Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Nghiên cứu ứng dụng mô hình MIKE 11 dự báo lũ trên lưu vực sông Srêpôk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 79 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cám ơn chân thành trường Đại học Tài nguyên và Môi trường
Hà Nội, các thầy cô trong khoa Khí tượng Thủy văn đã quan tâm, tạo mọi điều kiện
tốt nhất cho em trong suốt quá trình học tập và giúp em hoàn thành tốt đồ án này.
Đặc biệt em xin gửi lời cám ơn chân thành nhất đến PGS.TS Huỳnh Phú,
Th.s Phạm Văn Tuấn, tập thể lớp ĐH2T đã trực tiếp hướng dẫn, nhiệt tình giúp đỡ
và động viên em để em có thể hoàn thành tốt đồ án.
Trong quá trình thực hiện đồ án, mặc dù em đã rất cố gắng nhưng không
tránh khỏi gặp phải những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của thầy cô và các bạn để em có thể hoàn thiện đồ án được tốt hơn.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016

Sinh viên

Vũ Thị Thảo


MỤC LỤC

2


DANH MỤC BẢNG

3



DANH MỤC HÌNH

4


MỞ ĐẦU
Nước là tài nguyên quan trọng nhất của loài người và sinh vật trên Trái Đất.
Viện sĩ Xiđorenko khẳng định “nước là loại khoáng sản quý hơn các loại khoáng
sản”. Vai trò quan trọng của nước thể hiện rõ nét trong tất cả các mặt của đời sống
con người: nước chiếm 99% trọng lượng sinh vật sống trong môi trường nước và
44% trọng lượng cơ thể con người, ngoài chức năng tham gia vào chu trình sống
trên, nước còn mang năng lượng (hải triều, thủy năng, chất mang vật liệu và là tác
nhân quan trọng điều hòa khí hậu, thực hiện các chu trình tuần hoàn vật chất trong
tự nhiên). Có thể nói, sự sống của con người và mọi sinh vật trên Trái Đất phụ thuộc
vào nước.
Hiện nay do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đã gây ảnh hưởng đến cả số
lượng và chất lượng nguồn nước, đó là sự suy giảm và sự thay đổi số lượng và chất
lượng của dòng chảy năm, dòng chảy lũ, dòng chảy kiệt... trên các con sông, trên hệ
thống các lưu vực. Tài nguyên nước là đặc biệt quan trọng nhưng cũng là hiểm họa
hàng đầu nếu như xảy ra những thiên tai liên quan đến dòng chảy. Do đó, chúng ta
phải biết khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên nước và tìm cách hạn chế tác
hại của nước gây ra. Muốn hạn chế được tác hại của nước, điều cần thiết là phải biết
trước được các hiện tượng để từ đó đưa ra phương pháp xử lý phù hợp. Dự báo thủy
văn – một chuyên ngành thủy văn ứng dụng đã ra đời để đáp ứng yêu cầu đó dựa
trên các thông tin đã biết để dự báo các hiện tượng xảy ra trong tương lai.
Lũ lụt là một trong những thiên tai liên quan đến dòng chảy, nó đã trở thành
thiên tai gây nên những thiệt hại rất nghiêm trọng về người và tài sản đồng thời gây
ra tác động xấu đến môi trường tự nhiên. Bởi vậy, dự báo lũ là một vấn đề quan
trọng. Dự báo lũ kịp thời và chính xác sẽ mang lại hiệu quả rõ rệt tới các ngành mà
nó phục vụ cũng như giảm thiệt hại do lũ gây ra.

Đồ án “Nghiên cứu ứng dụng mô hình MIKE 11 dự báo lũ trên lưu vực sông
Srêpôk” sẽ là cơ sở cho bài toán dự báo lũ để từ đó biết cách phòng tránh, giảm nhẹ
thiệt hại do lũ gây ra.

1. Mục tiêu của đồ án
5


- Nghiên cứu, tìm hiểu về điều kiện tự nhiên lưu vực sông Srêpôk: vị trí địa
lý, điều kiện địa hình, địa chất thổ nhưỡng, đặc điểm khí tượng thủy văn của lưu
vực sông Srêpôk
- Tìm hiểu và phân tích chế độ dòng chảy, đặc trưng dòng chảy lưu vực sông
Srêpôk
- Nghiên cứu, ứng dụng mô hình MIKE 11 dự báo lũ trên lưu vực sông
Srêpôk.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Mực nước lũ lưu vực sông Srêpôk;
Mô hình MIKE 11.
- Phạm vi thực hiện đề tài: lưu vực sông Srêpôk.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu và thực hiện được các nội dung công việc nêu trên,đồ
án đã được sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau đây:
- Phương pháp thống kê, kế thừa;
- Phân tích đánh giá, tổng hợp, áp dụng có chọn lọc các sản phẩm khoa học,
các nội dung phù hợp phục vụ cho nghiên cứu của đề tài;
- Phương pháp mô hình toán.
4. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đồ án bao gồm các chương sau:
Chương I: Giới thiệu lưu vực sông Srêpôk
Chương II: Nội dung và phương pháp nghiên cứu

Chương III: Xây dựng phương án dự báo lũ trên lưu vực sông Srêpôk

6


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU LƯU VỰC SÔNG SRÊPÔK
1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
1.1.1. Vị trí địa lý

Lưu vực Srêpôk trải rộng trên các tỉnh Đăk Lăk, Đăk Nông, Gia Lai và Lâm
Đồng có tổng diện tích tự nhiên 18.264km 2 chia ra làm 2 lưu vực tách biệt là lưu
vực thượng Srêpôk 12.320km2 và lưu vực suối EaĐrăng- EaLốp- EaHLeo 5.944km 2
bao gồm đất đai của 22 huyện, 1 thành phố có tọa độ địa lý từ 11 053’ đến 130 55’ vĩ
độ Bắc, từ 107030’ đến 1080 45’kinh độ Đông. Sông Srêpôk do hai nhánh sông
chính là Krông Ana và Krông Nô hợp thành trên lãnh thổ Việt Nam. Phía Bắc giáp
lưu vực sông Sê san. Phía Đông giáp lưu vực sông Ba, sông Cái Nha Trang. Phía
Tây giáp Cam Pu Chia. Phía Nam giáp lưu vực sông Đồng Nai.[3]

