trình bán hàng – thu tiền
TK 511: Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
TK 521: Chiết khấu thương mại
TK 33311: Thuế GTGT đầu ra
TK 3387: Doanh thu chưa thực hiện
TK 111: Tiền mặt
TK 112: Tiền gửi ngân hàng

TK 131: Phải thu của khách hàng
TK 136: Phải thu nội bộ
TK 6426: Chi phí dự phòng
.........
Sơ đồ 2.2: Quy trình luân chuyển chứng từ trong quy trình bán hàng – thu tiền
Bộ phận bán hàng
Thủ trưởng đơnBộ
vị phận bán hàng
Bộ phận kho
Kế toán thanh toán
Khách hàng

Bảo quản, lưu trữ chứng từ

PhiếuPhê
tiêuchuẩn
thụ, lệnh
lệnhbán
bán, phương
Hóa đơn
thứcbán
bánhàng,
chịuPhiếu
vận đơn
xuất kho
Ghi sổ, lập BC
Đơn đặt hàng

(nguồn: Phòng kế toán)
2.1.4.2 Hoạt động KSNB đối với chu trình bán hàng – thu tiền

Bán hàng – thu tiền là một quá trình chuyển quyền sở hữu hàng hóa – tiền tệ
giữa người mua và người bán, gắn liền với lợi ích kinh tế và trách nhiệm pháp lý của


mỗi bên vì vậy công việc kiểm soát nội bộ được thực hiện một cách chặt chẽ và đặc
biệt được quan tâm bởi các cấp quản lý trong doanh nghiệp.

- Sự đồng bộ của sổ sách
Đòi hỏi hệ thống kế toán từ chứng từ đến sổ kế toán và bảng tổng hợp có tác dụng
kiểm soát tối đa các nghiệp vụ và do đó các trình tự kế toán phải có trước khi đặt ra
các mục tiêu kiểm soát nội bộ. Khung pháp lý về kế toán là như nhau và được quy
định trước đối với mọi đơn vị. Tuy nhiên, mỗi đơn vị lại lựa chọn các hình thức,
phương thức kế toán khác nhau dẫn đến trình tự kế toán cụ thể cũng khác nhau. Bởi
vậy, mỗi đơn vị cần định sẵn trình tự cụ thể tương ứng với hệ thống sổ sách tạo thành
yếu tố kiểm soát có hiệu lực.

- Đánh số thứ tự các chứng từ
Việc sử dụng các chứng từ có đánh số trước theo thứ thự liên tục có tác dụng vừa
đề phòng bỏ sót, giấu giếm vừa tránh trùng lặp các khoản phải thu, các khoản ghi sổ
bán hàng. Việc đánh số trước phải có mục đích rõ ràng kèm theo việc tổ chức hợp lý
theo hướng tích cực để đạt mục đích đó.

- Lập bảng cân đối thanh toán tiền hàng và gửi cho người mua
Các công ty có nghiệp vụ bán hàng và thu tiền với quy mô lớn, thường hàng tháng
có tổng hợp và lập bảng cân đối giữa giá trị hàng bán với các khoản đã thu tiền và các
khoản phải thu để kiểm soát công việc bán hàng và thu tiền. Công việc kiểm soát nội
bộ hữu hiệu khi quá trình lập và xác nhận quan hệ mua – bán đảm bảo được tính khách
quan ( người lập không có liên quan đến việc ghi sổ bán hàng, thu tiền hàng và được
gửi qua bưu điện hoặc qua máy fax).


- Xét duyệt nghiệp vụ bán hàng
Đây là công đoạn trong quá trình kiểm soát nội bộ thường thấy và được xét duyệt
vào ba điểm chủ yếu:
+ Việc bán chịu được duyệt y cẩn trọng trước khi bán hàng.
+ Hàng bán chỉ được vận chuyển sau khi duyệt với đầy đủ chứng từ ( tài khoản, con
dấu, chữ ký hợp pháp của bên mua.
+ Giá bán được duyệt bao gồm cả phí vận chuyển, giảm giá, bớt giá và điều kiện thanh
toán.


