Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận lớp Chuyên viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.68 KB, 21 trang )

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH PHÚ THỌ
LỚP BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC QLNN CHƯƠNG TRÌNH
CHUYÊN VIÊN KHÓA 31 (KHỐI ĐẢNG ĐOÀN THỂ )
---------------------

TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA:

"GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG XỬ LÝ VI PHẠM
KỶ LUẬT TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ
CÁN BỘ - CÔNG CHỨC"

Người thực hiện:

Bùi Đức Trung

Đơn vị công tác:

Huyện đoàn Lâm Thao

Lâm Thao, tháng 8 năm 2014


GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG XỬ LÝ VI PHẠM
KỶ LUẬT TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
----------LỜI NÓI ĐẦU
Có thể nói rằng cán bộ và công tác cán bộ ở thời kỳ nào cũng giữ vai trò
quyết định trong sự thành bại của một chiến lược, một chính sách. Với ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm tới
việc xây dựng đội ngũ cán bộ - công chức trong sạch, vững mạnh; có đủ phẩm
chất và năng lực công tác để họ thực sự trở thành những công bộc của dân,
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất


nước.
Những năm qua, công tác quản lý cán bộ - công chức đã được đẩy mạnh
góp phần nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ - công chức. Tuy
nhiên, việc giáo dục ý thức trách nhiệm, chấp hành kỷ luật của cán bộ - công
chức chưa được đề cao. Việc quản lý lỏng lẻo đã vô tình tạo cho một bộ phận
nhỏ cán bộ - công chức những đặc quyền đặc lợi không được qui định trong
pháp luật.
Qua thời gian học tập tại lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước
chương trình chuyên viên - khoá 31 (khối Đảng, đoàn thể), được các thầy cô
của trường chính trị tỉnh cung cấp những kiến thức về quản lý nhà nước, trong
phạm vi một bài tiểu luận cuối khoá, em xin phép được trình bày tình huống
về "Xử lý vi phạm kỷ luật trong công tác quản lý cán bộ - công chức".

2


I. MÔ TẢ TỈNH HUỐNG
Diễn biến sự việc như sau:
Ông Bùi Văn A là cán bộ thuộc Phòng B – UBND huyện C. Được tuyển
dụng vào biên chế Nhà nước từ tháng 5/1998. Đến tháng 8/1999, sau khi hết
thời gian tập sự là 3 tháng do yêu cầu về chuyên môn của cơ quan ông Bùi
Văn A được cử đi thi và đỗ cao học, được UBND huyện C có quyết định cử
đi học chương trình thạc sỹ thời gian đào tạo 2 năm liên tục. Mọi chế độ của
cán bộ đi học ông Bùi Văn A được hưởng theo đúng qui định tại Quyết định
số 1843/1994/QĐ-UB ngày 10/8/1999 của UBND tỉnh Phú Thọ "Về việc ban
hành chế độ đối với cán bộ đi học". Trong hồ sơ đi học ông Bùi Văn A có
cam kết sau khi đi học xong chương trình thạc sỹ sẽ quay lại đơn vị công tác,
nếu vi phạm cam kết sẽ phải bồi hoàn toàn bộ kinh phí đào tạo và mọi chế độ
ưu đãi khác. Tháng 9/2001 sau khi tốt nghiệp thạc sỹ ông Bùi Văn A trở về cơ
quan Phòng B tiếp tục công tác được một thời gian là 3 tháng. Đến tháng

12/2001 ông Bùi Văn A có đơn xin nghỉ để đi chữa bệnh, Phòng B đã đồng ý
cho ông A nghỉ nhưng không ra quyết định mà chỉ phê vào đơn là đồng ý cho
ông A nghỉ để chữa bệnh. Trong thời gian đi chữa bệnh, ông Bùi Văn A đã
kết hôn với Bà Nguyễn Thị Y là người Hà Nội công tác tại Bộ Quốc phòng,
sau khi kết hôn đã sinh con và sống với vợ con tại Hà Nội. Trong thời gian từ
tháng 12/2001 đến tháng 5/2004 Ông A đã 3 lần làm đơn gửi đến cơ quan
Phòng B xin nghỉ để đi chữa bệnh, nhưng ông A không nộp đơn trực tiếp mà
gửi qua đường bưu điện. Phòng B đã 2 lần cử người đến thăm và có công văn
yêu cầu ông A phải báo cáo tường trình về quá trình điều trị bệnh và hoàn tất
thủ tục nghỉ ốm hưởng bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên ông A đã không hoàn
thiện được các thủ tục nghỉ ốm hưởng bảo hiểm xã hội, mà chỉ có một số giấy
tờ chứng minh ông có điều trị bệnh tại một số bệnh việc quân đội và các cơ sở
y tế tư nhân trong những thời gian rất ngắn. Tuy vậy thời gian điều trị tại bệnh