Hình 1-1: Bản đồ lưu vực sông Srêpôk
1.1.2. Đặc điểm địa hình

Địa hình lưu vực Srêpôk có hướng thấp dần từ Đông Nam - Tây Bắc và từ
Tây sang Đông.
7


Địa hình của lưu vực khá phức tạp với những Cao nguyên xen kẽ núi cao và
núi trung bình và hướng dốc chính thấp dần từ Đông Nam sang Tây Bắc
Địa hình núi cao tập trung ở phía nam có độ cao lớn hơn 1000m, điển hình là
núi Chư Jang Sin có độ cao 2442m, Lang Biang 2167m có đỉnh nhọn dốc đứng. Địa

hình núi thấp nằm ở phía tây bắc của tỉnh, bao gồm một số ngọn núi với độ cao
trung bình 600 – 700m.
Địa hình Cao nguyên chiếm phần lớn diện tích tự nhiên của lưu vực, tập
trung ở 2 Cao nguyên chính là Cao nguyên Buôn Ma Thuột và Cao nguyên bazan
Đăk Nông, Đăk Mil. Đặc điểm địa hình tương đối bằng phẳng, độ dốc từ 3 – 15 o với
những đồi tròn bát úp rất thích hợp cho việc phát triển nông nghiệp
Địa hình bán bình nguyên Ea Suop là vùng đất rộng lớn nhất trên lưu vực,
khá bằng phẳng với bề mặt được bóc mòn tạo thành những đồi lượn sóng nhẹ với
độ cao trung bình 200 – 300m.
Vùng đồng bằng trũng Lăk, Buôn Trấp, Krông Pach bao gồm các thung lũng
ven sông Krông Ana, Krông Nô do các bãi phù sa mới xen lẫn đầm hồ và các bậc
thềm phù sa cổ tạo thành, hàng năm thường bị ngập úng gây khó khăn cho sản xuất
nông nghiệp.[3]
1.1.3. Đặc điểm địa chất, thổ nhưỡng

Căn cứ vào báo cáo “Bổ sung hoàn thiện bản đồ đất tỉnh Đăk Lăk tỷ lệ
1/100.000 và liên hệ chuyển đổi sang hệ thống phân loại FAO-UNESCO ” của Viện
Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp và báo cáo “Quy hoạch sử dụng đất đai tỉnh Gia
Lai thời kỳ 1998-2000” của Viện nghiên cứu địa chính, lưu vực Srêpôk có 8 loại đất
chính: Nhóm đất phù sa (37.605ha), nhóm đất Glêy (32.859ha), nhóm đất than bùn
(183 ha), nhóm đất đen (55.130ha), nhóm đất xám (1.004.573ha), nhóm đất đỏ
(666.673ha), nhóm đất mùn trên núi cao (2.556ha) và nhóm đất mùn trơ sỏi đá
(25.92ha).
Toàn bộ lưu vực Srêpôk đều phân bố đất đá trầm tích lục nguyên: cát kết, bột
kết, phiến sét xen kẹp nhau của các hệ tầng Đăk Bung, Đray Linh, La Ngà, Ea Súp
với góc cắm 40-700. Phủ lên chúng là bazan hệ tầng. Ở đầu nguồn các sông suối,
trên núi cao có đá cổ granít biotit, đá phiến thạch anh và phân bố nhiều đá granit,
dọc 2 bên bờ sông Srêpôk, Krông Ana, Krông Nô đều phân bố rộng rãi trầm tích
8



gồm các bãi bồi và bậc thềm, chiều rộng từ 5-10km ở hạ lưu (sát biên giới
Campuchia). Chúng gồm á cát, cát cuội sỏi chiều dày tới 10m. Đất aluvi trên nền đá
cát kết , bột kết, phiến sét cũng như trên nền đá granit là đất á sét, đất sét có chiều
dày 5-25m, chiều dày đất aluvi lớn nhất trên nền đá bazan hệ Tầng Tuc Trưng đạt
tới 30-40m.
Hoạt động đứt gãy, phá hủy, kiến tạo cũng rất phổ biến. Đứt gãy ở đây gồm 5
phương chính Tây Bắc-Đông Nam, vĩ tuyến, kinh tuyến, Đông Bắc-Tây Nam và á
kinh tuyến. Đây là vùng hoạt động mạnh mẽ của vỏ trái đất, các hiện tượng địa chất
tự nhiên như phong hóa, xói mòn, trượt lở xâm thực và bồi lắng lòng sông phổ biến
trong vùng, phổ biến nhất là phong hóa trên bazan. Hầu hết các khối bazan đều bị
phong hóa mạnh mẽ và triệt để với chiều dày vỏ phong hóa lớn (30-50m). Phong
hóa ở đây đạt tới giai đoạn tột cùng, sản phẩm phong hóa từ bazan có màu nâu đỏ
và có một số tính chất đặc biệt. Còn trong các khối xâm nhập trầm tích nguyên
phong hóa diễn ra yếu hơn thường chỉ đạt ở mức độ thấp, chiều dày vỏ phong hóa
thường nhỏ.
Về tính chất địa chất công trình của đất đá, hiện nay có thể đánh giá sơ lược
qua khảo sát thực địa, lớp tàn tích chủ yếu là các sản phẩm phong hóa còn nằm trên
mặt đá gốc. Trên các trầm tích lục nguyên gồm các thành phần vỡ vụn của cát kết,
bột kết chưa được vận chuyển đi xa, có thành phần gần giống với đá gốc. Các sản
phẩm này làm vật liệu xây dựng tốt, nhưng bề dày không lớn. Còn trên các khối
bazan các sản phẩm này bị biến đổi sâu sắc về thành phần hóa học, khoáng vật cũng
như tính chất cơ lý tạo thành một lớp phủ dày mềm xốp với thành phần chủ yếu là
hạt sét.[3]
1.1.4. Thảm phủ thực vật

Thảm phủ thực vật trên lưu vực khá phong phú, mức độ che phủ của
rừng khoảng 70 % trong đó bao gồm nhiều loại như: rừng lá rộng, rừng lá kim,
rừng hỗn giao, rừng tre nứa, rừng trồng,… ngoài ra còn có một số lượng đáng
kể cây cà phê, chè…