Công việc kiểm soát đối với việc bán chịu và việc vận chuyển hàng bán có tác
dụng nhằm ngăn ngừa tổn thất do vận chuyển đến người mua không có thật hay người
mua không có điều kiện thanh toán hoặc dây dưa trong thanh toán. Còn đối với việc
duyệt giá bán sẽ có tác dụng nhằm tránh thất thu, kích thích thỏa đáng tăng thu và giải
quyết hợp pháp và hiệu quả các quan hệ lợi ích giữa bên người mua và bên người bán.

- Phân cách nhiệm vụ đầy đủ trong tổ chức công tác tài chính kế toán.
Đây là công việc trọng yếu trong kiểm soát nội bộ được thiết lập với mục đích nhằm
ngăn ngừa những sai sót và gian lận trong kế toán nói chung và với lĩnh vực bán hàng
– thu tiền nói riêng. Để ngăn ngừa gian lận, việc phân cách phải được thực hiện ít nhất
ở ba mặt sau: tách biệt giữa người ghi sổ bán hàng với người ghi sổ khoản phải thu,
tách biệt giữa người thu tiền với người ghi sổ khoản nợ phải thu, phân cách giữa người
thực hiện chức năng bán hàng với người thực hiện chức năng duyệt bán chịu. Với việc
phân cách này sẽ làm tăng độ tin cậy của thông tin, phòng ngừa được những tiêu cực
có thể phát sinh trong khâu bán hàng và khả năng thất thu trong khâu thanh toán.

- Tính độc lập của người kiểm tra – kiểm soát.
Việc thực hiện trình tự kiểm soát nội bộ là yếu tố chủ yếu trong việc phát huy hiệu
lực của kiểm soát nội bộ. Thông thường, sử dụng kiểm toán viên nội bộ để kiểm soát
việc xử lý và ghi sổ các nghiệp vụ bán hàng và thu tiền sẽ bảo đảm chất lượng kiểm

soát và phục vụ tốt cho việc thực hiện các mục tiêu kiểm toán.
(phụ lục số 2)
2.2 Mục tiêu kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền
CMKT số 200, khoản 11 đã xác định rõ: “Mục tiêu của kiểm toán BCTC là
giúp cho KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng BCTC có được lập
trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (được chấp nhận), có tuân thủ pháp
luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay
không?”. Bên cạnh đó, đối với đơn vị được kiểm toán, mục tiêu kiểm toán BCTC giúp
đơn vị được kiểm toán thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất
lượng thông tin tài chính của mình. Do vậy, có thể khẳng định mục tiêu kiểm toán
thước đo kết quả kiểm toán cho mỗi cuộc kiểm toán cụ thể.
Khi tiến hành kiểm toán, bước đầu tiên KTV cần hiểu được mục tiêu kiểm toán
chung, sau đó cụ thể hóa các mục tiêu chung này vào từng phần hành cụ thể gọi là các


mục tiêu kiểm toán đặc thù. Đối với kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền, chu trình
này bao gồm nghiệp vụ bán hàng và nghiệp vụ thu tiền. Mặc dù hai loại nghiệp vụ này
có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên chu trình xác định nhưng mỗi loại lại có yêu cầu
riêng và phản ánh cụ thể vào sổ kế toán riêng theo trình tự độc lập tương đối. Do đó,
mục tiêu đặc thù của hai loại nghiệp vụ này mang những điểm riêng biệt, cụ thể xem
phụ lục 3
Sau khi đã xác định rõ các mục tiêu kiểm toán đặc thù của phần hành kiểm toán
chu trình bán hàng – thu tiền, KTV tiến hành cụ thể hóa các công việc tương ứng với
mỗi mục tiêu, từ đó xác định những phần việc cần phải thực hiện.
2.3 Quy trình kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền trong kiểm toán báo cáo
tài chính.
Quy trình kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền dưa ra trình tự thực hiện việc
kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc. Cụ thể
gồm các bước công việc sau:
Sơ đồ2.3: Quy trình kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền


Giai đoạn I

Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền

Giai đoạn II

Thực hiện kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền

Giai đoạn III

Kết thúc kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán

2.3.1 Lập kế hoạch kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên của một cuộc kiểm toán có vai trò
quan trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu quả của toàn cuộc kiểm toán. Kế hoạch
kiểm toán là định hướng cho KTV trong cuộc kiểm toán giúp KTV thu thập bằng


chứng đầy đủ, có hiệu quả; hạn chế sai sót; giúp cho các KTV phối hợp hoạt động hiệu
quả; đây cũng là một căn cứ đánh giá hiệu quả, chất lượng của cuộc kiểm toán.
Kế hoạch kiểm toán được lập cho mọi cuộc kiểm toán mà công ty tham gia
kiểm toán, kế hoạch phải được lập thích hợp cho mỗi cuộc kiểm toán đảm bảo bao
quát hết các khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm toán; phát hiện gian lận, rủi ro và
những vấn đề tiềm ẩn và đảm bảo cuộc kiểm toán được hoàn thành đúng thời hạn, kế
hoạch kiểm toán giúp việc phân chia công việc giữa các thành viên trong nhóm hiệu
quả hơn, tránh trùng lập công việc giữa các thành viên,...
Đồng thời khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên của công ty cũng cần
thảo luận với các kiểm toán viên nội bộ, ban giám đốc và nhân viên của đơn vị được
kiểm toán, tham khảo ý kiến của các kiểm toán viên tiền nhiệm đã thực hiện kiểm toán

công ty khách hàng những năm trước nhằm nâng cao hiệu quả công việc.
Khi bắt đầu công việc kiểm toán Công ty tổ chức gặp gỡ với đại diện Ban giám
đốc của Công ty và các ngành quản lý liên quan đến công tác kiểm toán. Những cuộc
gặp mặt này bao gồm cả việc khảo sát, kiểm tra tổng quát các thủ tục của việc kiểm
toán, kế hoạch thực hiện và thời gian cho công việc. Cuộc gặp mặt cũng được tập
trung vào việc đạt được sự hiểu biết cơ bản về quá trình hoạt động và kinh doanh cùng
các đặc thù của Công ty, những khó khăn, thuận lợi của Công ty trong sản xuất kinh
doanh nhằm bổ sung đầy đủ hơn cho những hiểu biết của Công ty; xem xét việc áp
dụng các công nghệ hỗ trợ trong quản lý tài chính kế toán như phần mềm tin học, hệ
thống truyền dữ liệu... Qua đây kế hoạch thực hiện sẽ được chi tiết, rõ ràng và chính
xác hơn.(phụ lục số 4)
Sau đây ta sẽ đi vào cụ thể từng công việc của quá trình lập kế hoạch kiểm toán.
2.3.1.1 Đánh giá khả năng chấp nhận khách hàng
Đây là công việc quan trọng trước khi quyết định chấp nhận một khách hàng mới
hay có tiếp tục cung cấp dịch vụ kiểm toán cho khách hàng cũ hay không. Như chúng
ta đã biết, đối với bất kỳ công ty kiểm toán nào thì uy tín là vô cùng quan trọng. Do
việc lựa chọn khách hàng là không phù hợp có thể ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh
của công ty nên các công ty kiểm toán rất chú trọng bước công việc này.

• Đối với khách hàng mới, KTV cần tiến hành các công việc cụ thể sau để xem xét rủi ro
kiểm toán mà Công ty có thể gặp phải khi tiếp nhận khách hàng:


 Những lý do dẫn tới thay đổi KTV của công ty khách hàng.
 Thu thập và xem xét thông tin tài chính về khách hàng (báo cáo năm, báo cáo sơ bộ và
báo cáo thuế thu nhập...). Qua đó cho phép KTV đánh giá khái quát tình hình tài chính
và công việc kinh doanh của khách hàng. Xem xét những vụ kiện pháp lý có liên quan
tới công ty khách hàng gần đây.

 Trao đổi với bên thứ ba liên quan tới khách hàng như luật sư, ngân hàng... cho phép

đánh giá uy tín và tính liêm chính của Ban Giám đốc. Đây là bước công việc quan
trọng vì tính liêm chính của Ban Giám đốc được xem là nhân tố rủi ro ban đầu của
việc báo cáo gian lận các thông tin tài chính.