3


việc quân đội ông A cũng không có đủ thủ tục nghỉ ốm hưởng Bảo hiểm xã
hội. Như vậy, trong suốt thời gian nghỉ từ tháng 12/2001 đến tháng 5/2004
ông Bùi Văn A coi như tự ý bỏ nhiệm vụ, nghỉ việc không có lý do chính
đáng. Đến tháng 11/2003 ông A có đơn xin nghỉ thôi việc, nhưng ông A vẫn
vắng mặt nên Phòng B không giải quyết được.
Tháng 3/2004 UBND huyện có công văn mời ông A có mặt ở cơ quan để
kiểm điểm quá trình công tác của ông A và giải quyết đơn xin thôi việc. Căn
cứ vào hồ sơ thực tế, vào các qui định tại Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày
17/11/1998 của Chính phủ về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với
cán bộ, công chức và Thông tư số 05/1999/TT-TCCP ngày 27/3/1999 của Ban
tổ chức - cán bộ Chính phủ hướng dẫn thực hiện nghị định 97/1998/NĐ-CP,
UBND huyện đã thành lập hội đồng kỷ luật xem xét các vi phạm của ông A
và UBND huyện đã thi hành quyết định kỷ luật ông Bùi Văn A với hình thức

buộc thôi việc, đồng thời ông A phải bồi thường toàn bộ kinh phí đào tạo và
các chế độ ưu đãi đã được hưởng trong thời gian đi học.
Tháng 5/2004 ông Bùi Văn A có đơn khiếu nại gửi UBND huyện C đề nghị
được xem xét lại hình thức kỷ luật. Theo ông A thì hình thức kỷ luật buộc thôi
việc đối với ông là chưa hợp lý vì trong thời gian nghỉ việc ông đã 3 lần có
đơn xin nghỉ để điều trị bệnh; mặt khác hình thức kỷ luật này đối với ông là
quá nặng và ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống sau này của ông.
Đó là toàn bộ diễn biến của tình huống và để tình huống được giải quyết
một cách có hiệu quả, trước hết phải xác định được mục tiêu xử lý.
II. MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG:
Mục tiêu xử lý là cái đích cần hướng tới khi xử lý tình huống. Đối với vụ
việc nêu trên, quá trình giải quyết phải đảm bảo các mục tiêu sau:

4


Một là: Xác định hình thức kỷ luật đối với ông A theo đúng qui định của
pháp luật đồng thời bảo đảm quyền lợi chính đáng và hợp pháp của cá nhân
ông Bùi Văn A
Hai là: Bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích của tập thể (ở đây là lợi ích
của Phòng B) và quyền lợi của cá nhân ông A.
Ba là: Việc xử lý tình huống phải đảm bảo việc chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật, tăng cường pháp chế, chế tài xử lý vi phạm trong công tác quản lý
cán bộ - công chức.
III. PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ:
Để giải quyết tình huống trên theo các mục tiêu đã xây dựng, phải làm sáng
tỏ nguyên nhân và hậu quả của sự việc. Trước hết là đánh giá nguyên nhân
khách quan và nguyên nhân chủ quan.
1. Nguyên nhân khách quan::
Nhìn nhận từ khía cạnh khách quan căn cứ trên việc mô tả sự việc chúng ta

thấy có 3 nguyên nhân cơ bản sau:
Nguyên nhân thứ nhất: Trong thời gian nghỉ việc đi điều trị bệnh ông A đã
xây dựng gia đình trong thời gian đi học, sinh con và sống với vợ tại Hà Nội,
xét trên phương diện hoàn cảnh sống, điều kiện kinh tế - xã hội thì Hà Nội là
nơi có điều kiện sống tốt hơn Phú Thọ, lại gần chỗ vợ con có điều kiện chăm
sóc gia đình. Điều đó cũng tác động không nhỏ tới ý thức của con người,
phải khẳng định một điều là ông A cũng có ý lạm dụng việc ốm đau để nghỉ
việc không có ý thức.
Nguyên nhân thứ hai: Việc giáo dục pháp luật, giáo dục ý thức trách nhiệm
người cán bộ, công chức của Phòng B đối với cán bộ, công chức, viên chức
còn hạn chế dẫn đến việc nhận thức của cán bộ còn ở mức độ xử lý tình

5


huống theo cảm tính. Trong công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng
cán bộ, công chức UBND huyện C chưa tìm hiểu nắm được diễn biến tư
tưởng của cán bộ, công chức dẫn đến cán bộ, công chức còn có tư tưởng lợi
dụng những sơ hở của chính sách Nhà nước, đồng thời việc xử lý của cơ quan
khi ông A nghỉ quá lâu không có lý do chính đáng cũng không có biện pháp
kiên quyết triệt để.
Nguyên nhân thứ ba: Chính sách ưu đãi của tỉnh Phú Thọ chưa có tính thu
hút cao, người có trình độ chuyên môn cao ngoài chính sách của Nhà nước
hầu như tỉnh chưa có ưu đãi đặc biệt gì hơn để thu hút.
2. Nguyên nhân chủ quan:
Sự nhận thức của cá nhân ông A về trách nhiệm của người cán bộ, công
chức đối với cơ quan đơn vị còn thiếu, yếu. Bản thân ông A có tư tưởng dễ
làm khó bỏ, muốn tìm nơi có điều kiện sống thuận lợi hơn, lạm dụng chính
sách của Nhà nước để có cơ hội thực hiện tư tưởng "trú chân " tìm cơ hội sau
khi được Nhà nước tạo điều kiện được đào tạo hoàn chỉnh ông A sẽ bỏ đi nơi