Thảm phủ trên lưu vưc Srêpôk phân bố có sự khác biệt theo các vùng địa
hình. Vùng núi cao nằm ở phía Đông và Đông Nam (thượng nguồn các sông)
được thảm rừng xanh bao phủ quanh năm bao gồm rừng lá rộng thường xanh,
9


rừng lá kim, rừng hỗ giao. Đi dần về phía hạ lưu là vùng đồi núi thoải dần và
nhâp nhô thì rừng già được thay thế dần bằng các rừng tái sinh, rừng cà phê,
cao su… thung lũng các sông với địa hình bằng phẳng có nhiều hồ tự nhiên,
đầm lầy thì xuất hiện các ruộng bậc thang, vườn cây ăn trái, chè.
Hiện nay rừng ở đây có xu hướng giảm đi đáng kể, đặc biệt là rừng giàu
và rừng trung bình giảm với tốc độ nhanh, diện tích rừng nghèo và bụi cây càng
tăng do quá trình khai thác quá mức, hậu quả do lối sống du canh du cư của
đồng bào dân tộc và chặt phá rừng để trồng các loại cây có giá trị kinh tế nên
nhiều khu vực đất bị thoái hóa, làm tăng khả năng xói mòn, rửa trôi đất.
1.1.5. Đặc điểm khí tượng - thủy văn
1.1.5.1.

Đặc điểm khí hậu
Lưu vực Srêpôk thuộc vùng Tây nguyên nằm trọn bên sườn Tây của dãy

Trường sơn, khí hậu ở đây chịu ảnh hưởng của các hoàn lưu khí quyển sau:
Vào mùa đông khối không khí cực đới lục địa có hướng Bắc và Đông Bắc
tràn xuống phía nam gây nên những biến đối thời tiết như sự hạ thấp nhiệt độ, thời
tiết lạnh hanh, ẩm và mưa phùn vào cuối mùa Đông. Lưu vực các sông suối của
Srêpốk nằm ở phía Nam đèo Hải Vân bị dãy Trường Sơn ngăn cách, ngăn cản các
đợt gió mùa Đông bắc, trừ những trường hợp gió mùa Đông bắc rất mạnh mới ảnh
hưởng và gây mưa trên lưu vực. Mùa đông ở đây bắt đầu từ tháng XI và kết thúc
vào tháng 3;
Vào mùa Hạ khối không khí thịnh hành là gió mùa Tây nam, bắt nguồn từ

khu vực Nam Thái Bình Dương và một phần từ Nam bán cầu di chuyển lên. Khối
không khí này hoạt động mạnh vào các tháng 6, 7, 8 mang hơi ẩm nên đã mang
mưa dông đến toàn lưu vực và cũng là thời kỳ nắng nóng bắt đầu. Vào mùa này còn
có khối không khí xích đạo bắt nguồn từ biển Bắc Ấn Độ Dương, kết hợp với một
phần yếu ớt của tín phong Nam Bán cầu di chuyển lên Bắc Bán cầu. Khối không
khí này tạo thành gió Tây hay Tây nam thổi qua Ấn Độ Dương và vịnh Ben gan,
ảnh hưởng đến bán đảo Đông dương gây cho lưu vực thời tiết nắng nóng, vì vậy đã
tạo đối lưu nhiệt phát triển kết hợp với địa hình núi cao của dãy Trường sơn ngăn
cản gây ra mưa đông, mưa rào vào đầu mùa hạ có khi đạt cường độ rất lớn và mưa

10


bắt đầu ổn định ở bên sườn Tây của dãy Trường Sơn, trong khi đó ở sườn Đông
Trường Sơn chịu ảnh hưởng của dòng phơn gây ra thời kỳ khô nóng;
Vào giữa mùa hạ phía Bắc hình thành gió mùa Tây nam lớn dần tới cường độ
cực đại. Sau đó gần cuối mùa hạ thì khối không khí này suy yếu dần và bị lấn át bởi
khối không khí xích đạo từ Nam Thái Bình Dương lên.Vì vậy vào mùa hạ lưu vực
bị ảnh hưởng bởi sự hội tụ giữa tín phong và gió mùa Tây nam. Chính sự ảnh hưởng
của giải hội tụ nội chí tuyến đã gây ra mưa lớn trên lưu vực vào các tháng 8, 9.[1]
• Chế độ nhiệt

Đặc điểm nổi bật của chế độ nhiệt ở Tây Nguyên nói chung cũng như
trong lưu vực Spêrok nói riêng là hầu như không có mùa lạnh với một nền nhiệt
độ đồng đều, chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng không cao và có sự hạ thấp
nhiệt độ theo độ cao. Nhiệt độ ở những vùng có độ cao 500-80m dao động từ
22-23 °C. Những vùng có nhiệt độ trên 24°C thường ở dưới độ cao 500m. Nhiệt
độ bình quân năm đạt 23.7°C ở Buôn Ma Thuật, 24.7°C ở Krông Ana, vùng
thung lũng như ở Buôn Hồ: 21.8°C, ở Đăk Mil: 22.4°C. Tương ứng với sự hạ
thấp nhiệt độ theo độ cao thì tổng nhiệt độ toàn năm đạt 8000-8500°C ở vùng

có độ cao 500-800m. ở những vùng có độ cao 800-1000m tổng nhiệt độ giảm
xuống còn 7000-8000°C trong năm.
Chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng trong năm không lớn 5-6°C, tháng
lạnh nhất có nhiệt độ trung bình là tháng I đạt 21.0°C ở Buôn Ma Thuật,
18.6°C ở Buôn Hồ, 20.1°C ở Đăk Mil, 20.0°C ở M’Đrăk. Tháng có nhiệt độ
trung bình cao nhất là tháng IV với nhiệt độ trung bình tháng đạt 26.3°C ở
Buôn Ma Thuật, 27.2°C ở thung lũng Krông Ana, 26°C ở vùng Lăk, 24.2°C ở
vùng Buôn Hồ, 32.3°C ở M’Đrăk.
Nhiệt độ cao nhất quan trắc được là 39°C vào ngày 14/04/1937 ở Buôn
Ma Thuật, 34.6°C ngày 15/03/1984 ở Buôn Hồ, 35.8°C vào ngày 06/04/1980 ở
Đăk Nông.
Nhiệt độ trung bình tới thấp rơi vào tháng lạnh nhất trong năm là tháng I
đạt 15.1°C ở Buôn Hồ, 17.1°C ở Buôn Ma Thuật, 17.2°C ở M’Đrăk. Nhiệt độ
thấp nhất tuyệt đối đo được là 7.4°C ngày 03/07/1955 tại Buôn Ma Thuật,
8.9°C ngày 09/01/1984 tại Buôn Hồ.
11