 Việc trao đổi với KTV tiền nhiệm rất quan trọng do đây là thông tin đầu tiên để đánh
giá khách hàng. KTV tiền nhiệm sẽ cung cấp thông tin quan trọng về những vấn đề
nghề nghiệp liên quan đến khách hàng để KTV cân nhắc khi chấp nhận kiểm toán như
thông tin về sự liêm chính của Ban Giám đốc, liệu có xảy ra bất đồng giữa KTV tiền
nhiệm và Ban Giám đốc về các vấn đề trọng yếu liên quan đến cuộc kiểm toán hay
không.

 Đánh giá khả năng thực hiện cuộc kiểm toán của Công ty kiểm toán: công ty có kinh
nghiệm và khả năng tiến hành kiểm toán về lĩnh vực kinh doanh của khách hàng hay
không? Công ty cần cân nhắc kỹ vấn đề này vì nếu kiểm toán lĩnh vực mới sẽ có rất
nhiều khó khăn và rủi ro, có thể ảnh hưởng đến kết quả cuộc kiểm toán và nghiêm
trọng hơn ảnh hưởng đến uy tín của Công ty kiểm toán.

 Xem xét tính độc lập của KTV trong mối quan hệ với khách hàng
• Đối với khách hàng cũ: KTV cần thường xuyên cập nhật thông tin về khách hàng và
đánh giá xem liệu có thay đổi nào dẫn đến rủi ro khiến công ty kiểm toán phải ngừng
cung cáp dịch vụ kiểm toán cho công ty đó không?
*Nhận diện lý do kiểm toán của khách hàng
Thực chất của việc nhận diện lý do kiểm toán là việc xác định người sử dụng
BCTC và mục đích sử dụng BCTC của họ. Ban đầu, KTV thực hiện phỏng vấn Ban
Giám đốc khách hàng (đối với khách hàng mới) hoặc dựa vào kinh nghiệm những lần
kiểm toán trước (đối với khách hàng cũ) để có những thông tin về lý do kiểm toán. Sau
này, trong quá trình thực hiện kiểm toán, KTV vẫn tiếp tục thu thập thông tin về vấn
đề này vì hai yếu tố trên cần nhận diện có ảnh hưởng đến số lượng bằng chứng cần thu



thập và mức độ chính xác của các kết luận kiểm toán. Ví dụ, nếu các BCTC càng được
sử dụng rộng rãi thì các thông tin trên BCTC càng phải trung thực và hợp lý dẫn đến
số lượng bằng chứng thu thập càng phải nhiều.
*Lựa chọn đội ngũ KTV
Có nhận định rằng: Thủ tục kiểm toán rất đa dạng có thể áp dụng hiệu quả trong
trường hợp này nhưng có thể lại không đem lại kết quả mong muốn trong những tình
huống tương tự. Điều này có nghĩa là ngoài việc thiết kế một chương trình kiểm toán
hợp lý, một cuộc kiểm toán có đạt hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào người thực
hiện chương trình kiểm toán ấy. Nhận định này nhấn mạnh vai trò của đội ngũ nhân
viên kiểm toán. Một đội ngũ nhân viên thích hợp sẽ mang lại hiệu quả cao hơn cho
cuộc kiểm toán.
2.3.1.2 Ký hợp đồng kiểm toán
Nhìn nhận dưới góc độ là DN cung cấp dịch vụ, cũng giống như các DN khác với
đích cần đạt được là sự thỏa thuận cung cấp dịch vụ cho khách hàng, đối với các công
ty kiểm toán đó là Hợp đồng kiểm toán. Theo CMKT Việt nam số 210, “Hợp đồng
kiểm toán: Là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa các bên tham gia ký kết (công ty kiểm
toán, khách hàng) về các điều khoản và điều kiện thực hiện kiểm toán của khách hàng
và công ty kiểm toán, trong đó xác định mục tiêu, phạm vi kiểm toán, quyền và trách
nhiệm của mỗi bên, hình thức báo cáo kiểm toán, thời gian thực hiện và các điều
khoản về phí, về xử lý khi tranh chấp hợp đồng. Hợp đồng kiểm toán phải được lập và
ký chính thức trước khi tiến hành công việc kiểm toán nhằm bảo về lợi ích của khách
hàng và của Công ty kiểm toán.”. Sau khi ký Hợp đồng kiểm toán thì Công ty kiểm
toán chính thức là chủ thể kiểm toán của Công ty khách hàng.
2.3.1.3 Thu thập thông tin về khách hàng
a. Tìm hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng
KTV không thể tiến hành việc kiểm toán khi không có đủ hiểu biết về ngành
nghề, hoạt động kinh doanh của khách hàng do mỗi ngành có hệ thống kế toán riêng
và áp dụng những nguyên tắc kế toán mang đặc thù của ngành đó. Xuất phát từ lý do
trên, KTV cần phải thực hiện bước công việc này và CMKT Việt Nam cũng đòi hỏi
điều đó “ Để thực hiện kiểm toán BCTC, KTV phải có hiểu biết cần thiết, đầy đủ về