khác. Sự nhận thức về chính sách, pháp luật còn kém hiểu biết dẫn đến ý thức
chấp hành của cá nhân còn hạn chế, không lường trước và dự đoán được hậu
quả của sự việc.
3. Đánh giá hậu quả:
Từ những nguyên nhân trên, một hậu quả tất yếu xảy ra là: Sau khi bị xử lý
kỷ luật thì tư tưởng cá nhân ông A không an tâm, đồng thời ảnh hưởng tới tư
tưởng của toàn thể cán bộ, công chức trong cơ quan. Mọi công việc của cơ
quan sẽ bị tác động theo chiều hướng xấu, mặt khác tuy việc bồi thường thiệt
hại đã được thực hiện nhưng vẫn không đủ bù lại những chi phí của Nhà nước
cho việc đào tạo một con người. Hơn thế nữa hậu quả để lại cho Phòng là rất
lớn, nó tạo ra một tiền lệ cho những người có cùng tư tưởng như ông A (đó là

6


trú chân để chờ đợi cơ hội), làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng công việc.
Làm cho sự nhìn nhận về chính sách của huyện bị sai lệch, chính sách không
phù hợp với nguyện vọng cá nhân người lao động mặc dù đối với một huyện
nghèo thì chính sách đó là phù hợp với hoàn cảnh kinh tế -xã hội hiện tại.
IV. PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN:
Để giải quyết tình huống trên, em xin phép được đưa ra 3 phương án:
* Phương án 1:
UBND huyện C thi hành hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với ông Bùi
Văn A và yêu cầu ông A bồi thường toàn bộ kinh phí đào tạo và các chế độ
ưu đãi khác.
Theo các quy định tại Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của
Chính phủ về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức
và Thông tư số 05/1999/TT-TCCP ngày 27/3/1999 của Ban Tổ chức Cán bộ
Chính phủ hướng dẫn thực hiện Nghị định 97/1998/NĐ-CP thì UBND huyện
C phải thành lập hội đồng kỷ luật để xem xét các vi phạm của ông A. UBND

huyện C phải trực tiếp báo hoặc gửi công văn yêu cầu ông A phải làm bản tự
kiểm điểm, tường trình làm rõ những vi phạm của bản thân, tự nhận một hình
thức kỷ luật tương xứng với khuyết điểm mình đã vi phạm. Đồng thời cơ
quan thông báo luôn thời gian làm việc của Phòng B (nơi ông A làm việc
trước khi nghỉ) cụ thể là thời gian họp toàn thể cán bộ, công chức trong Phòng
B để ông A tự kiểm điểm trước Phòng.
Trước khi Hội đồng kỷ luật họp, Phòng B nơi ông A công tác phải họp toàn
thể cán bộ, công nhân viên có mời lãnh đạo cơ quan tham dự để ông A kiểm
điểm trước Phòng và tự nhận hình thức kỷ luật của Phòng nộp cho lãnh đạo
cơ quan để đưa ra Hội đồng kỷ luật.

7


UBND huyện C phải ra quyết định thành lập Hội đồng kỷ luật của cơ quan
để xem xét và kiến nghị hình thức kỷ luật. Thành phần Hội đồng gồm: Chủ
tịch hoặc Phó chủ tịch UBND huyện, đại diện Ban chấp hành công đoàn cơ
quan, đại diện Lãnh đạo Phòng B nơi ông A công tác, đại diện Ban nữ công,
đại diện BCH Đoàn thanh niên. Hội đồng kỷ luật của cơ quan gửi giấy triệu
tập cho ông A trước 7 ngày khi Hội đồng họp. Văn phòng UBND huyện có
trách nhiệm chuẩn bị toàn bộ hồ sơ có liên quan đến việc kỷ luật ông A đồng
thời chịu trách nhiệm ghi biên bản cuộc họp của hội đồng kỷ luật.
Hội đồng kỷ luật UBND huyện C căn cứ vào điểm 5, mục A, phần II của
Thông tư số 05/TT-TCCP hướng dẫn thục hiện Nghị định 97/1998/NĐ-CP
quy định: "Ngoài những trường hợp có thể bị buộc thôi việc quy định tại điển
7 điều 12 Nghị định số 97/1998/NĐ-CP thì hội đồng kỷ luật xem xét kiến nghị
buộc thôi việc đối với công chức tự ý bỏ việc 7 ngày trong một tháng hoặc 20
ngày trong một năm (cộng dồn) mà không có lý do chính đáng" và quy định
về bồi thường kinh phí đào tạo và chế độ ưu đãi quy định tại Quyết định số
2224/2003/QĐ-UB ngày 23/7/2003 của UBND tỉnh về chế độ ưu đãi đối với