Biên độ dao động của nhiệt độ ngày đêm khá lớn, tháng I có biên độ
nhiệt độ ngày đêm đạt 13.6°C ở Buôn Ma Thuật, 12.2°C ở Buôn Hồ, 15.4°C ở
Đăk Nông. Tuy có sự hạ thấp nhiệt độ theo độ cao, xong nhìn chung biến trình
năm của nhiệt độ trong vùng nghiên cứu thuộc dạng biến trình nhiệt độ của
vùng nhiệt đới gió mùa. Đó là dạng biến trình đơn gồn một cực đại về mùa hè
vào tháng IV và một cực tiều về mùa đông vào tháng I. Tháng II sang tháng III
nhiệt độ tăng rất nhanh, tháng X, XI có nơi tháng XII nhiệt độ bắt đầu giảm
mạnh.[1]
Bảng1-1: Nhiệt độ bình quân tháng nhiều năm tại các trạm (°C) [1]

Chế độ nhiệt trong vùng khá phong phú với tổng số giờ nắng trong năm
khá cao đạt 2400-2500giờ/năm, tổng lượng bức xạ đạt cao, bức xạ tổng cộng

đạt 233-240Kcalo/cm² khi trời không mây, độ cao mặt trời lớn ít thay đổi trong
năm.
Đây là điều kiện thuân lợi cho việc phát triển cây công nghiệp và hoa
màu khác cũng như việc phát triển mùa vụ trong năm.


Chế độ mưa
Do đặc điểm địa hình và vị trí địa lý của lưu vực nằm ở phía Tây của dãy
Trường sơn nên lưu vực chịu tác động chủ yếu của khí hậu Tây Trường Sơn. Theo
chỉ tiêu phân mùa thì mùa mưa trong lưu vực kéo dài từ tháng V-X, có nơi tới tháng
XI như vùng M'Đrak, thượng nguồn sông Krông Ana, Krông Nô. Mùa khô từ tháng
XI đến tháng IV năm sau. Lượng mưa năm trung bình nhiều năm toàn lưu vực đạt
từ 1817mm.
Biến động của mưa theo thời gian: Theo thời gian lượng mưa năm biến đổi
giữa các năm trong vùng không lớn biểu hiện ở hệ số Cv tại các vị trí đo tương đối
12


nhỏ, phần lớn các trạm đều có hệ số Cv mưa năm biến đổi từ 0.1-0.2, nhưng giữa
mùa khô và mùa mưa, giữa các tháng trong các mùa lượng mưa có sự chênh nhau
rất lớn. Lượng mưa trong sáu tháng mùa mưa chiếm 86% lượng mưa năm, mùa khô
chiếm 16% ở phía Tây và Tây Bắc của lưu vực, lượng mưa mùa khô chiếm 12-16%
lượng mưa năm. Các vùng phía Tây, Tây Bắc và trung tâm lưu vực lượng mưa lớn
nhất trong ba tháng mùa mưa (tháng 7, 8, 9) chiếm 45-50% lượng mưa năm. Tháng
8 có lượng mưa lớn nhất trung bình chiếm 17-20% lượng mưa năm. Mùa mưa của
lưu vực này đến sớm hơn do chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam. Càng về phía
Đông và Đông Nam của lưu vực do ảnh hưởng của bão, áp thấp mùa mưa ở đây
thường kéo dài. Lượng mưa 3 tháng lớn nhất xẩy ra vào các tháng 8, 9, 10 lớn nhất
vào tháng 9, có nơi kéo dài đến tháng 11 và lớn nhất vào tháng 10 như vùng Krông
Buk.[1]

Bảng 1-2: Kết quả tính tần suất lượng mưa năm tại các trạm trong lưu vực [1]

13


Bảng 1-3: Tỉ lệ lượng mưa mùa mưa, mùa khô so với lượng mưa năm

Biến động của mưa theo không gian: Nhìn chung biến động lượng mưa năm
giữa các trạm trong lưu vực là không lớn. Nơi mưa có lượng mưa lớn cũng chỉ gấp
đến 1,5 lần nơi có lượng mưa nhỏ. Lượng mưa tăng dần từ vùng thấp lên vùng cao,
ở sườn đón gió lượng mưa lớn hơn vùng thung lũng khuất gió, dọc theo thung lũng
sông. Vùng phía Đông bắc vùng nghiên cứu (vùng lưu vực Krông Buk), lượng mưa
từ 1400-1600 mm/năm.[1]

• Độ ẩm không khí
Độ ẩm tương đối trung bình năm trong vùng nghiên cứu dao động 82-85%.
Quy luật biến đổi của độ ẩm tương đối trong vùng tăng theo độ cao. Tại Buôn Ma
Thuật có độ cao 490m độ ẩm tương đối đạt 82%, tại Buôn Hồ có độ cao 700m độ
ẩm tương đối đạt 85%, tại Đăk Nông cao độ vùng này là 660m độ ẩm tương đối đạt
83%. [1]
Độ ẩm tương đối thay đổi trong năm khá rõ rệt. Biến trình độ ẩm trùng với
biến trình mưa và ngược lại với biến trình của nhiệt độ. Độ ẩm tương đối trung bình
tháng thấp nhất xảy ra vào các tháng II, IV và cao nhất vào các tháng IX, X, XI,
trong năm từ tháng IV sang tháng V độ ẩm tăng rất nhanh đạt từ 4-6% và giảm
14


nhanh từ tháng X sang tháng XI nhất là những vùng có độ cao thấp như Buôn Ma
Thuật, Đăk Nông giảm 2-5%.
Độ ẩm thấp nhất xảy ra vào các tháng III, IV. Trị số thấp nhất tuyệt đối đạt