tình hình kinh doanh nhằm đánh giá và phân tích được các sự kiện, nghiệp vụ và thực


tiễn hoạt động của đơn vị được kiểm toán mà theo KTV thì có ảnh hưởng trọng yếu
đến BCTC, đến việc kiểm tra của KTV hoặc đến báo cáo kiểm toán. Ví dụ: KTV sử
dụng sự hiểu biết về tình hình kinh doanh để xác định rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm
soát và xác định nội dung, lịch trình, phạm vi của các thủ tục kiểm toán”. KTV cần
tìm hiểu về lĩnh vực hoạt động của đơn vị - những quy định của Nhà nước về lĩnh vực
đó, lĩnh vực này có những rủi ro tiềm tàng gì....; cơ cấu tổ chức; cơ cấu vốn; công nghệ
sản xuất; phương thức tiêu thụ và thanh toán.... Để có những thông tin trên, KTV thực
hiện thu thập từ các nguồn sau:

- Kinh nghiệm thực tiễn về đơn vị và ngành nghề kinh doanh của đơn vị được kiểm toán
trên báo cáo tổng kết, biên bản làm việc, báo chí;

- Hồ sơ kiểm toán năm trước;
- Trao đổi với Giám đốc, Kế toán trưởng hoặc cán bộ, nhân viên của đơn vị được kiểm
toán;

- Trao đổi với KTV nội bộ và xem xét báo cáo kiểm toán nội bộ của đơn vị được kiểm
toán;

- Trao đổi với KTV khác và với các nhà tư vấn đã cung cấp dịch vụ cho đơn vị được
kiểm toán hoặc hoạt động trong cùng lĩnh vực với đơn vị được kiểm toán;

- Trao đổi với chuyên gia, đối tượng bên ngoài có hiểu biết về đơn vị được kiểm toán
(Ví dụ: chuyên gia kinh tế, cơ quan cấp trên, khách hàng, nhà cung cấp...);

- Tham khảo các ấn phẩm liên quan đến lĩnh vực hoạt động của của đơn vị được kiểm
toán (Ví dụ: Số liệu thống kê của Chính phủ, báo chí chuyên ngành...)


- Các văn bản pháp lý và các quy định có ảnh hưởng đến đơn vị được kiểm toán;
- Khảo sát thực tế văn phòng, nhà xưởng của đơn vị được kiểm toán
- Các tài liệu do đơn vị kiểm toán cung cấp (Ví dụ: Nghị quyết và biên bản các cuộc
họp, tài liệu gửi cho các cổ đông hay cho cơ quan cấp trên, báo cáo quản lý nội bộ,
BCTC định kỳ, các chính sách về quản lý kinh tế, tài chính, thuế, hệ thống kế toán, tài
liệu KSNB, quy định về quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận trong
DN...)
b. Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng


Bước công việc này giúp cho KTV nắm bắt được các quy định mang tính pháp lý
thông qua tiếp xúc, phỏng vấn Ban Giám đốc công ty khách hàng. KTV cần thu thập
Giấy phép thành lập, điều lệ công ty, BCTC, báo cáo kiểm toán, biên bản thanh tra
(nếu có); Biên bản họp HĐQT, Ban Giám đốc, Đại hội đồng cổ đông; các hợp đồng
bán hàng quan trọng...
2.3.1.4 Thực hiện thủ tục phân tích
Thủ tục phân tích được sử dụng trong tất cả các giai đoạn của cuộc kiểm toán: từ
lập kế hoạch cho đến thực hiện và kết thúc kiểm toán.
Theo CMKT Việt Nam số 520 – Thủ tục phân tích thì “KTV phải áp dụng quy
trình phân tích trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán để tìm hiểu tình hình kinh
doanh của đơn vị và xác định những vùng có thể có rủi ro. Quy trình phân tích giúp
KTV xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán khác.” Như
vậy, việc thực hiện thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch giúp KTV xác định
nội dung cơ bản của cuộc kiểm toán. Tất nhiên phạm vi, mức độ thực hiện thủ tục
phân tích là tùy thuộc vào đặc trưng hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Ở giai đoạn này, KTV có thể áp dụng cả phân tích ngang và phân tích dọc.
Phân tích ngang: là việc phân tích được thực hiện bằng cách so sánh các trị số
của cùng một chỉ tiêu BCTC, bao gồm: Việc so sánh số liệu kỳ này với số liệu kỳ
trước hoặc giữa các kỳ với nhau; so sánh số liệu thực tế với số liệu dự toán hoặc số

liệu ước tính của KTV; so sánh giữa thực tế của đơn vị với các đơn vị trong cùng
ngành có cùng quy mô hoạt động, hoặc với số liệu thống kê, định mức cùng ngành qua
đó KTV sẽ biết được mức độ mà DN đạt được so với bình quân chung của ngành.
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền, KTV cần
so sánh các chỉ tiêu: doanh thu, các khoản giảm trừ doanh thu năm nay với năm trước;
so sánh các khoản phải thu đầu kỳ với cuối kỳ; so sánh doanh số thực tế với doanh số
kế hoạch, dự toán. Trên cơ sở đó, KTV có được những đánh giá ban đầu về hoạt động
kinh doanh của DN và xác định xem liệu có những điểm bất thường nào cần khoanh
vùng, và dựa vào đó KTV tập trung thực hiện kiểm toán.
2.3.1.5 Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro
Có thể nói các bước công việc trên đây mới chỉ là để thu thập các thông tin cần
thiết, tiếp theo KTV cần thực hiện bước công việc cao hơn đòi hỏi khả năng xét đoán


nghề nghiệp và kinh nghiệm của KTV đó là tiến hành việc đánh giá tính trọng yếu và
rủi ro.

a. Đánh giá tính trọng yếu
Trọng yếu: Là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin (một
số liệu kế toán) trong BCTC. Cụ thể hơn thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là
nếu thiếu thông tin đó hoặc thông tin đó bị sai lệch thì sẽ ảnh hưởng đến quyết định
của người sử dụng BCTC. Trước tiên, KTV cần thực hiện việc ước lượng ban đầu về
tính trọng yếu tức là xác định những sai sót có thể chấp nhận được đối với toàn bộ
BCTC. Thường thì việc xây dựng mức ước lượng này mang tính xét đoán nghề nghiệp
của KTV nhưng trên thực tế, để hỗ trợ cho các KTV thực hiện việc kiểm toán thuận lợi
hơn, tiết kiệm thời gian, các Công ty kiểm toán thường đưa ra “Bảng quy định về mức
trọng yếu”
Trên cơ sở mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho toàn bộ BCTC, KTV
thực hiện kiểm toán chu trình bán hàng- thu tiền sẽ tiến hành phân bổ mức ước lượng
này cho các khoản mục tiền, phải thu khách hàng và doanh thu – đây chính là sai số có

thể chấp nhận được cho mỗi khoản mục. Việc phân bổ này giúp KTV xác định số
lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập cho từng khoản mục nói trên theo hướng
giảm chi phí mà vẫn đảm bảo mức độ trọng yếu không vượt quá ước tính ban đầu cho
BCTC.

b. Đánh giả rủi ro kiểm toán
Rủi ro kiểm toán: Là rủi ro do KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét
không thích hợp khi BCTC đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu (CMKT
Việt Nam số 400)
Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro
phát hiện

 Rủi ro tiềm tàng: Là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản
mục trên BCTC chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, chưa kể
đến sự tác động của hệ thống KSNB. Rủi ro này liên quan đến hoạt động và ngành
nghề kinh doanh của khách hàng. Cụ thể đối với chu trình bán hàng – thu tiền có một
số rủi ro tiềm tàng như: Tính trung thực của Ban Giám đốc, các nghiệp vụ bán hàng
bất thường,rủi ro trong việc quản lý tiền, dự phòng phải thu khó đòi.