cán bộ, viên chức tại tỉnh Phú Thọ.
Hội đồng kỷ luật nghe Văn phòng UBND huyện trình bày toàn bộ hồ sơ
liên quan đến quá trình vi phạm của ông A: Căn cứ vào hồ sơ đó thấy mọi thủ
tục nghỉ ốm hưởng Bảo hiểm xã hội của ông A đều không đầy đủ. Ông A
trình bày ý kiến của mình trước Hội đồng, các thành viên hội đồng tham gia ý
kiến đóng góp, ông A tự nhận về hình thức kỷ luật của mình, sau đó Hội đồng
hội ý riêng trước khi biểu quyết đưa ra hình thức kỷ luật thích hợp. Căn cứ
vào hồ sơ thực tế đối chiếu với các quy định trên, Hội đồng kỷ luật của
UBND huyện C biểu quyết về đề nghị thi hành hình thức kỷ luật buộc thôi
việc và bồi thường toàn bộ kinh phí đào tạo đối với ông Bùi Văn A là hợp lý.

8


Phòng Nội vụ có trách nhiệm ghi biên bản và thu nhập các tài liệu hồ sơ của
Hội đồng kỷ luật.
Hội đồng kỷ luật UBND huyện C họp xong trong vòng 3 ngày toàn bộ
quyết nghị, biên bản và hồ sơ tài liệu có liên quan được gửi đến tập thể
UBND huyện. Lãnh đạo UBND huyện C xem xét và trong vòng 7 ngày đồng
chí Chánh Văn phòng ra quyết định thi hành kỷ luật buộc thôi việc đối với
ông Bùi Văn A sau đó toàn bộ hồ sơ và quyết định này được lưu trữ trong hồ
sơ cá nhân ông Bùi Văn A
Việc bồi thường chi phí đào tạo và các chế độ ưu đãi trong thời gian đi học
của ông A được cơ quan UBND huyện C tiến hành theo các bước sau:
Chủ tịch UBND huyện C phải thành lập Hội đồng để xem xét bồi thường.
Thành phần gồm: Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch UBND huyện C làm Chủ tịch
hội đồng; Các uỷ viên gồm: Đại diện lãnh đạo công đoàn cơ quan, người phụ
trách bộ phận tài chính - kế toán (kế toán cơ quan), Trưởng phòng B nơi ông
A công tác, một chuyên gia về kinh tế.
Hội đồng bồi thường họp xem xét và kiến nghị với Lãnh đạo cơ quan về

mức bồi thường và phương thức bồi thường. Trước hết hội đồng nghe các uỷ
viên báo cáo về các vấn đề có liên quan đến mức bồi thường. Sau đó ông A
được giải trình về mức bồi thường và nguyện vọng cá nhân. Hội đồng thảo
luận và bỏ phiếu kín về mức bồi thường. Toàn bộ kết quả họp của Hội đồng
bồi thường được lập thành văn bản kiến nghị lên Lãnh đạo cơ quan. Chánh
Văn phòng UBND căn cứ vào kết quả của hội đồng để ra quyết định bồi
thường theo đúng thẩm quyền.
Về phương thức bồi thường: Hội đồng đề nghị ông A có thể tự lựa chọn
phương thức phù hợp với điều kiện thực tế của cá nhân. Sau đó phương thức

9


nào được Hội đồng chấp nhận thì đưa vào biên bản cuộc họp để đề nghị
Chánh Văn phòng ra quyết định.
Trong quá trình hoàn thiện hồ sơ kỷ luật, UBND huyện C đã xem xét cả
yếu tố đảm bảo kỷ cương của cơ quan trong việc thi hành pháp luật, đồng thời
không tạo một tiền lệ cho những người có tư tưởng trú chân chờ được đào tạo
cơ bản xong là tìm cơ hội kiếm việc làm ở những nơi có điều kiện sống tốt
hơn. Tuy nhiên đối với trường hợp ông Bùi Văn A ta thấy trong thời gian
nghỉ việc dài nhưng ông A vẫn có tới 3 lần làm đơn xin nghỉ ốm. Tuy không
hoàn thiện được hồ sơ xin nghỉ ốm hưởng Bảo hiểm xã hội, nhưng tại một số
thời điểm ông A có giấy chứng nhận có điều trị tại bệnh viện quân đội và các
cơ sở y tế tư nhân (giấy ra viện ), các cơ sở y tế tư nhân không có thẩm quyền
điều trị Bảo hiểm y tế, không được quyền công nhận và lập hồ sơ cho phép
người bệnh nghỉ hưởng Bảo hiểm xã hội như các cơ sở y tế của Nhà nước nếu
không được Nhà nước cho phép. Nhưng bệnh viện quân đội thì đủ thẩm
quyền cấp các loại giấy tờ công nhận và lập hồ sơ cho phép người bệnh nghỉ
Bảo hiểm xã hội.
Việc UBND huyện C vẫn giải quyết chế độ Bảo hiểm xã hội cho ông A