11% tháng 03/1930 ở Buôn Ma Thuật, 14% ngày 16/02/1985 ở Buôn Hồ. Độ ẩm
thấp nhất ở các tháng mùa mưa, dao động từ 40-60%.[1]

• Số giờ nắng
Số giờ nắng trên lưu vực hàng năm khoảng 2200-2600giờ/năm. Tháng có số
giờ nắng nhiều nhất thường rơi vào tháng III (cuối mùa khô) và đạt tới 260300giờ/tháng, 9.8giờ/ngày. Tháng có số giờ nắng ít nhất thường rơi vào tháng giữa
mùa mưa và chỉ đạt khoảng 105giờ/tháng, 3.5giờ/ngày.[1]
Một số vị trí có quan trắc giờ nắng đã quan trắc được số giờ nắng trong
tháng, năm như sau.
Bảng 1-4: Tổng số giờ nắng bình quân tháng nhiều năm tại các trạm (giờ) [1]

• Bốc hơi
Lượng bốc hơi đo bằng ống Piche trong vùng ở các địa điểm khác nhau có
khác nhau. Khả năng bốc hơi này đạt cao nhất ở Buôn Ma Thuật đạt 1429mm trung
bình nhiều năm, đạt 1073mm ở Buôn Hồ, đạt 941mm ở Đăk Nông và đạt 1224mm
ở M’Đrăk.
Thời kì khô nóng vào tháng III, khả năng bốc hơi đạt cao nhất 214mm ở
Buôn Ma Thuật, 154mm ở Buôn Hồ, 246mm ở Đăk Mil (tháng VII). Bốc hơi nhỏ
nhất xảy ra vào các tháng IX, X, XI là các tháng có lượng mưa lớn nhất. Lượng bốc
hơi đo bằng ống Piche chỉ đạt 53mm vào tháng IX ở Buôn Ma Thuật, 56mm vào
tháng XI ở Buôn Hồ, 56mm vào tháng X ở Đăk Mil, 51mm vào tháng XI ở
M’Đrăk.
15


Bốc hơi khả năng trong vùng lớn hơn các vùng thấp lân cận, mặc dù nhiệt độ
không khí trên vùng không cao bằng các vùng khác có cũng vĩ độ. Nguyên nhân
chính do: Cường độ bức xạ mặt trời trên cao nguyên lớn hơn, nhất là vào thời kỳ
khô nóng, và độ ẩm tương đối của không khí thấp và tốc độ gió trên cao nguyên
cũng mạnh hơn. Lượng bốc hơi khả năng vào các tháng mùa khô rất lớn điều này là

một phần bất lợi đối với phát triền nông nghiệp trong lưu vực, do bốc hơi lớn đã gây
ra hạn hán khắc nghiệt trên cao nguyên như đợt hạn hán đầu năm 1998 đã làm cho
hàng nghìn ha cây công nghiệp của lưc vực bị chết.[1]

• Gió, bão
Hướng gió thịnh hành trong vùng thay đổi rõ rệt theo mùa. Từ tháng V tới
tháng IX gió có hướng Tây, Tây nam là chủ yếu. Từ tháng XI-IV hướng gió Đông,
Đông nam là chủ yếu. Hướng gió Tây thịnh hành ở Buôn Ma Thuột chiếm tần suất
50-55% trong các tháng mùa hạ tháng VI, VII, VIII. Trong các tháng mùa Đông XI,
XII, I gió Đông thịnh hành tần suất xuất hiện 60-70%.
Tốc độ gió trung bình trong các tháng mùa đông lớn hơn các tháng trong
mùa hạ. Tại Buôn Ma Thuột, tốc độ gió bình quân tháng XII đạt tới 5,4m/s, tháng I,
II đạt 5,6m/s. Trong khi đó các tháng mùa hè tốc độ gió chỉ đạt dưới 3m/s. Tốc độ
gió lớn hơn 10m/s thường xảy ra vào các tháng mùa đông, trung bình mỗi tháng xảy
ra từ 7-9 ngày ở Buôn Ma Thuột. Tốc độ gió lớn trên 15m/s thường xảy ra vào các
tháng đầu hoặc cuối mùa hè. Tốc độ gió lớn nhất ghi được là 20m/s ngày 7/IX/1982
ở Buôn Hồ, 34m/s ngày 20/III/1978 ở Buôn Ma Thuột, 20m/s ngày 11/I/1981 ở
M'Drak.[1]
1.1.5.2.

Chế độ thủy văn
Lưu vực sông Srêpôk chịu sự ảnh hưởng của chế độ gió mùa phức tạp lại

chịu thêm ảnh hưởng tích cực của yếu tố địa hình nên chế độ khí hậu rất khác nhau
với hai kiểu khí hậu Đông và Tây Trường Sơn. Điều này làm cho diễn biến lượng
mưa các tháng trong năm trở nên không ổn định, dẫn đến phân phối dòng chảy sông
Srêpôk diễn ra rất phức tạp về mùa cũng như thành phần lượng nước giữa các tháng
trong năm.[1]

• Dòng chảy năm

Biến động dỏng chảy năm theo hàng năm:
16


Dòng chảy trên sông không chỉ thay đổi hàng năm mà còn thay đổi theo các
thời kì trong năm, thể hiện tính tuần hoàn của các yếu tố khí hậu. Sự thay đổi có
tính chu kì này được gọi là phân phối dòng chảy năm. Do chịu ảnh hưởng của chế
độ gió mùa cùng với điều kiện địa hình nên chế độ mưa trên lưu vực tương đối phức
tạp, làm ảnh hưởng trực tiếp tới dòng chảy, làm dòng chảy có sự phân bố theo mùa
trong năm rất phức tạp. Năm nước lớn có lượng dòng chảy gấp 1,5-2 lần trị số bình
quân nhiều năm. Năm nhiều nước gấp 1,5-5 lần năm ít nước nhất.
Bảng 1-5: Đặc trưng dòng chảy trung bình nhiều năm tại các trạm thủy văn [1]