 Rủi ro kiểm soát: Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản
mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống
KSNB không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời. Một số rủi ro
kiểm soát như: hệ thống KSNB hoạt động không hiệu quả, không phân cách trách
nhiệm giữa người bán hàng và người ghi sổ, giữa người ghi sổ và người giữ tiền...;
không đánh số thứ tự trước đối với các chứng từ bán hàng, thu tiền...

 Rủi ro phát hiện: Là khả năng xảy ra các sai sót hoặc gian lận trong BCTC mà không
được KTV phát hiện trong quá trình kiểm toán. Như vậy rủi ro phát hiện phụ thuộc
vào số lượng mẫu chọn kiểm tra cũng như trình độ nghiệp vụ của KTV. Ví dụ: khi

chọn mẫu một số nghiệp vụ bán hàng, KTV thường chọn các nghiệp vụ có quy mô lớn
hoặc phát sinh bất thường mà bỏ qua các nghiệp vụ có quy mô nhỏ nhưng lặp lại nhiều
lần.

• Mô hình rủi ro kiểm toán – mối quan hệ giữa rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro
phát hiện với rủi ro kiểm toán.
DAR = IR*CR*DR
Hay
Trong đó:

DR = DAR/IR*CR
DAR: Rủi ro kiểm toán

IR: Rủi ro tiềm tàng
CR: Rủi ro kiểm soát
DR: Rủi ro phát hiện
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát nằm ngoài phạm vi kiểm toán, dù KTV có
thực hiện công việc kiểm toán hay không thì các rủi ro này vẫn tồn tại.
*Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán là mối quan hệ tỷ lệ nghịch: Mức
trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại.
2.3.1.6 Tìm hiểu hệ thống KSNB của khách hàng và đánh giá rủi ro kiểm soát
Đây là bước công việc vô cùng quan trọng đòi hỏi KTV phải thực hiện nghiêm
túc và thận trọng vì kết quả đưa lại sẽ giúp KTV xác định các thủ tục kiểm toán cần
thực hiện tiếp theo. Hệ thống KSNB hoạt động hiệu quả hay không hiệu quả? Rủi ro
kiểm soát là cao hay là thấp? Từ đó, KTV sẽ quyết định tăng cường các thử nghiệm
kiểm soát, giảm thiểu các thử nghiệm cơ bản hay ngược lại.


Theo Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC), hệ thống KSNB là một hệ thống chính

sách và thủ tục được thiết lập nhằm đạt được bốn mục tiêu sau: Bảo vệ tài sản của đơn
vị; bảo đảm độ tin cậy của thông tin; bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý và bảo
đảm hiệu quả của hoạt động. Hệ thống KSNB gồm bốn yếu tố chính: môi trường kiểm
soát, hệ thống thông tin, các thủ tục kiểm soát và hệ thống kiểm toán nội bộ. Khi tìm
hiểu về hệ thống KSNB, KTV phải tìm hiểu sự thiết kế và vận hành của hệ thống theo
từng yếu tố cấu thành này.
Sau khi đã có được những hiểu biết về hệ thống KSNB, KTV thực hiện mô tả hệ
thống KSNB trên Giấy tờ làm việc. Có ba phương pháp để thực hiện là Bảng câu hỏi
về hệ thống KSNB, vẽ lưu đồ và lập bảng tường thuật. Việc sử dụng phương pháp nào
hay sử dụng cả ba phương pháp là tùy thuộc vào quyết định của KTV. Trên thực tế,
KTV thường hoặc là kết hợp Bảng câu hỏi với lưu đồ hoặc là kết hợp Bảng câu hỏi với
Bảng tường thuật để có hình ảnh tối ưu nhất về hệ thống KSNB.
Trên cơ sở những hiểu biết về cách thiết kế và vận hành của hệ thống KSNB,
KTV tiến hành đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát. Nếu hệ thống KSNB hoạt động
hữu hiệu thì rủi ro kiểm soát được đánh giá là thấp. Khi đó KTV sẽ tăng cường các thử
nghiệm kiểm soát và giảm bớt các thử nghiệm cơ bản. Ngược lại, nếu rủi ro kiểm soát
được đánh giá là cao thì các thử nghiệm cơ bản sẽ được tăng cường.
2.3.1.7 Thiết kế chương trình kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền
Thiết kế chương trình kiểm toán là bước công việc cuối cùng trong giai đoạn lập
kế hoạch kiểm toán. Trên cơ sở tổng kết các bước công việc đã thực hiện trước đó,
KTV sẽ đưa ra một chương trình kiểm toán phù hợp với điều kiện cụ thể của khách thể
kiểm toán.
Chương trình kiểm toán là toàn bộ những chỉ dẫn cho KTV và trợ lý kiểm toán
tham gia vào công việc kiểm toán và là phương tiện ghi chép theo dõi, kiểm tra tình
hình thực hiện kiểm toán (CMKT Việt Nam số 300). Hay hiểu một cách đơn giản,
chương trình kiểm toán là các thủ tục kiểm toán cần thực hiện đối với từng khoản mục
hay bộ phận được kiểm toán mà cụ thể đối với chu trình bán hàng – thu tiền là các
khoản mục: doanh thu, phải thu khách hàng, tiền...