trong thời gian ông A điều trị tại bệnh viện quân đội, đứng trên phương diện
pháp lý thì đương nhiên UBND huyện C công nhận ông A vẫn đang tham gia
công tác tại cơ quan, tuy việc làm này của cơ quan mang tính nhân đạo nhiều
hơn tính pháp lý. Đây cũng là một việc làm mà trong quá trình giải quyết
công việc, nếu quá nghiêng về phía này thì dễ tạo kẽ hở trong quản lý, dễ bị
lạm dụng.
Tóm lại, UBND huyện C theo phương án giải quyết này thì kỷ cương của
cơ quan, chính sách của huyện, pháp luật của Nhà nước được coi trọng. Có
thể nói cơ quan đã tạo được một hành lang hợp lý trong việc quản lý, sử dụng

10


cán bộ, công chức. Tuy nhiên nhìn ở góc độ lợi ích của cá nhân thì ta thấy hơi
cứng nhắc, ông A còn ít tuổi được đào tạo cơ bản nhưng cơ hội tìm việc làm
khó khăn hơn bởi ít có cơ quan, tổ chức nào lại dám nhận một người đã bị
buộc thôi việc vào làm việc, quyết định này cũng sẽ làm cho tư tưởng ông A
không an tâm, cảm thấy cơ quan ít quan tâm đến cá nhân mình.
Như vậy phương án giải quyết này của UBND huyện C chưa kết hợp hài
hoà được giữa việc đảm bảo tăng cường pháp chế, theo đúng pháp luật với
việc đảm bảo lợi ích chính đáng của công dân, tuy phương án này không có gì
sai trái.
* Phương án 2:
UBND huyện C vẫn thi hành kỷ luật ông Bùi Văn A nhưng với mức độ nhẹ
hơn đó là hình thức cảnh cáo, bồi hoàn toàn bộ kinh phí đào tạo và các chế độ
ưu đãi đã được hưởng trong thời gian đi học, sau đó giải quyết cho ông A
nghỉ thôi việc.
UBND huyện C vẫn phải thành lập hội đồng kỷ luật theo đúng quy định tại
nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ và Thông tư số
05/1999/TT-TCCP ngày 27/3/1999 của Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ. Mọi

quy trình tiếp theo vẫn thực hiện đúng như ở phương án 1.
Tuy nhiên cũng như phương án 1 ta thấy ông A nghỉ việc trong một thời
gian dài, nhưng ông vẫn có ý thức chấp hành kỷ cương của cơ quan cụ thể là
đã 3 lần ông A có đơn xin nghỉ đi chữa bệnh, mặc dù hồ sơ để chứng minh
cho việc nghỉ chữa bệnh của ông A không đủ căn cứ pháp lý, nhưng trong
thực tế việc tồn tại các cơ sở y tế tư nhân khám chữa bệnh không đủ tư cách
cấp các loại giấy tờ về nghỉ ốm hưởng Bảo hiểm xã hội là vẫn có. UBND
huyện C giải quyết cho ông A nghỉ thôi việc theo nghị định 97/1998/NĐ-CP
ngày 17/11/1998 của Chính phủ là hợp lý. Khi ông A có đơn xin nghỉ đi chữa

11


bệnh và Phòng B vẫn trích đóng Bảo hiểm xã hội đầy đủ cho ông A đang
công tác và việc giải quyết chế độ thôi việc hưởng trợ cấp một lần cho ông A
là hợp pháp. Việc giải quyết chế độ thôi việc cho ông A tập thể Lãnh đạo
UBND huyện C giao cho Phòng Nội vụ hoàn thiện hồ sơ và giải quyết theo
đúng chế độ quy định.
Việc ông A phải bồi thường toàn bộ kinh phí đào tạo và các chế độ ưu đãi
trong thời gian đi học cũng hợp lệ, bởi vì trước khi đi học ông A đã có cam
kết nếu vi phạm sẽ phải bồi thường và việc này cũng phù hợp với quy định tại
quyết định số 2224/2003 QĐ-UB ngày 23/7/2003 của UBND tỉnh về chế độ
ưu đãi đối với cán bộ, công chức công. Về quy trình thành lập Hội đồng xem
xét mức bồi thường cũng theo như phương án 1.
Ở phương án 2, cách xử lý của UBND huyện C đối với ông A đã thực sự
kết hợp giữa pháp luật của Nhà nước - chính sách của nhà trường và lợi ích cá
nhân (cho ông A được hưởng chế độ thôi việc trợ cấp một lần). Tuy nhiên,
hậu quả mà ông A phải chịu là quá nặng: Bị thôi việc mà vấn đề đi tìm một
việc khác vào thời điểm hiện tại đối với ông A là cũng không phải là dễ dàng.
Như vậy, phương án 2 vẫn chưa đảm bảo được yếu tố "hợp tình". Đó là hạn

chế của phương án 2.
* Phương án 3:
UBND huyện C vẫn thi hành kỷ luật ông Bùi Văn A với hình thức cảnh
cáo, không phải bồi hoàn toàn bộ kinh phí đào tạo và các chế độ ưu đãi đã
được hưởng trong thời gian đi học, mà sau đó yêu cầu ông A cố gắng hoàn
thiện hồ sơ nghỉ ốm hưởng Bảo hiểm xã hội để giải quyết cho ông A hưởng
Bảo hiểm xã hội và quay trở lại cơ quan công tác.
UBND huyện C vẫn phải thành lập hội đồng kỷ luật theo đúng qui định tại
Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ và Thông tư số