Mùa dòng chảy:
Lưu vực sông Srêpôk có chế độ khí hậu khác nhau: Diễn biến lượng mưa các
tháng trong năm cùng với các yếu tố tự nhiên khác làm cho sự phân phối dòng chảy
sông Srêpôk diễn ra rất phức tạp về mùa cũng như thành phần lượng nước giữa các
tháng trong năm. Căn cứ vào tài liệu thực đo ở các trạm thủy văn trên lưu vực và
lân cận có thể đánh giá được những nét cơ bản về phân phối dòng chảy trong năm
tương đối phù hợp với các vùng địa lý khí hậu.[1]
Từ những tài liệu thủy văn thu thập được ở các trạm thủy văn trong tỉnh
thuộc khu vực Tây Trường Sơn cho thấy sự biến động về mùa ở đây rất phức tạp.
Ngay tại vị trí một trạm đo có năm mùa lũ đến sớm hơn hoặc muộn hơn đến 2-3
tháng tạo nên mùa lũ hàng năm kéo dài ngắn khác nhau. Có năm có 2-3 tháng mùa
lũ, song cũng có năm có tới 5-6 tháng mùa lũ, điều đó thể hiện tính chất mùa không
ổn định trên lưu vực. Với những năm gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh ngay từ
đầu mùa mưa (tháng V hàng năm) mùa lũ trên lưu vực đến sớm. Đến cuối mùa mưa
nếu gặp mưa bão, áp thấp nhiệt đới từ biển Đông vào thì mùa lũ kéo dài thêm.
17



Bảng 1-6: Phân mùa lũ, mùa cạn và % lượng nước [1]

• Dòng chảy lũ
Dòng chảy lũ được hình thành trên lưu vực chủ yếu là do mưa. Nguyên nhân
gây mưa lũ trên lưu vực là do các loại hình thế thời tiết sau:
+ Mưa dông do gió mùa mùa hạ hướng Tây Nam kết hợp với dải hội tụ nhiệt
đới;
+ Mưa do bão từ biển Đông đổ bộ vào đất liền gặp dải Trường Sơn ngăn cản
bị suy yếu, sau khi vượt qua dải Trường Sơn thì hình thành một vùng ấp thấp nhiệt
đới gây nên mưa lớn trên diện rộng;
+ Mưa lớn hình thành do cả hai loại hình thế thế thời tiết trên gặp gỡ nhau.
Thường xảy ra vào cuối mùa mưa của Tây Trường Sơn vào cuối tháng X hoặc tháng
XI.
Chế độ lũ
Do ảnh hưởng mưa lũ hàng năm từ tháng VIII tới tháng XI mực nước sông
trên sông Krông Ana, Krông Nô dâng cao và đạt cao nhất vào tháng IX và tháng X.
Theo số liệu thống kê từ năm 1977-2002 tại trạm Giang Sơn trên sông Krông
Ana cho thấy rằng lũ lớn nhất trong năm xảy ra vào tháng X, XI chiếm tỷ lệ 37,5%
tháng IX và Tháng XII chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ 12,3% và 12,5%. Lũ lớn nhất không xuất
hiện vào các tháng VI, VII, VIII. Trong khi đó trên sông Krông Nô lũ lớn nhất trong
năm xuất hiện vào tháng X chiếm 40% và tiếp theo là tháng XI chiếm 26,7%. Sự
xuất hiện lũ lệch pha giữa hai sông gây nên mức độ ngập lụt dài ngày cùa vùng hạ
lưu hai sông.
Trong cùng một đợt mưa sinh lũ, trên sông Krông Ana lũ thường chậm hơn
trên sông Krông Nô 2-5 ngày (do độ dốc lòng sông của sông Krông Ana nhỏ hơn
sông Krông Nô, và lưu vực có tác dụng điều tiết tốt hơn). Lũ lớn nhất trên sông
18



Krông Ana thường chậm hơn trên sông Krông Nô xấp xỉ 1 tháng (do lưu vực sông
Krông Ana còn chịu tác động của khí hậu Đông Trường Sơn).[1]
Bảng 1-7: Khả năng lũ lớn nhất hàng năm của các trạm (%) [1]

• Dòng chảy kiệt
Mùa kiệt trên lưu vực từ tháng XI, XII đến tháng VII, VIII năm sau. Tháng
XI vùng thượng nguồn sông Krông Ana (sông Krông Pach) do chịu ảnh hưởng yếu
của khí hậu Đông Trường Sơn nên có nơi còn có lượng mưa đạt tới trên
300mm/tháng (theo số liệu quan trắc của trạm M’Đrăk). Trong khi đó các nơi khác
lượng mưa tháng chỉ còn xấp xỉ 100mm/tháng. Tháng XII lượng mưa ở vùng
thượng nguồn sông Krông Pach vẫn còn đạt trên 100mm/tháng. Lúc đó lượng mưa
các nơi khác giảm xuống dưới mức 10-20mm/tháng. Tháng I, II trên toàn lưu vực
lượng mưa rất ít, chỉ một số nơi có mưa, nhưng lượng mưa chỉ đạt từ 510mm/tháng. Sang đến tháng III toàn lưu vực hầu như không có mưa. Từ tháng IV
gió mùa Tây Nam đã thổi xen kẽ và bắt đầu xất hiện lác đác các trận mưa đông sớm
với lượng mưa tháng xấp xỉ 100mm/tháng. Tháng V, VI, VII lượng mưa có khá hơn
và hình thành dòng chảy nhưng lượng dòng chảy này chưa đủ lớn để được xếp vào
dòng chảy của mùa lũ.[1]
Tại Bản Đôn dòng chảy bình quân tháng nhỏ nhất rơi vào tháng IV đạt
62m³/s, dòng chảy tháng IV với tần suất 75% chỉ đạt 46,1m³/s tương ứng với môđun
dòng chảy 4,31/s/km².

19


Bảng 1-8: Dòng chảy kiệt thực đo tại các trạm thủy văn trên lưu vực

1.1.5.3.