Chương trình kiểm toán của hầu hết các cuộc kiểm toán nói chung và kiểm toán
chu trình bán hàng – thu tiền nói riêng được thiết kế gồm ba phần: thực hiện các thử
nghiệm kiểm soát, thủ tục phân tích và kiểm tra chi tiết.(Phụ lục số 5)
2.3.2 Thực hiện kiểm toán
Dựa trên kế hoạch và chương trình kiểm toán đã được thiết lập chi tiết, KTV lựa
chọn, sử dụng các phương pháp kỹ thuật kiểm toán phù hợp để phục vụ cho việc thu
thập bằng chứng kiểm toán.
Cụ thể KTV cần thực hiện các thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản. Quy
mô thực hiện các thử nghiệm này dựa trên kết quả đánh giá hệ thống KSNB công ty
khách hàng của KTV. Nếu hệ thống KSNB được khẳng định là hoạt động có hiệu lực,
có thể ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai phạm thì KTV sẽ tăng cường thực hiện
các thử nghiệm kiểm soát và giảm bớt các thử nghiệm cơ bản. Ngược lại, nếu hệ thống
KSNB không tồn tại hoặc có tồn tại nhưng hoạt động không hiệu quả thì KTV sẽ
không thực hiện thử nghiệm kiểm soát mà tăng cường các thử nghiệm cơ bản để thu
được kết luận kiểm toán có độ tin cậy cao.
2.3.2.1. Thực hiện kiểm toán đối với chu trình bán hàng – thu tiền
Như đã tìm hiểu ở trên, thử nghiệm kiểm soát chỉ được thực hiện khi KTV tin
tưởng vào hiệu quả hoạt động của hệ thống KSNB công ty khách hàng. Khi đó, các
thử nghiệm này được triển khai nhằm mục đích thu thập bằng chứng chứng minh được
rằng các hoạt động kiểm soát cụ thể mà khách hàng thiết lập đối với bộ phận kế toán
và bộ phận bán hàng – thu tiền có thích hợp để ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các
sai phạm trọng yếu và trong thực tế các hoạt động kiểm soát này có được triển khai
theo đúng yêu cầu của thiết kế hay không?
Thông thường KTV thực hiện các thử nghiệm kiểm soát dựa trên các mục tiêu
kiểu toán. Cụ thể:
a. Đối với nghiệp vụ bán hàng.
Bảng 2.1: Thử nghiệm kiểm soát nghiệp vụ bán hàng
Mục tiêu
Hiện hữu


Thử nghiệm kiểm soát
- KTV thu thập, xem xét bản sao hóa đơn bán hàng chứng minh các
chứng từ vận chuyển và đơn đặt hàng đã phê chuẩn là có thật
- Xem xét tình hiệu lực của dãy hóa đơn được đánh số thứ tự trước


×