12


05/1999/TT-TCCP ngày 27/3/1999 của Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ (nay
là Bộ nội vụ). Mọi qui trình tiếp theo vẫn thực hiện đúng như ở phương án 1.
Việc yêu cầu ông A kiểm điểm trước hội nghị cán bộ, công chức của Phòng B
và sau đó là trước hội đồng kỷ luật của cơ quan, vừa mang tính răn đe đối với
người khác, lại vừa mang tính giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật cho cán bộ,
công chức. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa "nhu" và "cương" trong công tác
quản lý cán bộ - công chức.
Sau khi có quyết định thi hành hình thức kỷ luật cảnh cáo, ban lãnh đạo
UBND huyện C có thể có văn bản cho phép ông A nghỉ một thời gian đến
các cơ sở y tế mà ông đã điều trị để xin hoàn thể hồ sơ nghỉ ốm hưởng Bảo
hiểm xã hội. Sau khi hồ sơ nghỉ ốm hưởng Bảo hiểm xã hội của ông A được
hoàn thiện thì bộ phận tổ chức cán bộ chịu trách nhiệm xem xét và kết hợp
với cơ quan Bảo hiểm xã hội nơi cơ quan đang đóng bảo hiểm giải quyết chế
độ Bảo hiểm xã hội cho ông A theo đúng qui định của nhà nước. Sau thời
gian cho phép đó ông A phải quay về đơn vị công tác và chịu sự giám sát của
Phòng B cũng như của cơ quan về chuyên môn, về ý thức chấp hành quyết
định kỷ luật và ý thức cầu tiến bộ. Để thực hiện việc này UBND huyện C

cùng các tổ chức đoàn thể trong cơ quan yêu cầu ông A phải có cam kết riêng.
Đó là 3 phương án để giải quyết tình huống trên, mỗi phương án đều có
những ưu điểm - hạn chế nhất định và có cả kế hoạch thực hiện.
Từ sự phân tích trên, em chọn phương án thứ 3 để giải quyết tình huống
vì so với 2 phương án trên, phương án thứ 3 có những ưu điểm nổi bật hơn
- ít hạn chế hơn và có tính khả thi hơn.
Cụ thể như sau:
Thứ nhất, ưu điểm cơ bản của phương án 3 là đã kết hợp hài hoà chính sách
pháp luật của Nhà nước, kỷ cương của cơ quan với nguyện vọng - quyền lợi

13


chính đáng của cá nhân ở đây là ông A. UBND huyện C áp dụng hình thức
cảnh cáo cũng đã đủ để giáo dục ông A trong việc chấp hành nghiêm chỉnh kỷ
luật của người cán bộ - công chức. Đồng thời, cách giải quyết cho ông A quay
trở lại cơ quan công tác, một mặt phù hợp với truyền thống nhân đạo của dân
tộc ta; mặt khác sẽ tạo cho ông A tư tưởng thoải mái, nhẹ nhõm yên tâm công
tác khi thấy bản thân được đơn vị công tác quan tâm tạo cơ hội để làm việc
phấn đấu. Đây cũng là động lực thúc đẩy ông A đem hết năng lực của mình
cống hiến cho cơ quan. Điều này có ý nghĩa hết sức to lớn khi mà công tác
đào tạo và sử dụng cán bộ đang được Đảng và Nhà nước ta coi là nhiệm vụ
quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ hai, một hạn chế của phương án 3 đó là việc tập thể Lãnh đạo UBND
huyện xử lý kỷ luật ông A như vậy có thể sẽ tạo ra một "tiền lệ" trong quản
lý. Từ đó dẫn đến việc giáo dục tư tưởng cho cán bộ - công chức gặp một số
khó khăn nhất định. Tuy nhiên, việc cho ông A quay trở lại làm việc cũng như
hoạt động công tác chuyên môn tích cực của ông A sẽ là một minh chứng rõ
ràng rằng UBND huyện C sẽ là một môi trường xứng đáng cho công tác tham
mưu, giúp việc cho Thường trực huyện ủy trong chỉ đạo điều hành và sự phấn

đấu của cán bộ - công chức trong cơ quan. Như vậy hạn chế của phương án 3
là không đáng kể và có thể khắc phục được.
Qua phân tích có thể khẳng định phương án 3 là phương án có tính khả thi
hơn phương án 1 và phương án 2. Vì vậy em chọn phương án 3 để giải quyết
tình huống nêu trên và tổ chức thực hiện theo kế hoạch đã nêu ra trong
phương án với cách giải quyết này, ông A sẽ có tư tưởng thoải mái, nhẹ
nhõm, yên tâm công tác khi thấy bản thân được nhà trường quan tâm tạo cơ
hội để công tác và phấn đấu. Đó cũng là động lực thúc đẩy ông A đem tài
năng của mình cống hiến cho nhà trường. Mặt khác nó cũng hạn chế được sự
thiệt hại về kinh tế cho UBND huyện C cũng như cho huyện.