Mạng lưới sông ngòi
Sông Srêpôk là chi lưu cấp 1 của sông Mê Kông. Trong địa phận tỉnh Đăk


Lăk, Đăk Nông diện tích lưu vực của dòng chính là 4.200km 2 với chiều dài sông
125km. Đoạn này lòng sông tương đối dốc, chảy từ độ cao 400m nhập lưu xuống
cao độ 150m ở biên giới CamPuChia. Sông Srêpôk do 2 nhánh sông Krông Nô và
Krông Ana hợp thành.

Hình 1-2: Mạng lưới sông suối trên lưu vực sông Srêpôk
20


Sông Krông Nô bắt nguồn từ dãy Chư Yang Sin có đỉnh cao trên 2000m có
diện tích lưu vực 3.823km2 và chiều dài dòng chính 156km. Sông Krông Nô do 2
nhánh suối chính là Krông Nô Đa và Đăk Mang hợp thành.
Sông Krông Ana là hợp lưu của 3 suối lớn Krông Buk, Krông Pach, Krông
Bông. Sông có tổng diện tích lưu vực 3.872km 2, chiều dài dòng chính 215km. Dọc
theo chiều dài dòng chính ở trung và hạ lưu sông là vùng đất khá bằng phẳng nhưng
thấp trũng thường xuyên bị ngập nước về mùa lũ.
Sông Krông Nô và Krông Ana nhập lưu với nhau ở sau thác Buôn Dray tạo
thành dòng chính Srêpôk.
Nhìn chung, trên các tiểu lưu vực thuộc lưu vực sông Srêpôk có mạng lưới
các nhánh sông suối khá dày đặc và phân bố đều. Đây là điểm thuận lợi cho việc
cấp nước cho các ngành sản xuất và sinh hoạt của nhân dân cũng như việc phát triển
năng lượng của khu vực. Mặt khác nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến các vùng hạ du
rộng lớn. Do đó, việc khai thác, sử dụng nguồn nước trên lưu vực cần được xem xét
trên quan điểm chung vì lợi ích toàn vùng.[1]
Bảng 1-9: Đặc trưng hình thái sông ngòi lưu vực Srêpôk [1]
Sông
Srêpôk
Krông Ana
Krong Pach

Krong Buk
Krông Bông
Krông Nô

F
(km2)
18264
3960
690
478
788
3920

Chiều dài

Chiều dài

sông L

lưu vực

(km)
315
215
74
13
73
156

(km)

183
97
53
58
56
125

Cao độ bq

Độ dốc

Mật độ lưới

lưu vực

lòng (%o)

sông

570
676
752
590
950
917

2.3
2,3
5,8
5,5

9,2
6,8

0,55
0,55
0,69
0,56
0,5
0,86

Nguồn: Viện Quy hoạch Thủy lợi Hà Nội 2014
1.1.5.4.

Mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn
a. Lưới trạm khí tượng

Hiện nay, trong lưu vực có 17 trạm đo mưa trong đó có 5 trạm khí tượng đo các yếu
tố nhiệt độ đó là Buôn Ma Thuật, Buôn Hồ, Đăk Nông, M’Đrăk và trạm Đà Lạt là
trạm vùng lân cận.[1]
Bảng 1-10: Lưới trạm khí tượng và đo mưa trong lưu vực
STT

Trạm

Kinh độ

Vĩ độ

21


Thời gian quan trắc


1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17

Buôn Ma Thuật
Bản Đôn
Cầu 14
Cầu 42
Krông Bông
Buôn Hồ
Đăk Mil
Lăk
Đoàn 333

Ea Soup
Đăk Nông
Krông Pach
Đức Xuyên
Giang Sơn
M’Đrăk
Buôn Đrây
Buôn Triết

108003’
107047’
107045’
108022’
108027’
108016’
107037’
108011’
108037’
108052’
108053’
108000’
108059’
108011’
108046’
107058’
108003’

12040’
12053’
10037’

12046’
12033’
12055’
12027’
12025’
12048’
13006’
12002’
12002’
12028’
12030’
12045’
12031’
12026’

1933-1944; 1954-1974;1977 đến nay
1977 đến nay
1977 đến nay
1977 đến nay
1977 đến nay
1977 đến nay
1951-1967; 1978 đến nay
1977 đến nay
1978-1984
1977 đến nay
1977 đến nay
1978-1987;1990
1978 đến nay
1977 đến nay
1978 đến nay

1987-1998
1986-1997

b. Lưới trạm thủy văn
Trên lưu vực có 16 trạm đo mưa thủy văn trong đó có 12 trạm đo mực nước, lưu
lượng, còn lại là đo mực nước. Hiện nay, trên lưu vực chỉ còn lại 5 trạm thủy văn
cấp I, đó là: Cầu 42, Giang Sơn, Đức Xuyên, Cầu 14, Bản Đôn.
Hệ thống trạm mực nước thiết lập phục vụ cho việc dự báo lũ, kiệt cho tới nay
không còn hoạt động nữa. Các trạm đo lưu lượng, mực nước cho các lưu vực nhỏ
như trạm Đoàn Kết, Quyết Thắng cũng không còn hoạt động nữa.

22


Bảng 1-11: Lưới trạm thủy văn trên lưu vực
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14

15
16

Tên trạm
Bản Đôn
Cầu 14
Buôn Đray
Buôn Hồ
Cầu 42
Krong Bông
Giang Sơn
Hồ Lăk
8-4
Buôn Trấp
Quyết Thắng
Đức Xuyên
Buôn Trấp 3
Krong Pach
Đoàn Kết
Đăk Nông

Tên sông
Srepok
Krông Buk
Krông Bông
Kroông Ana
Đăk Liêng
Krông Nô
Krong Pach
Ea Knir

Đăk Nông

Số liệu
H,Q,S
H,Q,S
H,Q
H,Q
H,Q,S
H,Q
H,Q,S
H
H
H
H,Q
H,Q,S
H
H,Q
H,Q
H,Q,S

Thời gian quan trắc
1977 – đến nay
1977 – đến nay
1988 - 1998
1977,1987
1969 – 1974, 1977 - đến nay
1977 - 1986
1966 – 1974, 1977 - đến nay
1977 – 1984
1977 – 1981

1979 – 1981
1988 – 1992
1978 – đến nay
1986 – 1988
1980 – 1985
1977 – 1987
1977 – đến nay