14


V. KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN ĐÃ CHỌN:
* Các bước thực hiện (lượng hóa các công việc):
Bước 1: Lãnh đạo UBND huyện C, Chủ tịch công đoàn cơ quan, Trưởng
phòng Nội vụ, Trưởng phòng B họp để thống nhất kế hoạch và hướng giải
quyết sai phạm của ông A; đồng thời yêu cầu ông A viết bản tự kiểm điểm, tự
nhận hình thức kỷ luật.
Bước 2: Phòng B họp kiểm điểm ông A, ghi bên bản báo cáo kết quả lên
Lãnh đạo UBND huyện.
Bước 3: Tổ chức họp toàn thể cán bộ công chức trong cơ quan để kiểm
điểm cán bộ A; đồng chí Chủ tịch UBND huyện phân tích, chỉ rõ sai phạm và
rút kinh nghiệm bài học cho ông A và cho toàn thể cán bộ công chức, về quản
lý hoạt động của Phòng B và của cơ quan. Chủ tịch UBND huyện ký Quyết
định thành lập Hội đồng xử lý kỷ luật.
Bước 4: Hội đồng kỷ luật cơ quan họp để xét hình thức kỷ luật và ra quyết
định kỷ luật. Căn cứ vào các văn bản luật pháp, căn cứ hồ sơ hội đồng kỷ luật
cơ quan UBND huyện C và qua ý kiến phân tích của các thành viên trong hội

đồng, Lãnh đạo đồng thời là chủ tịch Hội đồng kỷ luật cơ quan quyết định
hình thức kỷ luật với hình thức cảnh cáo, không phải bồi hoàn toàn bộ kinh
phí đào tạo và các chế độ ưu đãi đã được hưởng trong thời gian đi học, mà sau
đó yêu cầu ông A cố gắng hoàn thiện hồ sơ nghỉ ốm hưởng Bảo hiểm xã hội
để giải quyết cho ông A hưởng Bảo hiểm xã hội và quay trở lại cơ quan công
tác.
Bước 5: Thông báo hình thức kỷ luật đối ông A trong tập thể cơ quan
UBND huyện C.
Bước 6: Kiểm tra lại toàn bộ quá trình xem xét, tiến hành các thủ tục xử lý
vi phạm của ông Bùi Văn A.
Bước 7: Họp Lãnh đạo cơ quan và Hội đồng xử lý kỷ luật để rút kinh

15


nghiệm, bài học từ tình huống trên, kết hợp làm công tác giáo dục tư tưởng
trong toàn cơ quan. Tổng họp, xây dựng báo cáo với cấp trên về kết quả xử lý
vi phạm đối với công chức Bùi Văn A
* Lịch trình tiến hành công việc
Thời gian thực hiện
Bắt đầu
Kết thúc

TT

Nội dung công việc

1

Trực tiếp báo hoặc

gửi công văn yêu
cầu ông A phải làm
bản tự kiển điểm,
tường trình làm rõ
những vi phạm của
bản thân, tự nhận
một hình thức kỷ
luật.
- Thông báo thời 02/3/2004
gian làm việc của
Phòng B (nơi ông A
làm việc trước khi
nghỉ) cụ thể là thời
gian họp toàn thể
cán bộ, công chức
trong Phòng B để
ông A tự kiểm điểm
trước Phòng.
Tổ chức cho Phòng
B họp kiểm điểm
ông A và báo cáo
6/3/2004
kết quả lên Lãnh
đạo UBND
Họp toàn thể cán bộ
công chức trong cơ
quan để kiểm điểm
11/3/2004
ông A.
Họp Hội đồng xử lý

17/3/2004
kỷ luật để xét và ra
Quyết định hình
thức kỷ luật
Thông báo hình

3

4

5

Thành phần
tham gia
Tập thể Lãnh đạo
UBND huyện.
Trưởng phòng B,
Chủ tịch Công
đoàn, Trưởng
phòng HC tổ
chức

5/3/2004

8/3/2004

Phòng B, Trưởng
phòng Nội vụ

16/3/2004 Toàn thể cán bộ

công chức
Hội đồng kỷ luật
17/3/2004 cơ quan, Lãnh
đạo và ông A
Hội đồng kỷ luật

16

Ghi
chú


6

7

thức kỷ luật đối với
ông A
Kiểm tra lại toàn bộ
quá trình tiến hành
các thủ tục xử lý vi
phạm của ông Bùi
Văn A
Họp Hội đồng xử lý
kỷ luật rút kinh
nghiệm và lập báo
cáo gửi lên cấp trên

18/3/2004


19/3/2004

20/3/2004

18/3/2004 cơ quan, Lãnh
đạo và ông A
Hội đồng kỷ luật
cơ quan, Lãnh
19/3/2004 đạo UBND huyện
C
Lãnh đạo UBND;
20/3/2004 Hội đồng xử lý
kỷ luật.

17


VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Qua sự việc trên, sau khi phân tích và đưa ra một số phương án giải quyết,
có thể thấy nổi lên một số vấn đề sau:
Quản lý cán bộ, công chức là một nội dung quan trọng của công tác tổ
chức cán bộ. Việc giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức trong đơn
vị là nhiệm vụ cần thiết. Trước hết phải nói rằng ý thức tổ chức kỷ luật của
bản thân ông A nói riêng và cán bộ công chức nói chung còn kém, việc chấp
hành các nội qui, qui định của cơ quan đơn vị cũng như chấp hành chủ trương
chính sách của tỉnh, pháp luật của Nhà nước còn yếu. Nguyên nhân chủ yếu là
do nhận thức của cá nhân cán bộ, công chức và việc tổ chức tuyên truyền học
tập luật pháp trong cơ quan còn hạn chế.
Công tác quản lý tổ chức và cán bộ, công chức của UBND huyện C thực

hiện còn chưa chặt chẽ, vẫn còn tạo được kẽ hở cho cán bộ - công chức lợi
dụng. Ông A nghỉ kéo dài mà cơ quan không có biện pháp xử lý kiên quyết,
dẫn đến khi sự việc xảy ra quá xa rồi thì việc áp dụng các biện pháp "cứng"
hình như ít tính nhân đạo hơn, không kết hợp hài hoà được giữa việc thực thi
pháp luật với lợi ích cá nhân. Hậu quả có thể sẽ không lường trước được nếu
vấn đề của ông A trở thành một "tiền lệ".
2. Kiến nghị đề xuất:
Từ việc xử lý tình huống cụ thể này, em xin đưa ra một vài kiến nghị sau:
Thứ nhất: Trong công tác cán bộ phải đặc biệt chú trọng với công tác quản
lý cán bộ lấy đó làm căn cứ để lập qui hoạch cán bộ, kế hoạch đào tạo - bồi
dưỡng cán bộ có hiệu quả.

18


Thứ hai: Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nhận thức; giáo
dục ý thức trách nhiệm, chấp hành kỷ luật trong thi hành nhiệm vụ của cán bộ
- công chức.
Thứ ba: Các cơ quan chức năng giúp việc cho UBND huyện cần tham
mưu, xây dựng các chính sách đãi ngộ thích hợp để thu hút nhân tài tham gia
vào xây dựng và phát triển kinh tế của tỉnh nhà.
Trong giai đoạn hiện nay, dưới tác động của xu hướng toàn cầu hoá và hội
nhập, công tác đào tạo bồi dưỡng và quản lý cán bộ - công chức phải được coi
là một nhiệm vụ quan trọng để đáp ứng mục tiêu vì một nền hành chính nhà
nước trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện
đại hoá để quản lý có hiệu lực - hiệu quả.
Qua thời gian học tập tại trường; được sự giúp đỡ của Ban giám hiệu, các
thầy cô trong trường, với sự nỗ lực của bản thân, phần tiểu luận cuối khoá của
em được hoàn thành trong thời gian ngắn và chỉ dừng lại ở một tình huống cụ
thể trong thực tiễn quản lý Nhà nước - rất mong được sự đóng góp của quý

thầy cô và các bạn./.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
--------------------------1- Căn cứ Pháp lệnh cán bộ, công chức ngày 26 tháng 2 năm 1998; Pháp
lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ công chức ngày
28/4/2000 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ
công chức ngày 29/4/2003.
2- Nghị định số 35/2005/NĐ-CP ngày 17/3/2005 của Chính phủ về việc xử
lý kỷ luận cán bộ công chức.
3. Thông tư số 05/TT-TCCP hướng dẫn thực hiện Nghị định 97/1998/NĐCP của Chính Phủ.
4. Quyết định số 1843/1994/QĐ-UB ngày 10/8/1999 của UBND tỉnh Phú
Thọ "Về việc ban hành chế độ đối với cán bộ đi học".
Ghi chú: Vụ việc xảy ra tại thời điểm năm 2001 đến năm 2004 do vậy
việc xử lý vẫn tuân thủ các văn bản còn hiệu lực Pháp lý tại thời điểm đó.

20


NHẬN XÉT CHẤM ĐIỂM TIỂU LUẬN
----------------1. Điểm tiểu luận (sau khi thống nhất):...............................................................
Bằng số:....................... Bằng chữ: .................................................................
2. Nhận xét:.........................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................

Giảng viên chấm 1

Giảng viên chấm 2

(Ký, ghi rõ họ tên)

(Ký, ghi rõ họ tên)

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG CHẤM TIỂU LUẬN
(Ký, đóng dấu)

21



×