Sự phân bố của các trạm đo mưa nhìn chung chưa hợp lý, vị trí các trạm đo
mưa đều nằm ở gần các thị trấn, thị tứ, thung lũng sông, nơi có dân cư đông đúc,
hầu như không có trạm đo mưa nào ở thượng nguồn các sông lớn. Còn những nơi
có địa hình thay đổi như vùng núi cao gần đầu nguồn các sông, suối thì chưa bố trí
được trạm quan trắc. Nhiều trạm có thời gian quan trắc ngắn và bị gián đoạn. Có
những trạm có thời gian quan trắc dài năm nhưng qua các thời kỳ biến đổi của lịch
sử, địa điểm đo bị thay đổi không xác định lại được vị trí nên khi sử dụng gặp nhiều
khó khăn, không phân tích, đánh giá được tính hợp lý của tài liệu như trạm An Khê,
M’Đrak, Kon Plong…làm giảm độ tin cậy của tài liệu. Những trạm đo mưa chuyên
dùng cho các nông trường hoặc các trạm thuỷ văn dùng riêng có số liệu ngắn chỉ từ
5-10 năm, chất lượng tài liệu không cao có thể dùng để tham khảo. Những trạm đo
mưa trước giải phóng (1975) thường bị gián đoạn do chiến tranh, một số trạm chỉ có
số liệu đo từ 7-10 năm như trạm Krông Pach, Buôn Triết, Buôn Dray, Đoàn 715...
Những trạm này có số liệu ngắn không liên tục, mức độ tin cậy chưa cao chỉ dùng
để tham khảo.
Còn lại đa số các trạm có số liệu khoảng trên 30 năm kể từ 1977 tới nay do
Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý. Chuỗi số liệu quan trắc liên tục, chất lượng
tài liệu đảm bảo, tin cậy được sử dụng trong tính toán phục vụ cho công tác quy
hoạch thủy lợi.

23



Mạng lưới trạm khí tượng thủy văn hiện có trên vùng Tây Nguyên nói chung
là còn ít và thưa thớt, so với nhiều năm về trước trạm khí tượng thủy văn trong vùng
không những không tăng lên mà còn bớt đi, nhiều trạm bỏ không tiếp tục quan trắc
nữa như trạm Trung Nghĩa, Krông Bông…
1.1.6. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên
a. Tiềm năng và lợi thế so sánh của vùng

Tây Nguyên có vị trí chiến lược về chính trị, an ninh - quốc phòng.
Trên lưu vực sông Srêpôk có quỹ đất bazan rất lớn và khí hậu thuận lợi cho
phát triển các cây công nghiệp quan trọng và chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Lưu vực sông Srêpôk có tiềm năng lớn về phát triển công nghiệp thủy điện
và công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản.
Trên lưu vực sông Srêpôk có nhiều tiềm năng, điều kiện phát triển du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Có vị trí quan trọng về môi trường sinh thái.
b. Hạn chế, khó khăn chủ yếu của vùng

Trên lưu vực sông Srêpôk có một số hạn chế về điều kiện tự nhiên như diện
tích vùng núi nhiều, phân bố mưa không đều theo mùa…
1.2. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI
1.2.1. Dân số và sự phân bố dân cư

Dân cư phân bố không đều trên toàn vùng, nơi đông dân cư chủ yếu tập
trung ở các thành phố, thị xã, thị trấn, trung tâm xã, ven các trục đường quốc lộ, tỉnh
lộ, những vùng sâu vùng xa dân cư thưa thớt. [3]
Trên lưu vực sông Srêpôk có khoảng gần 45 dân tộc cùng chung sống. Trong
đó, người kinh chiếm trên 70%; các dân tộc thiểu số bản địa như Ê Đê, Mơ Nông,
Thái, Tày, Nùng, Gia Rai, Ba Na ... chiếm gần 30% dân số toàn tỉnh. Dân tộc di cư
từ vùng núi phía Bắc gồm Mông, Tày, Nùng, Thái, Dao, ...

1.2.2. Đặc điểm văn hóa - xã hội

Trên lưu vực Srêpôk có nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi dân tộc có
những nét đẹp văn hóa riêng. Đặc biệt là văn hóa truyền thống của các dân tộc Ê
Đê, M'Nông, Gia Rai, v.v… với những lễ hội cồng chiêng, đâm trâu, đua voi mùa
xuân; kiến trúc nhà sàn, nhà rông; các nhạc cụ lâu đời nổi tiếng như các bộ cồng
chiêng, đàn đá, đàn T'rưng; các bản trường ca Tây Nguyên... là những sản phẩm văn
24


hóa vật thể và phi vật thể quý giá, trong đó Không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên đã được tổ chức UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn
hóa phi vật thể của nhân loại. Tất cả các truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân
tộc tạo nên sự đa dạng, phong phú về văn hóa của Đăk Lăk.[3]
Tình hình kinh tế chung
a. Tình hình chi tiết của các ngành kinh tế



Nông nghiệp
Theo số liệu thống kê đất đai năm 2013, tổng diện tích tự nhiên toàn vùng là
54.641.070 ha, diện tích đất nông nghiệp chiếm 88,45%, đất phi nông nghiệp chiếm
6,56% và đất chưa sử dụng còn 4,99%. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp
1.968.244 ha (chiếm 36% tổng diện tích). Diện tích đất trồng cây hàng năm 841.675
ha, trong đó diện tích đất trồng lúa chỉ có 169.661 ha, còn lại là cây hàng năm như
mía, sắn. Diện tích đất trồng cây lâu năm 1.126.569 ha chiếm 57,2% diện tích đất
sản xuất nông nghiệp, cho thấy cây công nghiệp lâu năm là thế mạnh của vùng Tây
Nguyên.[3]




Trồng trọt
Sản xuất nông nghiệp đã có chuyển biến mạnh, đã hình thành những vùng
sản xuất tập trung cây công nghiệp như đối với cây cà phê, cao su, mía, chè, dâu
tằm, điều, bông... tạo tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế hàng hóa quy mô lớn
gắn với công nghiệp chế biến cải thiện đời sống cho bộ phận đông đảo dân cư là
nông dân. Ngành trồng trọt trong những năm qua luôn có mức tăng trưởng khá.[3]

25


×